Lục Tổ Huệ
Năng
Lục Tổ Huệ Năng quê quán ở Phạm Dương, cha chẳng may mất sớm,
ngày ngày phải gánh củi ra chợ bán để nuôi mẹ. Một hôm, nhân
gánh củi đến nhà người mua, nghe nhà bên cạnh tụng Kinh Kim
Cang, Ngài liền khai ngộ. Sau đó, Ngài t́m đến Ngũ Tổ ở Huỳnh Mai
để cầu đạo. Tổ hỏi :"Ông là người phương nào, muốn cầu việc ǵ
?". Ngài nói :"Đệ tử là người Tân Châu Lănh Nam, từ xa đến lễ
bái, chỉ cầu làm Phật, chẳng cầu việc ǵ khác". Tổ nói :"Ông là
người Lănh Nam, cũng là kẻ quê mùa, sao có thể làm Phật được ?".
Ngài đáp rằng :"Người có Nam-Bắc, Phật tánh vốn chẳng có Nam-Bắc,
thân hèn hạ này với thân Ḥa thượng chẳng đồng, nhưng Phật tánh
đâu có sai biệt !". Tổ thấy Ngài có căn khí lanh lợi nên thâu
nhận làm đệ tử, bảo theo chúng làm việc ở nhà sau. Ngài đảm nhận
việc bửa củi, giă gạo trải qua hơn tám tháng.
Một ngày
nọ, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn ra thông cáo :
Nếu có vị nào hiểu đạt lư đạo, Tổ sẽ truyền y, bát cho để làm Tổ
thứ sáu. Thần Tú là người học cao hiểu rộng nhất trong chúng, cố
nhiên được đồ chúng coi như xứng đáng nhất hưởng vinh dự ấy, bèn
làm một bài kệ tŕnh chỗ hiểu biết và biên nơi vách nhà chùa.
Kệ rằng :
"Thân thị
Bồ-đề thọ
Tâm như minh cảnh
đài Thời thời cần phất
thức Vật sử nhạ trần ai
!"
Dịch nghĩa :
"Thân là cây
Bồ-đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn siêng lau chùi
Chớ để dính bụi bặm
!"
Ai đọc qua cũng khoái trá, và thầm nghĩ
thế nào tác giả cũng lănh được phần thưởng xứng đáng. Nhưng sáng hôm
sau, vừa thức giấc, đồ chúng rất đỗi ngạc nhiên thấy một bài kệ khác
viết bên cạnh, bài kệ như sau :
Kệ rằng :
"Bồ-đề bổn vô thọ
Minh cảnh diệc phi đài
Bổn lai vô nhất
vật Hà xứ nhạ trần ai ?"
Dịch nghĩa :
"Bồ-đề vốn không
cây Gương sáng cũng chẳng
đài Xưa nay không một
vật Chỗ nào dính bụi bặm ?"
Tác giả của bài kệ sau là một ông tăng
quen lo tạp dịch dưới bếp, suốt ngày chỉ biết bửa củi, giă gạo cho
chùa. Diện mạo ông ta quá tầm thường đến không mấy ai để ư nên bấy
giờ toàn thể đồ chúng rất đỗi ngạc nhiên. Nhưng Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn
thấy ở ông tăng không tham vọng ấy một pháp khí có thể thống lănh
tăng chúng sau này, và nhất định truyền y, bát cho ông. Nhưng Tổ có
ư lo, v́ hầu hết môn đồ của Tổ đều chưa đủ huệ nhăn để nhận ra ánh
trực giác thâm diệu trong những hàng chữ trên của người bửa củi giă
gạo là Sư Huệ Năng, nên nếu công bố vinh dự đắc pháp ấy lên e nguy
hại đến tánh mạng người thọ pháp. Nên Tổ ngầm bảo Sư Huệ Năng đúng
canh ba, khi đồ chúng ngủ yên, vào tịnh thất dạy việc ... Khi Sư vào
thất, Tổ Hoằng Nhẫn giảng Kinh Kim Cang cho Ngài nghe, khi nghe
đến đoạn :"Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh hương vị
xúc pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm", th́ Ngài đại ngộ
kêu lên :"Đâu ngờ tánh ḿnh vốn tự thanh tịnh ! Đâu ngờ tánh ḿnh
vốn không sanh diệt ! Đâu ngờ tánh ḿnh vốn tự đầy đủ ! Đâu ngờ tánh
ḿnh vốn không dao động ! Đâu ngờ tánh ḿnh hay sanh muôn pháp !"...
Ngũ Tổ biết Ngài đă ngộ tự tánh, liền dạy :"Chẳng biết bản tâm,
học pháp vô ích; nếu nhận bản tâm ḿnh, thấy bản tánh ḿnh, gọi
là Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật". Thế rồi Tổ trao lại y, bát cho Sư làm tín vật chứng tỏ cái bằng cớ đắc pháp vô thượng, và
báo trước hậu vận của đạo thiền sẽ rực rỡ hơn bao giờ hết
... Ngũ Tổ
c̣n dặn Sư chớ vội nói pháp, hăy tạm mai danh ẩn tích nơi rừng núi
chờ đến thời sẽ công khai xuất hiện và hoằng dương chánh pháp. Tổ
c̣n nói y, bát truyền lại từ Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma làm tín vật sau này đừng
truyền xuống nữa, v́ từ đó Thiền sẽ được thế gian công nhận, không
cần phải dùng y, bát tiêu biểu cho tín tâm. Ngay trong đêm ấy, Lục
Tổ từ giă Ngũ Tổ ra đi ...
Lục Tổ đi đến Tào Khê th́ bị bọn ác t́m theo, nên phải lánh nạn
trong đám thợ săn nơi Tứ Hội ở phương nam, trải qua mười lăm năm,
thường v́ thợ săn tùy nghi thuyết pháp. Đoàn thợ săn giao cho
Ngài giữ lưới. Ngài lấy tâm từ bi làm hoài băo, gặp những con
vật như sói, cọp, nai, thỏ v.v… bị sa lưới đều t́m cách để phóng
sanh. Phóng sanh như vậy được 15 năm, vật mạng được cứu không
thể tính đếm hết, lại c̣n cảm hóa được nhóm thợ săn đổi nghề
hướng thiện. Sau này, Lục Tổ ở tại Đạo Tràng Tào Khê làm hưng
thạnh Thiền tông, truyền khắp mọi nơi. |