Thiền Sư Tông
Diễn
Thiền sư Tông
Diễn hiệu Chân Dung
(1640 -
1711) - (Đời pháp thứ 37, tông Tào Động) quê ở thôn Phú Quân, huyện Cẩm Giang. Khi Sư
còn bé cha mất sớm, mẹ tảo tần buôn gánh bán bưng để nuôi con. Khi
Sư được 12 tuổi, một hôm bà mẹ chuẩn bị gánh hàng ra chợ bán, dặn
con :“Mẹ có mua sẵn một giỏ cáy (cua) để sẵn ở ao, trưa nay con giã
cáy nấu canh, trưa về mẹ con mình dùng”. Bà gánh hàng đi rồi, gần
đến giờ nấu cơm, Sư ra ao xách giỏ cáy lên định đem giã nấu canh
như lời mẹ dặn, song nhìn thấy những con cáy tuôn những hạt bọt ra,
dường như khóc rơi từng giọt nước mắt. Xót thương quá, Sư không
đành đem giã, lại đem đến ao giở nắp giỏ thả hết ...
Trưa bà mẹ đi
bán về, vừa nhọc nhằn vừa đói bụng, hai mẹ con lên mâm cơm ngồi ăn,
bà không thấy món canh cáy liền hỏi lý do. Sư thưa :“Con định đem
đi giã, thấy chúng nó khóc, con thương quá nên đem thả hết
!”. Bà mẹ
nổi trận lôi đình, không ăn cơm, chạy lấy roi đánh Sư. Sợ quá, Sư
chạy một mạch không dám ngó lại. Bà mẹ đuổi theo không kịp, mệt lả
đi trở về. Ngang đây đứa con trai bà mất luôn ...
Khoảng hơn ba
mươi năm sau, đã thành Hòa thượng Trụ trì, Sư nhớ đến mẹ liền về quê
cũ tìm kiếm. Đến một cái quán bán nước trà, một bà lão đầu tóc bạc
phơ đang châm trà bán cho khách. Sư vào quán ngồi, chờ bà lão rảnh,
hỏi thăm lai lịch bà lão. Bà thở dài than : - Tôi chồng mất sớm, có
một đứa con trai mà nó bỏ đi mất từ khi được mười hai tuổi. Thân già
hôm sớm không ai, tôi phải lập quán bán nước trà, kiếm chút ít tiền
sống lây lất qua ngày.
Sư hỏi
: - Bà lão ưng ở chùa
không, chúng tôi thỉnh bà về chùa để nương bóng từ bi trong những
ngày già yếu bệnh hoạn ? Bà nói
: - Tôi già rồi đâu làm gì
nổi mà vào chùa công quả, không làm mà ăn cơm chùa tội lắm. Sư nói
: - Bà đừng ngại, ở chùa
có nhiều việc, người mạnh gánh nước bửa củi, nấu cơm, người yếu quét
sân, nhổ cỏ, miễn có làm chút ít, còn thì giờ tụng kinh niệm Phật là
tốt. Bà lão thấy thầy
có lòng tốt bèn nói : - Nếu Thầy thương giúp kẻ cô quả này, tôi
rất mang ơn. Sư hẹn ít hôm sau sẽ có người đến đón bà về chùa. Về chùa,
Sư họp tăng chúng hỏi ý kiến có thuận cho bà lão cô quả ấy ở chùa
không. Toàn chúng đều động lòng từ bi đồng ý mời bà lão về chùa.
Sư cho cất một am tranh gần chùa, cho người đi rước bà lão về đấy ở.
Mỗi hôm,
Sư phân công bà lão quét sân chùa hay nhổ cỏ, tùy sức khỏe của bà.
Sư luôn luôn nhắc nhở bà tu hành ... Thời gian sau, bà lão
bệnh, Sư cảm biết bà không sống được bao lâu, song vì có duyên sự
phải đi vắng năm bảy hôm. Trước khi đi, Sư dặn dò trong chúng :“Nếu bà lão có mệnh hệ gì thì chúng Tăng nên để bà trong áo quan
đừng đậy nắp, đợi tôi về sẽ đậy sau”. Đúng như lời Sư đoán, bốn năm
hôm sau bà tắt thở, Tăng chúng làm đúng như lời Sư dặn, chỉ để bà
trong áo quan mà không đậy nắp. Vài hôm sau Sư về, nghe bà lão mất
còn để trong áo quan. Sư về nhìn mặt lần chót rồi đậy nắp quan lại. Sư nói to :
- Như
lời Phật dạy : Một người tu hành ngộ đạo cha mẹ sanh thiên, nếu lời
ấy không ngoa, xin cho quan tài bay lên hư không để chứng minh lời
Phật ! Sư liền cầm tích trượng
gõ ba cái, quan tài từ từ bay lên hư không, rồi hạ xuống
... Ngang đây mọi người mới biết bà lão là mẹ của Sư.
Sau này, chỗ
quán bán trà của mẹ, Sư lập một ngôi chùa tên “Mại Trà Lai Tự” ở
thôn Phú Quân, huyện Cẩm Giang. Am bà ở để tên là “Dưỡng Mẫu Đường”
ở phủ Vĩnh
An. |