|
PHÁP MÔN NIỆM
PHẬT
Pháp Sư : HT. TỊNH
KHÔNG
Biên dịch : Vọng Tây cư
sĩ
Giảng tại Cư Sĩ Lâm Phật Giáo
Singapore, tháng 10 - 2003
Tất cả chư
Phật Như Lai, không vị nào không khuyên người
cầu sinh Tịnh Độ. Các vị đều không chút ḷng
riêng tư, không chút tâm thiên lệch mong muốn
chúng ta mau chóng thành Phật. Phương pháp thù
thắng nhất chính là cầu sinh Tây Phương tịnh độ,
nhanh hơn so với bất cứ pháp môn nào, thù thắng
ngay trong thù thắng. Thế nhưng, thực tế có một
số người nghiệp chướng sâu nặng nên không tin
tưởng. Phật Bồ Tát cũng từ bi, tùy hỷ dạy pháp
môn khác mà chúng ta thường gọi “tám vạn bốn
ngàn”. Vậy “tám vạn bốn
ngàn” là ǵ ? Là do không tin tưởng pháp
môn này, không t́nh nguyện học tập, không muốn
cầu sinh Tây Phương Cực Lạc, chư Phật liền mở ra
tám vạn bốn ngàn pháp môn. Phật mở ra vô lượng
pháp môn v́ những người nghiệp chướng sâu
nặng.
Tường tận
thông suốt đạo lư này chúng ta mới cảm nhận sự
may mắn khi gặp được pháp môn của Phật, nhất
định sẽ không xả bỏ, không nghi hoặc, mà một môn
thâm nhập, tuyệt đối không động tâm. Với pháp
môn khác, chúng ta có thể tán thán nhưng không
cùng học. Thiện Tài Đồng tử có năm mươi ba lần
tham học, pháp môn nào ngài cũng tham quan, cũng
đều lướt qua. Thế nhưng ngài không học theo mà
chân thành niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ. Cuối cùng
ngài cũng về được thế giới Tây Phương Cực
Lạc.
“Thọ dụng cụ túc đệ thập
cửu”( Kinh Vô Lượng
Thọ Phật _19)
Phẩm
Kinh này giới thiệu với
chúng ta từ dung mạo đoan chính trang nghiêm,
phước đức vô lượng, trí tuệ thông suốt, thần
thông tự tại, tuổi thọ dài lâu, cho đến hoàn
cảnh sinh hoạt thường ngày của người ở thế giới
Tây phương Cực lạc. Đó là đích đến mà tất cả
chúng sinh trên thế gian ngày đêm đang mong cầu.
Nếu cầu phước, cầu trí tuệ, tự tại, thọ mạng,
th́ thế giới cực lạc mới được viên măn. Chúng ta
không thể cầu được ở thế giới này. Trong tám khổ
có “cầu bất
đắc khổ”, sau khi đă cầu chúng ta vẫn khổ.
Người thế giới Tây Phương cực lạc không hề có ư
niệm như vậy, tất cả đều tự nhiên, đều lưu xuất
từ tánh đức, cho nên thân tâm của chánh báo
thanh tịnh quang minh, y báo phước đức thù
thắng, như trên đă nói “siêu thế hy
hữu”. Trong Kinh,
Thế Tôn nói pháp phương tiện khéo léo, tuy nói
nhưng “ứng
niệm hiện tiền, vô bất cụ túc”. Người thế
gian thường hay nói “tâm nghĩ sự
thành”, nếu không chú tâm, chăm chỉ nỗ lực,
sự việc không thể thành. Thế giới Tây Phương cực
lạc cũng vậy, vừa nghĩ đến th́ liền thành
tựu.
“Phục thứ cực
lạc thế giới, sở hữu chúng
sanh”
Cái “sở hữu” này ư
nghĩa rất dài, phía sau kinh văn có câu “hoặc dĩ sanh, hoặc
hiện sanh, hoặc đương sanh”. “Dĩ sanh” là đă
sanh đến thế giới Tây Phương cực lạc của Phật A
Di Đà, thành Phật đă mười kiếp. “Hiện sanh”là
hiện tại sanh đến thế giới Tây Phương cực
lạc. “Đương
sanh” chính là chúng ta, hiện tại chưa đi
nhưng chắc chắn sẽ đi. “Đương sanh” là
sự khẳng định đương nhiên. Khi chính ḿnh hạ
quyết tâm, không chút nghi ngờ cũng không lo
nghĩ đă tạo nghiệp ǵ trong đời quá khứ, hiện
tại th́ chỗ “đương sanh”
này, chúng ta sẽ có phần. Sau khi gặp được pháp
môn, chỉ nghĩ đến Phật A Di Đà, không nên nghĩ
những thứ khác. Trong kinh Đại thừa, đức Phật
thường nói “niệm
một câu Nam Mô
A Di Đà Phật tiêu hết tám mươi ức
kiếp sinh tử trọng tội”. Chúng ta niệm có thể tiêu
được hay không ? Không thể ! Khi chúng ta
niệm “đau
mồm rát họng chỉ uổng công”. Vậy phải như
thế nào khi niệm mới có sức mạnh lớn như vậy ?
Chính là người không có chút ḷng nghi hoặc,
trong tâm ngoài Phật hiệu không có bất cứ một
tạp niệm nào. Niệm được như vậy sẽ tiêu hết tám
mươi ức kiếp sinh tử trọng tội. Không nên khởi
vọng tưởng, thậm chí thế gian pháp, chúng ta
cũng không nghĩ đến, không nghĩ quá
khứ, không nghĩ hiện tại cũng
không nghĩ tương lai mà chỉ nghĩ “A Di Đà Phật”,
chỉ nghĩ Kinh Vô
Lượng Thọ, như vậy mới tiêu được tám mươi ức
kiếp sinh tử trọng tội. Chỉ cần khởi một vọng
niệm, công phu của chúng ta hoàn toàn bị phá
hỏng. Do đó phải triệt để buông bỏ, vạn duyên
buông bỏ, đương sanh ngay trong một đời này nhất
định thành tựu, nhất định văng
sanh.
“Giai đắc như
thị, chư diệu sắc thân, h́nh mạo đoan nghiêm,
phước đức vô lượng, trí tuệ minh liễu, thần
thông tự tại”
Câu “giai đắc như thị,
chư diệu sắc thân” là tổng thuyết. Diệu sắc
thân chính là “h́nh mạo đoan
nghiêm”. Chúng ta đă đọc phần trước bài
kinh, sinh đến thế giới Tây Phương cực lạc, thế
giới đó là hóa thân, không phải là thai sinh nên
rất khó tưởng tượng. Người thế gian luôn từ nhỏ
lớn dần tuổi tác theo thời gian, mỗi năm đều
thay đổi. Trong khi đó, thế giới Tây Phương
không như vậy. Thân người ở thế giới Tây Phương
hoàn toàn giống Đức
Phật A Di Đà, giống từ tướng mạo thân thể đến
phước đức vô lượng. Tuổi thọ ở ngay trong phước
đức, tuổi thọ là phước đức đệ nhất, là vô lượng
thọ, trí tuệ thông suốt, viên
măn.
Quá
khứ, hiện tại, vị lai, quá khứ vô cùng, tương
lai vô tận, cơi này phương khác, tất cả các pháp
không ǵ là khó thông đạt. Kinh Hoa Nghiêm và
Kinh Lăng Nghiêm cũng đă nói
qua vấn đề này. Trước đây chúng tôi cũng thường
hay giảng “chư pháp sở
sanh”, chư pháp là tất cả pháp thế xuất thế
gian, sanh là sanh khởi. Tất cả pháp từ đâu mà
ra ? Đức Phật nói “do tâm hiện
ra”, tâm đó là tự tánh, là chân tâm của
chúng ta. Chúng ta “minh tâm kiến
tánh” th́ làm sao không biết được tác dụng
của tâm tánh. Hư không, vũ trụ, vô lượng vô biên
tinh cầu, và tất cả chúng sanh từ đâu mà ra
? - Từ trong tự tánh của chúng
ta biến hiện ra. Khi minh tâm kiến tánh rồi,
đương nhiên thứ ǵ cũng thông suốt tường tận,
không cần phải học.
Đức
Phật nói “sở
tri chướng”, cái sở tri chướng này đă
chướng ngại chúng ta, vốn dĩ chúng ta phải biết
nhưng hiện tại lại không biết. Cho nên ư nghĩa
của “sở tri
chướng” và “phiền năo
chướng” không giống nhau. Bản thân phiền
năo là chướng ngại, c̣n sở tri th́ không chướng
ngại. Có loại chướng ngại chúng ta nhận biết,
nhưng không phiền năo. Tất cả chúng sinh đều
có “trí tuệ
đức tướng Như Lai”, nhưng v́ sao hiện tại
chúng ta không có trí tuệ thông suốt này ? Kinh
Phật thường nói, các Tổ
sư Đại
đức cũng thường
nói: “sở tri
chướng” là do khởi tâm động niệm. Kinh Lăng
Nghiêm, tôn giả Phú Lâu Na hỏi rất hay: “tất cả chúng sinh có
vô minh, vô minh bất giác sinh ba cơi, vậy vô
minh này có từ lúc nào, do nguyên nhân ǵ mà
ra?”. Đức Phật đáp cũng rất diệu: “vô minh chính là sở
tri chướng”, “tri kiến lập tri là vô minh
bổn”. Tri kiến chính là trí tuệ thông suốt.
Sai sót chính ở chúng ta muốn lập tri. Lập tri
là phân biệt, khởi tâm động niệm, liền chướng
ngại trí tuệ thông
suốt.
Chư
Phật Như Lai thường ở trong định, không phải
ngồi xếp bằng tĩnh tọa như người thường vẫn
nghĩ. Trong định chính là tâm định, không kể đến
thân, “đi
đứng nằm ngồi” đều trong định, đó mới gọi
là thiền định. Định là không khởi tâm, không
động niệm, không phân biệt, không chấp trước.
Định sinh huệ, tác dụng của định chính là trí
tuệ thông suốt. Chúng ta không có trí tuệ bởi v́
tâm động. Cho nên, nếu muốn cầu trí tuệ, không
khó, chúng ta chỉ cần tận lực giữ ǵn tâm, không
để cho cảnh giới bên ngoài xoay chuyển, phiền
năo dao động. Chúng tôi thường khích lệ các vị
đồng tu bằng mười sáu chữ cần buông bỏ
:“tự tư tự
lợi, danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần, tham
sân si mạn”. Sau khi buông bỏ, chúng ta liền ở ngay
trong định. Tuy định này không sâu nhưng có thể
sinh trí tuệ. Có công phu th́ khi mở bất cứ kinh
điển ǵ, chúng ta sẽ không có chướng ngại, mà
trên tinh thần “nguyện giải Như Lai
chân thật nghĩa” như kệ khai kinh đă nói,
mặc dù dĩ nhiên sự hiểu của chúng ta vẫn chưa đủ
sâu, chưa đủ viên măn. Tuy nhiên, sự hiểu đó lại
chính xác, không sai, v́ khi đó, chúng ta đă có
sức định.
Nếu
không buông bỏ mười sáu chữ vừa nêu, một chút
định cũng không có, th́ không những
Đức Phật giảng chúng ta sẽ
không hiểu, mà chú giải của Tổ
sư chúng ta xem cũng không
hiểu. Sở tri chướng ở ngay đó. Tâm càng thanh
tịnh, trí tuệ càng lớn. Lời nói của
Cổ đức rất
có đạo lư : tu hành Phật pháp chính là một
chữ “buông”. Buông
bỏ, từ sơ phát tâm đến quả vị Như Lai không hề
khác biệt. Buông bỏ một phần, chúng ta liền có
thể nh́n thấu một phần, nh́n thấu là trí tuệ
thông suốt. Chúng ta liền có thể được một phần
tự tại, thần thông tự tại, đều có thể có được
người của thế giới Tây Phương cực lạc, vi diệu
không thể nói hết.
Chữ “đương sanh” rất
vi diệu. Ngày nay, chúng ta hạ quyết tâm tu Tịnh
Độ, một ḷng một dạ, đó chính là đương sanh,
ngay đời này nhất định sẽ không c̣n luân hồi,
nhất định được sinh Tịnh Độ. Bản thân tràn đầy
tín tâm, sinh đến thế giới Tây Phương cực lạc
những thứ này thảy đều có được, thậm chí c̣n
viên măn. Bồ Tát Thất Địa tiếp cận viên măn, lên
trên Bát Địa, Cửu Địa, Thập Địa Đẳng Giác đều
viên măn. Ngôi thứ năm chính là quả vị Như Lai
cứu cánh.
Lư do của
việc lựa chọn pháp môn niệm
Phật
Vừa rồi đến
Trung Quốc, chúng tôi gặp rất nhiều vị đồng tu
Phật giáo trách móc rằng tại sao chúng tôi chỉ
tuyên dương pháp môn Tịnh Độ mà không nói đến
các pháp môn khác. Họ lo lắng chẳng lẽ tương lai
chỉ có Tịnh Độ, c̣n các tông phái khác đều không
có.
Kỳ thật họ
không hiểu cách thức giảng kinh. Giảng bộ kinh
nào, nhất định phải tán thán bộ kinh đó. Chúng
tôi giảng Tịnh Độ mà lại tán thán Thiền chẳng
phải làm tṛ cười hay sao ? Đây là một nguyên
tắc cơ bản. Bất cứ tông phái nào, khi giảng
giải, chúng ta phải tán thán để người nghe mới
có thể sinh tín tâm, có thể thọ dụng, y giáo
phụng hành, chân thật được lợi
ích.
Trước
đây, một nữ tu của Thiên Chúa Giáo cho biết cô
rất thích nghe chúng tôi giảng Mai Quế Kinh ở
trường. Chúng tôi cũng đă hứa sẽ t́m thời gian
thích hợp, cố gắng giảng qua một lượt trong
pḥng thu rồi tặng các vị phổ biến bên Thiên
Chúa Giáo. Khi giảng Mai Quế Kinh, chúng tôi
cũng tán thán Thiên Chúa Giáo, tán thán
Giê-Su, không thể so sánh họ
không bằng Đức
Phật A Di Đà. Cho nên chúng ta cần hiểu, đây là
qui củ của giáo học. Không luận giảng bộ kinh
điển nào, không luận giảng pháp môn ǵ, nhất
định phải tán thán. Chúng ta gặp đệ tử Phật môn
tu học pháp môn tông phái khác, đều tán thán,
không nên hủy báng, xem
thường.
Trong “Du Già Bồ Tát giới
bổn”, có một điều trọng giới, “khen ḿnh chê
người”, dường như xếp ở điều thứ nhất.
Trọng giới thứ nhất là tán thán chính ḿnh, hủy
báng các tông phái khác. Tất cả pháp môn có
trong nhà Phật không luận Đại thừa, Tiểu thừa,
tông môn giáo hạ, hiển giáo mật giáo,
kinh điển mà chúng ta y theo
đều là Thích Ca Mâu Ni Phật nói. Nếu hủy báng
kinh điển là báng Phật báng pháp. Có không ít
người y theo pháp môn này tu hành thành tựu,
chẳng phải như vậy là báng cả tăng sao ? Cho nên
có thể tán thán chính ḿnh nhưng không được hủy
báng Tam Bảo, v́ hủy báng Tam Bảo, quả báo địa
ngục A Tỳ, không thể văng
sinh.
Người tu Tịnh
Độ chúng ta đối với bất kỳ tông phái nào cũng
đều tán thán. Chúng ta cung kính Tam Bảo, không
những tán thán Tam Bảo, mà cần tán thán cả các
tôn giáo khác. Mặc dù tôn giáo không giống nhau,
nhưng họ đều “do tâm hiện ra, do
thức hiện bày”. Chúng ta và họ đồng một
gốc, đồng một nguồn cội, đồng một tự tánh, v́
vậy không nên xem thường, hủy báng. Không tường
tận đạo lư này, th́ việc học Phật chỉ là học
suông, Phật hiệu cũng là niệm suông, làm sao có
thể thành tựu. Thích Ca Mâu Ni Phật năm xưa c̣n
ở đời, đối với rất nhiều tôn giáo khác của Ấn
Độ, Thế Tôn không hề hủy báng, không hề xem
thường. Chúng ta cũng nên theo đó mà học. Căn
tính tuy không giống nhau, không luận thuộc tôn
giáo nào cũng đều khuyên người làm thiện, lánh
ác.
Thời đại này
là loạn thế, tai nạn triền miên, chúng ta trải
qua ngày tháng rất khổ đau. Mọi người trên toàn
thế giới bất luận tôn giáo, chủng tộc, quốc gia
đều một mong cầu khẩn thiết “xă hội an định,
thế giới ḥa b́nh”. Do đó, những năm gần đây,
chúng tôi ở Singapore, Úc Châu vẫn đang tiếp tục
làm công tác đa nguyên văn hóa, đoàn kết tôn
giáo, chủng tộc, hóa giải hiểu lầm, xung đột, hy
vọng mọi người toàn tâm toàn lực cống hiến v́ an
định xă hội, thế giới ḥa
b́nh.
Chúng
tôi có đưa ra tổng cương lĩnh gói gọn trong tám
chữ “đối
đăi b́nh đẳng, ḥa thuận cùng
sống”.
Không nên phân tôn giáo, không phân chủng
tộc, không phân quốc gia, không phân văn hóa,
cũng không phân giàu nghèo sang hèn, chúng ta
đều mong cầu đối đăi b́nh đẳng với nhau, ḥa
thuận cùng sống. Ngoài ra chúng tôi c̣n có năm
cụm từ mười chữ “bao dung, tôn trọng,
kính yêu, quan tâm, chăm sóc”.
Sau cùng tổng kết lại, chúng ta “hợp tác lẫn
nhau”. Chỉ với mấy câu như vậy,
chúng tôi đi khắp nơi trên thế giới, đến đâu
cũng khuyên mọi người thực tiễn triệt để, bản
thân quyết làm được, sau đó tiến thêm một bước
yêu cầu người trong đạo tràng làm được, dần dần
yêu cầu người trong thị trấn nhỏ thảy đều làm
được.
Chúng tôi ở
Úc châu trong một trấn nhỏ chỉ có tám ngàn người
đều làm thành công, v́ mỗi cá nhân đều có ḷng
tự trọng, đều hy vọng trấn nhỏ này trở thành
trấn mô phạm b́nh đẳng, đối đăi ḥa thuận. Chúng
tôi dự đoán khoảng vài năm nữa, trấn nhỏ này sẽ
trở nên nhất nh́ thế giới về ḥa b́nh an định.
Người dân xem người già như cha mẹ ḿnh, xem
người trẻ như con em ruột thịt mà tôn trọng,
kính yêu, quan tâm, chăm sóc lẫn
nhau.
Xây dựng thế
giới ḥa b́nh là việc không dễ dàng. Hội nghị
ḥa b́nh của Liên Hiệp Quốc tổ chức ở Thái Lan
vừa qua, sau khi tham gia, chúng tôi cảm thấy
không thực tiễn. Từ đó mới thấy, thật may mắn
khi ở Toowoomba h́nh thành một mô phạm ḥa b́nh,
mà người Trung Quốc gọi là kiểu mẫu. Đó chính là
mở rộng của thôn Di Đà, trấn nhỏ này đầy đủ điều
kiện thiên nhiên, cư dân bao gồm hai loại người:
trí thức, đa số có tŕnh độ văn hóa rất cao,
chiếm một phần tư nhân khẩu; ba phần tư c̣n lại
phần lớn đă về hưu, và người về hưu ở các nơi
đến đây dưỡng lăo. Do điều kiện thiên nhiên ưu
đăi nên nơi này c̣n gọi là trấn về hưu dưỡng
lăo. Cứ cuối tuần, chúng tôi thường tổ chức buổi
tiệc ấm cúng dành cho khách thập phương tề tựu.
Số lượng khách ngày càng tăng là điều đáng mừng.
Mục đích buổi tiệc nhằm giáo dục, dẫn dắt nhân
dân thực tiễn đối đăi b́nh đẳng, ḥa thuận, cùng
thực hiện bao dung, tôn trọng, kính yêu, quan
tâm, chăm sóc, hợp tác lẫn nhau. Hy vọng lănh
đạo các tôn giáo trong trấn nhỏ này, từ dẫn đầu
đến thúc đẩy để trở thành trấn nhỏ ḥa b́nh nhất
thế giới.
“H́nh mạo đoan nghiêm, phước đức vô
lượng, trí huệ minh liễu, thần thông tự
tại”, đều là đức năng tự tánh vốn đủ. Chúng
ta có trí tuệ, có sức định sẽ khai mở được trí
năng này vô tận vô lượng vô biên. Mọi người đều
có thể khai mở.
“Thọ dụng
chủng chủng, nhất thiết phong
túc”
Tám chữ này
chứa đựng muôn h́nh vạn vẻ. Ngày nay chúng ta có
đời sống tinh thần, đời sống vật chất không
những đủ mà c̣n rất đầy đủ, rất phong phú, không
hề kém khuyết. Kinh nêu ra một vài ví dụ các thứ
thọ dụng.
Thứ nhất là
nơi ở, “cung
điện”. Cung điện không có nghĩa là nơi ở
của đế vương thời xưa mà đó chính là nhà ở cá
nhân cùng nơi họat động đoàn
thể.
Thứ
hai, “phục
sức” là điều kiện ăn mặc sung túc. Người
thế gian ưa thích trang sức. Chư Phật Bồ
Tát cũng thường đeo anh lạc,
gọi là “chúng bảo trang
nghiêm”. Những thứ này đều tự nhiên, không
do con người thiết kế chế tạo. Thế giới Tây
Phương vốn mọi thứ đều tự nhiên, do nghĩ mà sinh
ra.
Thứ
ba, “hương
hoa”, mười phương pháp giới tất cả chúng
sinh không ai không thích hương hoa. Người ta
rất chú trọng đến vườn tược. Người giàu sang
Trung quốc thời xưa đặc biệt chú trọng đến hoàn
cảnh nơi ở. Đến tham quan Trung quốc, chúng ta
sẽ thấy c̣n lưu giữ lại rất nhiều khu vườn với
những kiến trúc đẹp mắt ở Tô Châu, Dương Châu,
Bắc Kinh. Không cần chờ đến thế giới Tây Phương
Cực Lạc, “do
nghĩ mà sinh”, chỉ cần chúng ta quán tưởng,
thế giới Tây phương liền hiện tiền trong cuộc
sống của chúng ta.
“Phan cái
trang nghiêm chi cụ, tùy ư sở tu, tất giai như
niệm”
Câu nói này
đă bao gồm hết tất cả vật chất đồ dùng trong
cuộc sống thường ngày của chúng ta, không thiếu
thứ nào. Khi nào cần dùng, nó tự nhiên hiện ra;
khi không cần nữa, nó liền biến mất. Cho nên,
đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, vào nhà của mỗi
người đều thấy sạch sẽ, bóng láng không chút bụi
trần, đồ dùng của họ cũng không cần phải cất
chứa, vô cùng vi diệu. Bởi v́ tất cả chúng sinh
thế giới Tây Phương Cực Lạc đều có năng lực
chuyển đổi năng lượng vật chất, có thể đem năng
lượng biến thành vật chất, khi cần dùng th́ thảy
đều đầy đủ, khi không cần dùng th́ chuyển biến
vật chất này quay trở về thành năng lượng nên
không cần phải cất chứa.
Trong kinh
điển nhà Phật đă giới thiệu rất nhiều cảnh giới
không thể nghĩ bàn, được khoa học gia hiện tại
chứng thực. Thế nhưng hiện tại họ không biết
dùng phương pháp ǵ để làm cho năng lượng và vật
chất tùy tâm mà chuyển biến. Người thế giới Tây
Phương Cực Lạc sớm đă biết được. Những năm đầu
khi giảng bộ kinh này, chúng tôi đă khuyên các
khoa học gia nên đến thế giới Cực Lạc “du học”. Nếu
không, kiến thức họ học được sẽ rất có hạn. A Di
Đà Phật là nhà khoa học vĩ đại nhất giữa vũ trụ
này, cho nên học khoa học th́ cần đi đến thế
giới Cực Lạc.
“Tùy ư sở tu tất giai như
niệm”, tất cả đều do tâm nghĩ sự thành, không
như thế gian đời sống gian nan khổ sở. Thích Ca
Mâu Ni Phật nói, sáu cơi của chúng ta là biển
khổ. Có ba loại khổ lớn, “khổ khổ, hoại khổ,
hành khổ”. Kinh Hoa Nghiêm nói “ba cơi đều
khổ”, dục giới ba loại khổ này thảy đều đầy
đủ, không ai có thể tránh khỏi được. Người cơi
trời sắc giới công phu thiền định sâu, không
có “khổ
khổ”, nhưng họ có “hoại
khổ”, “hành khổ”, vẫn
không được coi là tự tại. Đến được cơi vô sắc,
ngay đến thân thể này cũng không cần, không
có “hoại
khổ”, nhưng họ vẫn có “hành khổ”. Hành
khổ v́ cảnh giới này của họ không thể giữ được
măi. Họ có hạn chế của thọ mạng. Cơi trời Vô Sắc
giới cao nhất, trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ,
tuổi thọ tám vạn đại kiếp. Người thông thường
không ấn tượng sâu về con số tám vạn đại kiếp,
nhưng đối với người con Phật th́ tương đối dễ
hiểu hơn. Trong kinh luận Đức
Phật dạy, thế giới này, một lần “thành, trụ, hoại,
không” là một đại kiếp. Tám vạn đại kiếp
là “thành,
trụ, hoại, không” tám vạn lần. Thế nhưng
rốt cuộc, nó vẫn là số lượng, cùng với thời
không vô tận mà so sánh, vẫn rất ngắn ngủi. Tám
vạn đại kiếp cũng qua nhanh, khi mất định lực
vẫn bị đọa xuống sáu cơi luân hồi, không được
cứu cánh. “Ba cơi đều
khổ”, không hề có những ngày tháng tốt đẹp,
muốn trải qua ngày tháng tốt đẹp, chúng ta hăy
hướng đến, xem thế giới Tây Phương Cực Lạc kỳ
diệu dường nào.
(
Trích lục Kinh Vô Lượng Thọ Phật - Phẩm 19
)
|