Những Câu Chuyện Được Lưu Truyền Từ Thời Đức Phật
Đến Các Vị Tổ :
Một hôm trong hội Linh Sơn, Phật cầm một cành hoa sen đưa
lên và nh́n khắp đại chúng, khi nh́n thấy Tôn giả Ca-Diếp, Phật nói
:"Ta có chánh pháp nhăn-tạng, Niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô
tướng, vi diệu pháp môn ... nay phó chúc cho Ma-Ha Ca-Diếp !" ...
Sau khi Tổ Ma-Ha Ca-Diếp được Phật truyền làm Tổ, Tôn giả
A-Nan là vị đệ tử đa văn nhất của Phật mới hỏi Tổ Ca-Diếp rằng :"Đức Thế Tôn, ngoài việc truyền y Kim Lan cho sư huynh, c̣n truyền
cái ǵ nữa không ?". Tổ Ca-Diếp liền gọi :"A-Nan !". Tôn giả
A-Nan :"Dạ !". Tổ Ca-Diếp bảo :"Cây phướn trước chùa ngă !". Tôn
giả A-Nan liền ngộ ! ...
Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma ( Bodhidharma ) ra đời vào cuối
thế kỷ thứ năm, sau khi Đức Thế Tôn nhập diệt. Ngài là vị hoàng tử
thứ ba của Vua Hương Chí, Ngài sanh tại miền Nam nước Thiên-trúc.
Thuở nhỏ, Ngài đă có trí tuệ sáng suốt và tài năng phi thường. Lớn
lên, Ngài sớm nhận biết cuộc đời là vô thường, nhân sanh là đau khổ, v́ vậy Ngài không màng đến vinh hoa phú quư ở thế gian mà thường
t́m đến nương tựa cửa Thiền.
Một hôm, Tổ Bát-Nhă Đa-La ( Tổ sư thứ 27 Ấn-Độ
) vào Vương cung thuyết pháp, Vua Hương Chí (Phụ vương
của Ngài) mới đem một viên ngọc quư cúng dường cho Tổ Bát-Nhă tỏ
ḷng thành kính. Tổ Bát-Nhă liền hỏi ba vị hoàng tử con Vua rằng
:"Ở đời có thứ ǵ quư báu bằng ḥn ngọc này không?". Hai vị Hoàng-tử
lớn đồng thanh đáp rằng :"Thưa Tổ Sư, trên đời này không có vật ǵ
quư báu bằng viên bảo châu này !". Riêng Ngài th́ bảo rằng :"Thưa Tổ
Sư, viên bảo châu này đối với thế gian tuy gọi là quư, nhưng cũng
không quư bằng Pháp-bảo của nhà Phật ! V́ chỉ có Pháp-bảo của Phật
mới đưa người đến chỗ an lạc và giải thoát !". Sau đó, Ngài thọ
giáo nơi Tổ Bát-Nhă Đa-La và được Tổ truyền y bát lại làm Tổ thứ 28
ở Ấn-Độ.
Vào thời Vua Lương Vơ Đế , niên hiệu Phổ-thông
thứ 7, ngày 21 tháng 9 năm Canh-Tư, sau một thời gian vượt biển,
Ngài đến đất Quảng-Châu (Trung Hoa) để truyền bá Phật pháp theo lời
khuyên của Tổ Bát-Nhă Đa-La. Đến đây, Ngài được tiếp kiến Vua
Lương Vơ Đế. Vua hỏi Ngài :"Từ khi Trẫm lên làm Vua đến nay đă kiến
lập rất nhiều cảnh chùa, tạo tượng Phật, xây tháp, đúc chuông, in
kinh ấn tống, cúng dường Tam-Bảo rất nhiều không thể kể xiết , như
thế có được công đức không ?". Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma bảo :"Không có
công đức !". Vua ngạc nhiên hỏi :"Tại sao ?". Tổ bảo :"V́ trong tâm
niệm c̣n cầu phước báu và cầu danh vọng nên không có công đức !".
Vua lại hỏi :"Vậy muốn có công đức th́ phải làm sao ?". Tổ đáp
:"Muốn được công đức chân thật th́ trong tâm niệm không c̣n ư nghĩ
cầu phước, cầu danh ǵ cả !". Vua hỏi tiếp :"Muốn đạt đạo quả giải
thoát thành Phật th́ phải làm sao ?". Tổ bảo : "Muốn đạt
đạo quả giải thoát phải minh tâm kiến tánh mới được, không phải lấy
chút thế pháp mà cầu được. Nếu ai biết trở về với bản tâm chơn thật
của chính ḿnh tức là đă kiến tánh thành Phật rồi chứ chẳng có ǵ lạ
!". Vua nghe Tổ nói qua nhưng không lănh hội được ư chỉ cao-siêu
huyền-diệu ...
Sau khi tiếp kiến Vua xong, thấy cơ duyên
truyền đạo chưa đến, Tổ mới rời Quảng-Châu tới Lạc-Dương ở ẩn tại
chùa Thiếu Lâm trên núi Tung-Sơn, chín năm ngồi im lặng xoay mặt
vào vách ! ...
Sau có Ngài Thần Quang đến xin cầu pháp. Tổ
thấy Ngài Thần Quang lănh hội được yếu chỉ Thiền Tông, nên mới
truyền tâm pháp cho Ngài và đổi hiệu ra Huệ Khả ( tức Trí Huệ khá ). Tổ nói : "Trước kia Đức Thích-Ca Mâu-Ni dùng "Chánh-pháp nhăn-tạng, Niết-bàn diệu-tâm, thật-tướng vô-tướng, vi-diệu pháp-môn" truyền
trao cho các đời Tổ, rồi đến Ta. Giờ đây, Ta trao lại cho Ông.
Vậy Ông phải kiên cố mà giữ-ǵn hộ-tŕ đạo-giáo cho được trường-tồn
vĩnh-cửu. Sẵn đây, Ta trao pháp-y Ca-sa này lại cho Ông để làm vật
biểu tín ... Bên trong th́ Ta truyền Tâm-ấn, bên ngoài th́ Ta
truyền y bát ... Rồi từ đây về sau hăy tương truyền cho nhau
..."
Sau khi Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma phú chúc mọi việc
truyền trao chánh pháp cho Ngài Huệ-Khả xong, Ngài liền ngồi trang
nghiêm nơi pháp tọa mà thị tịch tại thành Lạc
Dương.
Vua Lương Vơ Đế được tin Ngài thâu thần tịch
diệt liền sai đem cỗ áo quan vàng đến chùa Thiếu Lâm để làm lễ khâm
liệm và an táng tại núi Hùng-Nhĩ.
Từ khi Tổ từ Ấn-Độ sang Trung Hoa trăi qua
không biết bao nhiêu là gian lao, khổ sở để truyền bá chánh pháp,
cứu độ chúng sanh. Sau khi thi-hành xong nhiệm vụ thiêng-liêng,
Ngài đă đến quốc-độ khác để khai hóa đạo lư cho nhơn-sanh.
Sau khi Tổ thị tịch an táng xong xuôi, đă ba
năm trường. Một hôm, ông Ngụy Châu Vân đi xứ nước Tây-vực về đến
núi Thông Lănh bỗng gặp Tổ đang ung dung tự tại quẩy một chiếc giày
đi. Ông Ngụy Châu Vân liền làm lễ bái chào và bạch rằng :"Tổ sư đi
đâu thế ?". Tổ đáp :"Hôm nay tôi về Tây-phương đây !". Ông Ngụy Châu
Vân vẫn thản nhiên đi, cảm thấy không có ǵ lạ. Khi về nước, ông
thuật chuyện lại cho nhà Vua và triều thần nghe, lúc ấy ai nấy cũng
đều kinh ngạc. Vua mới truyền lệnh khai cửa Tháp và mở nắp quan tài
ra xem, quả nhiên không thấy hài cốt của Tổ đâu cả, chỉ c̣n sót
lại một chiếc giày mà thôi. Khi đó từ Vua quan Tăng-sĩ cho đến
chúng dân ai nấy cũng đều cho là việc phi- thường chưa thừng có !
... Vua Lương Vơ Đế lúc bấy giờ lấy làm kính phục lắm, khi hồi
triều, Ngài liền ban chiếu chỉ xây Tháp thờ Tổ sư ngay tại chùa
Thiếu Lâm và sắc chỉ trong các Chùa ở Trung Hoa cũng như các nước
lân cận nên thờ h́nh tượng Tổ, v́ Ngài là vị Tổ sư xứng đáng đắc
đạo Bồ-Đề ! ...
Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma khi sang Trung Hoa gặp
ngài Thần
Quang đến xin cầu pháp. Ngài Thần Quang thưa: "Ngưỡng mong Ḥa
thượng từ bi mở cửa cam lộ, rộng độ chúng sanh !"
Tổ bảo :"Diệu đạo vô thượng của chư Phật
phải nhiều kiếp tinh cần, khó làm làm được, khó nhịn nhịn được, hàng
đức nhỏ trí cùn, ḷng đầy khinh mạn, há có thể chịu nổi nhọc nhằn
lao khổ cầu pháp chân thừa sao?"
Thần Quang nghe quở bèn rút dao
bén đoạn ĺa cánh tay trái đưa lên trước mặt Tổ . Tổ biết gặp được
pháp khí, bèn nói :"Chư Phật lúc phát tâm cầu đạo v́ pháp bỏ
thân, nay ông chặt tay trước mặt tôi, vậy muốn cầu ǵ ?".
Nói xong,
Tổ bèn đổi tên Thần Quang ra Huệ Khả.
Khả bạch :"Pháp ấn của
chư Phật, con có thể nghe được chăng?"
Tổ nói :"Pháp ấn của chư
Phật không thể nhờ vào người khác !"
Khả bạch :"Nhưng tâm con
không an, xin Ḥa thượng dạy con phương pháp an tâm
?"
Tổ nói :
"Đem tâm ra đây ta an cho !"
Khả bạch :"Con t́m măi mà chẳng thấy
tâm đâu cả !"
Tổ nói :"Ta đă an tâm cho ngươi rồi !"
...
Ngay khi đó Ngài Huệ Khả liền ngộ !
...
Một hôm, Ngài Huệ Khả bạch với Tổ rằng :"Từ đây trở đi con bặt hết
các duyên !".
Tổ nói :"Coi chừng rơi vào Không
!"
Khả bạch :"Rơ ràng thường biết làm sao Không được
?"
Tổ bảo :"Đây là chỗ truyền của chư Phật, chớ nên hoài nghi
!"...
Khi Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma sắp tịch, Tổ hỏi lại chỗ sở ngộ của các đồ đệ,
đến lượt Ngài Huệ Khả, Ngài chỉ bước ra đảnh lễ ba lạy rồi lui. Tổ
nói :"Ông được phần tủy của ta !". Từ đó, Ngài Huệ Khả được Tổ
Bồ-Đề Đạt-Ma truyền y bát, kế thừa làm Tổ thứ hai ở Trung Hoa !
...
Một ngày kia, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn ra thông cáo :
Nếu có vị nào hiểu đạt lư đạo, Tổ sẽ truyền y, bát cho để làm Tổ
thứ sáu. Thần Tú là người học cao hiểu rộng nhất trong chúng, cố
nhiên được đồ chúng coi như xứng đáng nhất hưởng vinh dự ấy, bèn
làm một bài kệ tŕnh chỗ hiểu biết và biên nơi vách nhà chùa.
Kệ rằng :
"Thân thị bồ đề thọ
Tâm như minh cảnh
đài
Thời thời cần phất
thức
Vật sử nhạ trần ai."
Dịch nghĩa :
"Thân là cây bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn siêng lau chùi
Chớ để dính bụi bặm."
Ai đọc qua cũng khoái trá, và thầm nghĩ
thế nào tác giả cũng lănh được phần thưởng xứng đáng. Nhưng sáng hôm
sau, vừa thức giấc, đồ chúng rất đỗi ngạc nhiên thấy một bài kệ khác
viết bên cạnh, bài kệ như sau :
"Bồ-đề bổn vô thọ
Minh cảnh diệc phi đài
Bổn lai vô nhất
vật
Hà xứ nhạ trần ai ?"
Dịch nghĩa :
"Bồ đề vốn không
cây
Gương sáng cũng chẳng
đài
Xưa nay không một
vật
Chỗ nào dính bụi bặm ?"
Tác giả của bài kệ sau là một ông tăng
quen lo tạp dịch dưới bếp, suốt ngày chỉ biết bửa củi, giă gạo cho
chùa. Diện mạo ông ta quá tầm thường đến không mấy ai để ư nên bấy
giờ toàn thể đồ chúng rất đỗi ngạc nhiên. Nhưng Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn
thấy ở ông tăng không tham vọng ấy một pháp khí có thể thống lănh
tăng chúng sau này, và nhất định truyền y, bát cho ông. Nhưng Tổ có
ư lo, v́ hầu hết môn đồ của Tổ đều chưa đủ huệ nhăn để nhận ra ánh
trực giác thâm diệu trong những hàng chữ trên của người bửa củi giă
gạo là Sư Huệ Năng, nên nếu công bố vinh dự đắc pháp ấy lên e nguy
hại đến tánh mạng người thọ pháp. Nên Tổ ngầm bảo Sư Huệ Năng đúng
canh ba, khi đồ chúng ngủ yên, vào tịnh thất dạy việc ... Khi Sư vào
thất, Tổ Hoằng Nhẫn giảng Kinh Kim Cang cho Ngài nghe, khi nghe
đến đoạn :"Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh hương vị
xúc pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm", th́ Ngài đại ngộ
kêu lên :"Đâu ngờ tánh ḿnh vốn tự thanh tịnh ! Đâu ngờ tánh ḿnh
vốn không sanh diệt ! Đâu ngờ tánh ḿnh vốn tự đầy đủ ! Đâu ngờ tánh
ḿnh vốn không dao động ! Đâu ngờ tánh ḿnh hay sanh muôn pháp !"...
Ngũ Tổ biết Ngài đă ngộ tự tánh, liền dạy :"Chẳng biết bản tâm ,
học pháp vô ích; nếu nhận bản tâm ḿnh, thấy bản tánh ḿnh, gọi
là Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật ...". Thế rồi Tổ trao lại y, bát cho Sư làm tín vật chứng tỏ cái bằng cớ đắc pháp vô thượng, và
báo trước hậu vận của đạo thiền sẽ rực rỡ hơn bao giờ hết. Ngũ Tổ
c̣n dặn Sư chớ vội nói pháp, hăy tạm mai danh ẩn tích nơi rừng núi
chờ đến thời sẽ công khai xuất hiện và hoằng dương chánh pháp. Tổ
c̣n nói y, bát truyền lại từ Tổ Đạt-Ma làm tín vật sau này đừng
truyền xuống nữa, v́ từ đó Thiền sẽ được thế gian công nhận, không
cần phải dùng y, bát tiêu biểu cho tín tâm. Ngay trong đêm ấy Sư
Huệ Năng từ giă Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn ra đi ...
Lục Tổ Huệ Năng sau khi được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền y bát
bảo trở về phương nam, Tổ đi đến ngọn núi Dứu Lănh bị Huệ Minh đuổi
theo kịp. Tổ để y, bát trên tảng đá rồi vào rừng ẩn. Huệ Minh đến
gặp y, bát; song giở lên không nổi; gọi :"Hành giả ! Tôi đến đây
v́ pháp, không phải v́ y bát !". Tổ nghe gọi, bước ra ngồi trên
tảng đá bảo :"Nếu ông v́ pháp hăy b́nh tâm nghe tôi nói !". Huệ
Minh đứng yên lặng giây lâu ... Tổ bảo :"Không nghĩ thiện, không
nghĩ ác, cái ǵ là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh ?". Nghe
câu này, Huệ Minh liền đại ngộ ! ...
Thiền sư Pháp Thường ở núi Đại Mai ban sơ đến tham vấn Mă Tổ
Đạo Nhất, Sư hỏi :"Thế nào là Phật ?". Mă Tổ đáp :"Tức tâm là
Phật !". Sư liền đại ngộ, từ giă về núi ẩn tu. Sau Mă Tổ sai một
vị tăng đến thăm ḍ Sư. Tăng hỏi
:"Ḥa thượng được Mă Tổ dạy ǵ mà
về núi ẩn tu ?". Sư đáp :"Mă Tổ nói với tôi "Tức tâm là Phật" nên
bèn đến ở núi này !". Vị Tăng nói :"Gần đây Mă Tổ lại nói "Phi tâm
phi Phật" ! Sư bảo :"Ông già mê hoặc người chưa có ngày xong, mặc ông "phi tâm phi Phật", tôi chỉ biết "Tức tâm là Phật !". Vị
tăng trở về thưa lại với Mă Tổ, Mă Tổ nói với đại chúng :"Trái mai
đă chín !"...
Thiền sư Huệ Tịch đến phiên chăn trâu dưới sườn núi, thấy
một vị tăng lên núi, không bao lâu lại xuống. Sư hỏi :"Thượng
tọa sao không lưu lại trong núi ? ". Tăng nói :"Chỉ v́ nhân
duyên chẳng hợp". Sư hỏi :"Có nhân duyên ǵ thử nói xem ? ".
Tăng nói :"Ḥa thượng hỏi tôi tên ǵ ? Tôi đáp Qui Chơn. Ḥa
thượng hỏi Qui Chơn ở đâu ? Tôi đáp không được !". Sư bảo :"Thượng
tọa trở lên thưa với Ḥa thượng con nói được. Ḥa thượng hỏi nói
thế nào th́ nên đáp Qui Chơn từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân,
ư". Vị tăng trở lên núi nói lại đúng như lời Sư dạy. Thiền sư Qui Sơn
quở :"Kẻ nói suông vô ích, đây là lời bậc Thiện tri thức của năm
trăm người ! " ...
Một hôm có hai vị tăng đến tham vấn Thiền sư Huệ Minh, đệ tử
ngài Pháp Nhăn, Thiền sư Huệ Minh hỏi :"Quư vị ở đâu đến ?" Vị
tăng đáp :"Chúng tôi ở thành đô đến !". Ngài bảo :"Thượng tọa rời
thành đô đến núi này, th́ ở thành đô thiếu Thượng tọa, ở núi này
dư Thượng tọa. Nếu dư th́ ngoài tâm có pháp, nếu thiếu th́ tâm
pháp không trùm khắp. Đáp được th́ ở, đáp không được th́ đi ?".
Hai vị tăng suy nghĩ hồi lâu nhưng không đáp được, định đi về th́
Thiền sư đưa tay lên vẽ một ṿng tṛn và nói : "Tṛn đồng thái hư,
không thiếu không dư !". Hai vị tăng liền ngộ ! ...
Thiền sư Đạo Ngộ một hôm bảo với đệ tử Sùng Tín rằng :"Từ
ngày ngươi vào đây làm thị giả cho ta, ta chưa từng chẳng chỉ dạy
tâm yếu cho ngươi ... Khi ngươi dâng trà lên, ta v́ ngươi tiếp.
Khi ngươi bưng cơm đến, ta v́ ngươi nhận. Khi ngươi xá lui ra th́
ta gật đầu. Chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu ?".
Có một Thiền Sư hỏi một vị tăng mới vừa lên núi :"Ta
nghe nói ở Trường An náo loạn dữ lắm, ông có nghe không ?". Vị tăng
bảo :"Dạ, nước con an ổn !". Thiền Sư hỏi :"Cái đó do ông học được
hay do thưa hỏi được ?". Vị tăng đáp :"Dạ ! Không do học cũng không
do thưa hỏi !". Thiền Sư lại hỏi tiếp : "Tại sao nhiều người không
học, không thưa hỏi, họ lại chẳng có ?". Vị tăng trả lời :"Chẳng bảo
họ không có ! Họ có mà tại họ không chịu thừa nhận !". Câu đáp này
rất là hay, làm cho vị Thiền Sư gật đầu thán phục ! ...
Một hôm Tổ Nam Nhạc Hoài Nhượng thấy Thiền sư Mă Tổ Đạo Nhất
ra tảng đá ngồi thiền suốt ngày. Tổ đến hỏi :"Đại Đức ngồi thiền
để làm ǵ ?". Đạo Nhất thưa :"Để làm Phật !" . Hôm sau, Tổ lấy ḥn
gạch đến phiến đá bên cạnh Đạo Nhất ngồi thiền để mài. Đạo Nhất
thấy lạ hỏi :"Thầy mài gạch để làm ǵ ?" Tổ đáp :"Mài để làm gương." Đạo Nhất thưa :"Mài gạch đâu thể làm gương được !" Tổ bảo :
"Ngồi thiền đâu thể thành Phật được !". Đạo Nhất hỏi :"Vậy làm thế
nào mới phải ?" Tổ bảo :"Như trâu kéo xe, nếu xe không đi, đánh
xe là phải hay đánh trâu là phải ?". Đạo Nhất lặng thinh
...
Thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn cùng Nham Đầu Toàn Khoát đi
đến Ngao Sơn gặp trở tuyết, dừng lại nghỉ. Một hôm hai huynh đệ
thảo luận. Tuyết Phong nói :"Tôi thật c̣n chưa ổn". Nham Đầu bảo :
"Chỗ nào ông c̣n chưa ổn hăy nói ra xem ?". Tuyết Phong nói :"Khi tôi
mới đến Diêm Quan thấy thượng đường nói nghĩa sắc không liền được
chỗ vào". Nham Đầu bảo :"Từ đây đến ba mươi năm rất kỵ không nên
nói đến !". Tuyết Phong nói :"Tôi thấy bài kệ của Động Sơn qua sông :
Thiết kỵ tùng tha mích; điều điều dữ ngă sơ; cừ kim chánh thị ngă; ngă kim bất thị cừ ( Rất kỵ t́m nơi khác; xa xôi bỏ lảng ta; va
nay chính là ta; ta nay chẳng phải va ). Nham Đầu bảo :"Nếu thế
ấy, tự cứu cũng chưa tột". Tuyết Phong nói :"Sau tôi hỏi Đức Sơn :
Việc trong tông thừa từ trước con có phần chăng ?... Đức Sơn đánh một
gậy hỏi : Nói cái ǵ ? ... Tôi khi đó giống như thùng lủng đáy !".
Nham Đầu nạt :"Ông chẳng nghe nói : từ cửa vào chẳng phải của
báu trong nhà ?". Tuyết Phong hỏi :"Về sau làm thế nào mới phải ?". Nham Đầu bảo :"Về sau muốn xiển dương Đại giáo, mỗi mỗi tự trong
hông ngực ḿnh lưu xuất, sau này cùng ta che trời che đất đi !".
Tuyết Phong nhân câu này đại ngộ, liền đảnh lễ, đứng dậy kêu luôn :
"Sư huynh ! Sư huynh ! Ngày nay mới thành đạo ở Ngao Sơn !"
...
Đời Đường bên Trung Hoa có Thiền sư Tùng Thẩm ( thường gọi là
Triệu Châu ) khi c̣n là một vị Sa-di đi hành khước, tức là đi tham
vấn thiền, ông đến Thiền sư Phổ Nguyện ở Nam Tuyền. Ngài Nam Tuyền
hỏi :"Ông là Sa-di có chủ hay Sa-di không chủ ?". Ngài Triệu Châu đáp
:"Dạ, con là Sa-di có chủ". Ngài Nam Tuyền hỏi :"Chủ ở chỗ nào ?".
Ngài Triệu Châu bèn bước tới gần, khoanh tay cuối đầu nói rằng
:"Giữa mùa đông giá rét, kính chúc Ḥa thượng được trăm phước !".
Ngài Nam Tuyền gật đầu và cho ngài Triệu Châu vào chúng.
Một hôm khác ngài Triệu Châu đến tham vấn Nam Tuyền (Phổ Nguyện), hỏi
:
- Thế nào là đạo
?
Nam Tuyền đáp
:
- Tâm b́nh thường là đạo.
- Lại có thể nhắm tiến đến chăng
?
- Nghĩ nhắm tiến đến là trái.
- Khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo
?
- Đạo chẳng thuộc biết chẳng biết, biết là vọng giác, không biết
là vô lư. Nếu thật đạt đạo th́ chẳng nghi, ví như hư không thênh
thang rỗng rang đâu thể gắng nói phải quấy
? Ngay câu nói này, Sư ngộ đạo ! ...
Một hôm tướng quốc Bùi Hưu tới một ngôi chùa cổ, nh́n
thấy h́nh của một vị cao tăng treo trên vách, mới hỏi vị tăng trụ
tŕ :"H́nh cao tăng ở đây, vậy cao tăng đâu ?". Vị tăng trụ tŕ
không đáp được, bèn nói với tướng quốc Bùi Hưu rằng :"Khi năy mới
thấy có một vị Thiền Sư tới đây, vậy ông hăy hỏi thử ông ấy xem ?".
Liền khi đó tướng quốc
Bùi Hưu tới gặp Thiền Sư Hoàng Bá và nói :"Bạch Ngài ! Vừa năy tôi
có hỏi vị tăng trụ tŕ ở đây một câu mà vị ấy tiếc lời không đáp,
vậy xin ngài có thể giải đáp giúp dùm tôi không ?". Thiền Sư Hoàng
Bá đáp :"Được ! Ông hỏi đi ?". Tướng quốc Bùi Hưu vừa chỉ h́nh cao
tăng trên vách vừa hỏi :"H́nh cao tăng ở đây, vậy cao tăng đâu ?".
Thiền Sư Hoàng Bá gọi lớn : "Bùi Hưu !". Tướng quốc Bùi Hưu vừa nghe
liền đáp :"Dạ !". Thiền Sư Hoàng Bá hỏi :"Ở đâu ?". Tướng quốc Bùi
Hưu liền ngộ !" ...
[ Giải thích : Những ai chưa từng học qua Thiền hoặc
chưa nghiên cứu về Thiền khi nghe qua giai thoại Thiền này sẽ rất
lấy làm lạ không hiểu ư của Tổ Hoàng Bá muốn chỉ điều ǵ ? Chỉ có
những ai hiểu biết chút ít về Thiền khả dĩ mới nhận ra được : Ư của
Tổ muốn chỉ cái thấy mà không suy nghĩ ( Nhà Phật gọi là Phật tánh :
Tánh giác sáng suốt, thanh tịnh, giải thoát ) nó thường hằng tri,
hằng giác trong tâm thức của mỗi con người chúng ta, mà tại ta
vô-minh, vọng tưởng nên không thấy, không nghe, không biết ! ...
Trong Kinh Phật cũng thường nói chúng ta có 3 thân : báo thân, pháp
thân và hóa thân (ứng thân). Báo thân th́ có sanh diệt, khi chúng ta
hết duyên th́ phải ra đi, tức thân này mất; c̣n pháp thân (tức là
linh giác) th́ không có sanh diệt, không có mất. V́ vậy giác linh
của vị cao tăng đó vẫn hiện diện ở nơi đó chứ không ở đâu hết ! ...
]
Một hôm có người đến hỏi ngài Triệu Châu Tùng Thẩm :"Bạch
Ḥa thượng, con chó có Phật tánh không ?". Ngài đáp :"Không". Ông
hỏi tiếp :"Tại sao trong kinh nói : tất cả chúng sanh đều có Phật
tánh, mà riêng con chó không có Phật tánh ?". Ngài trả lời :"V́ bị
nghiệp thức che đậy !". Hôm khác có người đến hỏi ngài :"Bạch Ḥa
thượng, con chó có Phật tánh không ?". Ngài đáp :"Có". Ông ấy lại
hỏi : "Đă có Phật tánh tại sao lại chui vào đăy da nhơ nhớp như vậy
?". Ngài trả lời :"V́ biết mà cố phạm
!".
Ngài Ngưỡng Sơn đến hỏi đạo với Thiền sư Trung Ấp :"Bạch Ḥa
thượng, thế nào là nghĩa Phật tánh?" Thiền sư Trung Ấp đáp :"Ta nói
thí dụ này cho ông nghe : Như có một con khỉ ở trong cái nhà có sáu
cái cửa, bên ngoài có một con khỉ đến mỗi cửa kêu chéo chéo, con
khỉ bên trong cũng đáp lại chéo chéo". Nghe tới đó ngài Ngưỡng Sơn
hỏi :"Bạch Ḥa thượng, nếu con khỉ trong nhà ngủ th́ sao ?". Ngay
khi đó Thiền sư Trung Ấp bước xuống ṭa nắm lấy tay ngài Ngưỡng Sơn
nói :"Chúng ta thấy nhau rồi ! Chúng ta thấy nhau rồi !"
...
Một hôm nọ sau khi Tổ Bá Trượng giảng dạy cho chư tăng xong,
ngài nh́n xuống dưới ṭa th́ thấy c̣n một ông già ngồi lại. Tổ hỏi
:"Ông c̣n chuyện ǵ nghi ngờ mà không chịu đi ?". Ông già thưa :"Bạch Ḥa thượng, con không phải là người, con là kiếp hồ ly .
Thuở xưa con là vị tăng ở núi này, có Phật tử đến hỏi : Người đại
tu hành c̣n rơi vào nhân quả không ? Con đáp : Không rơi vào nhân
quả. Do con trả lời Không nên phải đọa làm thân chồn năm trăm đời !
... Nay xin Ḥa Thượng nói cho con một câu để chuyển kiếp chồn này
!" . Tổ bảo :"Ông hỏi lại ta đi ?". Ông già hỏi :"Người đại tu hành
có rơi vào nhân quả không ?". Tổ đáp :"Không lầm nhân quả !". Ngay
câu nói này ông già đại ngộ, chuyển được kiếp hồ ly !
...
Có một vị cư sĩ đến hỏi Thiền sư Quốc Nhất ở Cảnh Sơn
:
- Bạch Ḥa thượng có thiên đường không
?
Ngài đáp
:
- Không.
- Bạch Ḥa thượng có địa ngục không
?
- Không.
- Bạch Ḥa thượng có tội không
?
- Không.
- Bạch Ḥa thượng có phước không
?
- Không.
Với câu hỏi nào Ngài cũng trả lời "Không".
Sau này, ông cư sĩ đến t́m
ngài Trí Tạng Tây Đường, đệ tử của Mă Tổ Đạo Nhất, và cũng hỏi bao
nhiêu câu hỏi đó
:
- Bạch Ḥa thượng có thiên đường không
?
Ngài đáp
:
- Có.
- Bạch Ḥa thượng có địa ngục không
?
- Có.
- Bạch Ḥa thượng có tội không
?
- Có.
- Bạch Ḥa thượng có phước không
?
- Có.
Với bao nhiêu câu hỏi đó, hai vị Thiền sư nổi tiếng, một vị bảo
không, một vị bảo có, ông cư sĩ hoang mang nên hỏi tiếp ngài Trí
Tạng Tây Đường
:
- Bạch Ḥa thượng, Ngài nói như vậy có đúng chưa
?
Ngài Trí Tạng Tây Đường hỏi
:
- Trước khi đến đây ông đă hỏi ai rồi
?
- Dạ, con đă hỏi Ḥa Thượng Cảnh Sơn.
- Ḥa thượng nói với ông thế nào
?
- Con hỏi câu nào Ḥa thượng cũng nói "không". Tại sao con hỏi Ngài
câu nào Ngài cũng nói "có" hết ?
Ngài Trí Tạng Tây Đường hỏi lại
:
- Ḥa thượng Cảnh Sơn có vợ không
?
- Dạ không.
- Ông có vợ không
?
- Dạ có.
- Ḥa thượng Cảnh Sơn không vợ cho nên cái ǵ Ngài cũng nói
"không" !
... Ông có vợ nên ta nói cái ǵ cũng "có" ! ...
Thiền sư Trí
Nhàn ở Hương Nghiêm trong hội Qui Sơn Linh Hựu, tham học ở Bá
Trượng Thiền Sư. Sư là bậc tuyệt thế thông minh, phàm hỏi một,
trả lời đến mười ... Thế mà khi Tổ Qui Sơn hỏi :"Ta nghe ông là
người thông minh lanh lợi, ư hiểu thức tưởng cội gốc sanh tử, giờ
đây thử nói một câu khi cha mẹ chưa sanh ?"... th́ tâm thần ông mờ
mịt, chả biết trả lời ra sao ! ... Sư bèn trở về liêu đem những sách
vở đă học mà đọc lại từ đầu chí cuối, mong t́m được câu trả lời ...
Nhưng rốt cuộc cũng chẳng t́m thấy ! ... Chán nản, Sư liền than :"Toàn là bánh vẽ, chẳng thể nào ăn vô !". Nhiều lần Sư khẩn cầu Tổ
Qui Sơn nói ra cho biết, th́ Tổ Qui Sơn trả lời :"Nếu ta nói ra
cho ngươi biết, nhất định sau nầy ngươi sẽ mắng ta, v́ đó là cái
biết của ta, không ăn thua ǵ đến ngươi cả !"... Sư tức ḿnh đem
tất cả kinh luận ra đốt hết, và nói :"Đời này chẳng học Phật pháp
nữa, chỉ làm tăng thường làm việc cơm cháo, khỏi nhọc tâm thần !"
... Nói rồi Sư từ giă Thiền sư Qui Sơn qua đất Nam Dương ở chỗ
di tích Quốc Sư Tuệ Trung. Một hôm, nhân đi cuốc cỏ trên núi, vô
ư liệng một miếng miểng sành trúng vào thân cây trúc, liền nghe phát
ra một tiếng ngân lạ lùng ... Sư bỗng hoát nhiên đại ngộ ! ... Sư
vội vàng trở về tắm gội, đốt hương ngưỡng vọng về Tổ Qui Sơn mà rằng
:"Ḥa thượng thật là bậc đại từ , ân Ngài c̣n hơn cha mẹ sinh thành. Nếu lúc trước v́ ta mà Ngài nói ra, th́ ngày nay sao ta được sự
đắc ngộ nầy ?" ...
Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền lúc ở trong hội của Thiền sư Hy
Vận tại núi Hoàng Bá mấy năm trời mà không hỏi đạo một câu nào. Một
hôm Thầy quản chúng bảo ngài :"Sao ông không lên hỏi Ḥa thượng đạo
lư ?". Ngài nói :"Dạ thưa, tôi không biết hỏi ǵ ?" ... Thầy quản
chúng bảo :"Lên hỏi Ḥa thượng thế nào là đại ư Phật pháp ?". Nghe
xong ngài mừng quá, liền y hậu chỉnh tề lên hỏi :"Bạch Ḥa thượng, thế nào là đại ư Phật pháp ?". Tổ Hoàng Bá cầm cây gậy đập cho ba
gậy rồi đuổi xuống. Ngài Lâm Tế thất vọng vô cùng. Hôm sau Thầy
quản chúng hỏi thăm, Lâm Tế mới nói rằng :"Tôi hỏi xong, Ḥa
thượng liền đánh, không có lời dạy nào !". Thầy quản chúng bảo
:"Ngày mai đi hỏi nữa đi !". Ngài nghe lời, hôm sau y hậu đàng hoàng
đến hỏi Tổ Hoàng Bá :"Bạch Ḥa thượng, thế nào là đại ư Phật pháp
?". Tổ lại đập ngài ba gậy nữa ! Ngài không c̣n ḷng dạ nào để hỏi
nữa ... Thế nhưng Thầy quản chúng vẫn bảo :"Nên đi hỏi nữa đi
!".
Lần thứ ba, y hậu chỉnh tề, Ngài đến hỏi Tổ :"Bạch Ḥa thượng,
thế nào là đại ư Phật pháp ?". Lần này ngài cũng bị đập ba gậy rồi
đuổi xuống ! ... Nản chí vô cùng, không biết nói ǵ hơn, ngài khóc
rồi sửa soạn hành lư để ra đi. Thầy quản chúng thấy vậy hỏi : "Ḥa thượng trả lời câu hỏi của ông như thế nào ?". Ngài thưa :"Tôi
không có nhân duyên ở đây, ba lần hỏi Ḥa thượng, ba lần bị ăn đ̣n. Tôi tự buồn không lănh hội được thâm chỉ. Nay xin từ giă thầy ra
đi !". Thầy quản chúng bảo :"Nếu khi ông đi, nên đến từ giă Ḥa
thượng rồi hăy đi !". Liền khi đó Thầy quản chúng đến thất của
Thiền sư Hoàng Bá và thưa rằng :"Ông Lâm Tế Nghĩa Huyền là người có
khả năng sau này làm lợi ích cho Phật pháp, Ḥa thượng ráng t́m
cách độ ông ấy !". Ngài Hoàng Bá chỉ mỉm cười mà không nói ǵ. Hôm
sau ngài Lâm Tế lên từ giă Ḥa thượng :"Con không có duyên ở đây,
xin phép Ḥa thượng cho con ra đi ...". Thiền sư Hoàng Bá bảo :"Ngươi qua chỗ Đại Ngu, ông ấy sẽ nói cho
!". Nghe lời Ḥa thượng chỉ, Lâm Tế lên đường qua đến chỗ Đại Ngu ... ( Đại Ngu là đệ tử của
Qui Tông, Qui Tông là đệ tử của Mă Tổ Đạo Nhất; cũng như Hoàng Bá là
đệ tử của Bá Trượng, Bá Trượng là đệ tử của Mă Tổ Đạo Nhất). Ngài
Đại Ngu hỏi Lâm Tế :"Ông ở đâu đến ?". Lâm Tế đáp :
"Dạ con ở Hoàng Bá
đến !". Ngài hỏi tiếp :"Hoàng Bá dạy ông cái ǵ ?" Lâm tế đáp :"Con ba lần hỏi đại ư Phật pháp, ba lần đều bị ăn đ̣n, không biết
con có lỗi hay không lỗi ?". Nghe xong, ngài Đại Ngu
mỉm cười và nói :"Hoàng Bá thật là tâm lăo bà, đă chỉ tột cùng cho ngươi mà ngươi
c̣n nói có lỗi, không lỗi ?". Vừa nghe tới đó Lâm Tế liền ngộ và la
lên :"Phật pháp của Hoàng Bá rất ít !". Ngài Đại Ngu bảo :"Vừa rồi
ông nói có lỗi, không lỗi, bây giờ thấy cái ǵ mà nói Phật pháp của
Hoàng Bá rất ít ?" Lâm Tế liền thoi vào sườn của Đại Ngu một cái !
Đại Ngu nói :"Thầy ngươi là Hoàng Bá, thôi về đi !" . Thế là Lâm Tế
ngộ đạo làm Tổ ! ...
[ BACK ] |