Hai Mươi Tám Vị Tổ Sư Thiền
( Ấn Độ
)
1. Tổ Ma-Ha
Ca-Diếp
(Mahakasyapa) Đồng
thời đức Phật
Ngài
ḍng Bà-la-môn (Brahmana) ở nước Ma-Kiệt-Đà, cha
tên Ẩm-Trạch, mẹ tên Hương-Chí. Thuở bé, Ngài
dung nghi trang nhă, toàn thân màu vàng, ánh
sáng chiếu rất xa. Thầy tướng xem tướng Ngài
nói:
─
Đứa bé nầy đời trước có phước đức thù thắng, lẽ
ưng xuất gia !
Cha
mẹ Ngài nghe nói lo sợ, cùng nhau thầm bàn (sẽ
cưới vợ đẹp để làm nhụt chí của nó). Vừa lớn
lên, cha mẹ liền lo chọn người lập gia thất cho
Ngài, nhưng Ngài một bề từ chối, sau cùng bất
đắc dĩ Ngài phải nói:
─ Có
người con gái nào thân đồng màu sắc như con, con
mới ưng cưới.
Cha
mẹ Ngài bèn đúc một tượng vàng, đẩy đi khắp
trong nước, t́m người nữ nào giống màu sắc ấy,
cưới cho Ngài. Quả nhiên, gặp được một cô con
gái giống hệt như Ngài, thế là Ngài phải lập gia
đ́nh.
Bởi
đời đức Phật Tỳ Bà Thi (Vipasyin), sau khi Phật
Niết-bàn, chúng xây tháp thờ Xá-lợi, trong tháp
có an trí một pho tượng Phật phết vàng. Lâu ngày
pho tượng trên mặt bị lở khuyết. Khi ấy, Ngài
ca-diếp là thợ đúc vàng, có cô gái nhà nghèo, v́
thấy mặt Phật hư khuyết, cô c̣n một đồng tiền
vàng đem đến nhờ Ngài ca-diếp nấu ra để phết lại
tượng Phật. Thấy cô phát tâm tu bổ tượng Phật,
Ngài rất hoan hỷ đứng ra làm chu tất việc nầy,
nhơn đó, hai người cùng nguyện đời đời sẽ làm vợ
chồng, mà coi như đôi tri-kỷ, chớ không v́ t́nh
dục.
Do
phước báo đó nên 91 kiếp thân thể hai vị đều
toàn một màu vàng. Sau sanh cơi Phạm-thiên, hết
phước cơi Phạm-thiên chết, sanh về cơi nầy trong
nhà Bà-là-môn giàu có hiện tại. Tuy hiện nay hai
vị làm vợ chồng, mà sống như t́nh tri-kỷ, không
có ư dâm dục.
Đến
sau, cả hai đều xin cha mẹ xuất gia. Cha mẹ bằng
ḷng, Ngài liền xuất gia làm Sa-môn vào núi tu
hạnh Đầu-đà (Dhuta). Một hôm, nhơn nghe trong hư
không có tiếng bảo:
─
Phật đă ra đời, nên đến đó thọ giáo.
Ngài
liền t́m đến tịnh-xá Trúc-Lâm, chí thành đảnh lễ
Phật.
Phật
bảo:
─
Lành thay Tỳ-kheo đến đây, hăy cạo bỏ râu tóc
đi.
Ngài
liền cạo bỏ râu tóc, thọ giới Tỳ-kheo, mặc y
cà-sa. Từ đây, Ngài theo Phật hiểu sâu giáo
Pháp, tinh tấn tu hành không lúc nào lơi lỏng,
cho đến chứng quả A-La-Hán. Có lần Ngài từ xa
đến ra mắt Phật. Các chúng Tỳ kheo ngồi vây
quanh Phật, trông thấy Ngài mặc y bằng vải rách,
thân h́nh tiều tụy, có ư thầm khi. Phật biết,
bèn bảo:
─
Ca-Diếp đến đây! Ta nhường nửa ṭa cho
ngồi.
Ngài
vẫn không dám ngồi. Phật bảo các Tỳ-kheo:
Ta
có đại từ đại bi, các thiền-định tam-muội và vô
lượng công đức để tự trang nghiêm. Tỳ-kheo
Ca-Diếp cũng như thế. Do đó, ta nhường nửa ṭa
cho Ca-Diếp ngồi. Chúng Tỳ-kheo đều dứt tâm ngạo
mạn, lại thầm cung kính Ngài.
Hôm
nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa
sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có
Ngài đắc ư chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu).
Phật bảo :
─ Ta
có chánh Pháp nhăn tạng, Niết-bàn diệu-tâm, pháp
môn mầu nhiệm, chẳng lập văn-tự, ngoài giáo lư
truyền riêng, nay giao phó cho ngươi. Ngươi khéo
ǵn giữ chánh pháp nầy, truyền trao măi đừng cho
dứt, đến sau sẽ truyền cho A-Nan.
Sau
đó Thế-Tôn đến trước tháp
Đa-Tử gọi Ma-Ha Ca-Diếp đến chia nửa ṭa cho
ngồi, lấy y Tăng-Già-Lê quấn vào ḿnh Ca-Diếp,
rồi nói kệ phó pháp :
Pháp bổn pháp vô pháp
Vô pháp pháp diệc pháp Kim phó vô
pháp thời Pháp pháp hà tằng
pháp.
Dịch:
Pháp gốc pháp không
pháp Pháp không pháp cũng pháp
Nay khi trao không pháp Mỗi pháp
đâu từng pháp.
Ngài
già yếu, Phật nhiều lần khuyên:
─
Ca-Diếp tuổi đă già, nên ở một chổ nhận những
thức cúng dường của thí chủ, chớ đi khất thực
nhọc nhằn.
Ngài
bạch Phật :
─
Con tuy già yếu, song không dám ở một chổ thọ sự
cúng dường của thí chủ. V́ sợ e sau này, các Tỳ
kheo đời sau sẽ nói :
─ Đệ
tử lớn của Phật trước kia vẫn ở một chỗ thọ sự
cúng dường, rồi họ sanh phóng túng.
Lúc
Phật Niết-bàn tại thành Câu-Thi-Na trong rừng
Sa-La, th́ Ngài đang ở trong động Tất-Bát-La
(SthaviRa) trên núi Kỳ-Xà-Quật. Nghe tin Phật
Niết-bàn, Ngài và 500 đệ tử vội vă hướng về
thành Câu-Thi-Na. Đến nơi, Phật đă được để
vào kim-quan, Ngài buồn bă. Thầy tṛ đi nhiễu
kim-quan ba ṿng, rồi đảnh lễ Phật. Khi ấy, hai
bàn chân Phật duỗi ra ngoài kim-quan để an ủi
Ngài. Ngài vuốt ve hai bàn chân Phật, ḷng rất
bi thảm.
Sau
khi thiêu thân Phật xong, Ngài tuyên bố với
chúng Tỳ-kheo:
─
Xá-lợi của Phật giao cho trời, người xây tháp
thờ làm ruộng phước, c̣n trách nhiệm Tỳ-kheo
chúng ta phải lo kết tập kinh điển để lưu lại
đời sau.
Ngài
bèn nói kệ :
Như-Lai đệ tử Thả
mạc Niết-bàn Đắc thần thông giả
Đương phó kiết tập
Dịch:
Đệ tử Như-Lai Chớ
vội Niết-bàn Người được thần
thông Nên đến kiết tập .
Thế
là, sau Phật Niết-bàn 7 ngày, Ngài triệu tập 500
vị đại A-La-Hán tụ hợp tại núi Kỳ-Xà-Quật, trong
động Tất-Bát-La kiết tập Kinh điển. Chỉ có tôn
giả A-Nan không được dự hội, v́ chưa sạch các
lậu, Tôn-giả A-Nan buồn bă, suốt đêm chuyên tâm
thiền-định, đến gần sáng liền chứng ngộ, các lậu
dứt sạch được quả A-La-Hán .
Sau
đó, tôn giả được mời dự hội. Ngài thưa toàn
chúng:
─
Tỳ-kheo A-Nan nhớ giỏi bậc nhất, thường theo hầu
hạ Như-Lai, nghe pháp Phật nói ghi nhớ không
sót, như nước rót vào b́nh không rơi ngoài một
giọt, nên mời kiết-tập tạng Kinh và tạng Luận .
Mời Tỳ-kheo Ưu-Ba Ly kiết tập tạng Luật. Toàn
chúng đều hoan-hỷ chấp thuận.
Hội
kiết-tập nầy, Ngài là chủ-tịch. Sau cuộc kiết
tập đă viên măn, nhơn duyên độ sanh đă xong
xuôi, Ngài thấy tuổi đă già yếu lắm, bèn gọi tôn
giả A-Nan đến bảo:
─
Khi Như-Lai sắp vào Niết-bàn có dặn ta đem chánh
pháp nhăn tạng giao phó cho ông. Nay ta sắp ẩn,
đúng lúc giao phó cho ông, ông phải khéo ǵn giữ
chớ để đoạn dứt.
Ngài
nhớ lời Phật dặn giữ ǵn y bát của Phật đợi đến
Phật Di-Lặc ra đời sẽ trao lại, nên dự bị vào
núi Kê-Túc nhập định. Liền đó, Ngài đi từ giă
vua A-Xà-Thế và những người thân thuộc, rồi vào
núi Kê-Túc trải ṭa cỏ ngồi an nhiên nhập
định.
2.
Tổ A-Nan (Ananda) Sanh
sau Phật 30 năm
Ngài
con vua Hộc-Phạn, ḍng Sát-đế-lợi, ở thành
Ca-tỳ-la-vệ, em ruột Đề-bà-đạt-đa, em con nhà
chú của Phật Thích Ca. Thuở nhỏ, Ngài có nhiều
tướng tốt và thông minh tuyệt vời. Đến 25 tuổi
xin theo Phật xuất gia.
Một
hôm, Phật cần chọn người làm thị giả, tất cả hội
chúng lần lượt đứng ra xin làm thị giả, mà Phật
không bằng ḷng. Sau cùng, Tôn-giả
Đại-Mục-Kiền-Liên nhập định biết tôn ư Phật muốn
A-Nan làm thị giả.
Đại
chúng cử Tôn- giả Mục-Kiền-Liên, Xá-Lợi-Phất,
v...v… đến yêu cầu Ngài làm thị giả. Ngài nhiều
lần từ chối, song các Tôn-giả một bề nài nỉ buộc
ḷng Ngài phải xin Phật ba điều, nếu Phật ưng
cho, Ngài mới dám làm thị giả.
1/
Không theo Phật thọ trai riêng, nếu thí chủ
không mời Ngài.
2/
Không mặc y thừa của Phật.
3/
Không đến Phật phi thời. Thế-Tôn chẳng những
chấp thuận lời xin của Ngài, mà c̣n khen ngợi
Ngài thông minh biết dự đoán trước những điều sẽ
xảy ra. Thế là, Ngài theo làm thị giả Phật ngót
25 năm.
Hôm
nọ, Ngài đi khất thực về đến tịnh-xá Phật, thấy
Di mẫu Ma-ha Ba-Xà-Ba-Đề đang đứng tựa cửa khóc.
Di mẫu quần áo bụi bặm, chân dính bùn nhơ, vẻ
người bi thảm. Ngài đến gần hỏi duyên cớ. Biết
Bà từ xa t́m đến xin Phật xuất gia, đôi ba phen
năn nỉ mà Phật quyết định không cho. Ngài cảm
động, vào đảnh lễ Phật xin cho Bà được xuất gia.
Phật vẫn nhiều lần từ chối, Ngài vẫn kiên chí
xin kỳ được mới thôi. Thế là mở đầu cho phái nữ
xuất gia, chính Ngài là người tích cực khai
đường vậy.
Chính đức Phật đă từng khen Ngài:
─
Thị giả của các đức Phật đời quá khứ, không ai
hơn A-Nan, thị giả các đức Phật đời vị lai cũng
không ai hơn A-Nan.
Và
Phật khen A-Nan được tám điều chưa từng có v.v…
Sau
khi Phật Niết-bàn, Tổ Ca-Diếp triệu tập các đại
Tỳ-kheo kiết tập kinh điển, Ngài là người được
toàn hội đề cử kiết tập tạng Kinh… Khi sắp tụng
lại lời Phật, Ngài nh́n qua đại chúng nói
kệ:
- Tỳ-kheo chư quyến thuộc
- Ly
Phật bất trang nghiêm !
- Du
như hư không trung
- Chúng tinh chi vô nguyệt.
Dịch:
- Tỳ-kheo các quyến thuộc
- Vắng
Phật chẳng trang nghiêm !
- Ví
như trong hư-không ,
- Nhiều sao mà không trăng.
Nói
kệ xong, Ngài đảnh lễ đại chúng, lên pháp ṭa mở
đầu:
─
Tôi nghe như vầy, một lúc nọ Phật ở tại xứ….nói
kinh…. cho đến trời người v.v…đều kính lễ vâng
làm .
Ngài
kiết tập kinh xong, Tổ Ca Diếp hỏi đại
chúng:
─
Đại-Đức A-Nan tụng đọc lại có chỗ nào sai lầm
chăng ?
Đại
chúng đồng thinh đáp:
─
Chẳng khác những lời đức Thế-Tôn đă nói.
Một
hôm Ngài hỏi Tổ Ca-Diếp:
─
Khi Thế-Tôn phú chúc và truyền y kim-tuyến cho
sư-huynh, c̣n có truyền pháp ǵ riêng nữa chăng
?
Tổ
Ca-Diếp liền gọi:
─
A-Nan !
Ngài
ứng thinh:
─
Dạ.!
Tổ
Ca-Diếp bảo:
─
Cây phướn trước chùa ngă.
Ngài
nhơn đây tỏ ngộ.
Tổ
Ca-Diếp bèn ấn chứng và đem chánh pháp nhăn-tạng
truyền lại cho Ngài. Tổ nói kệ:
- Pháp
pháp bổn lai pháp,
- Vô
pháp vô phi pháp.
- Hà ư
nhất pháp trung,
- Hữu
pháp hữu phi pháp
Dịch:
- Các
pháp,pháp xưa nay,
- Không pháp,không phi pháp .
- Tại
sao trong một pháp,
- Có
pháp, có phi pháp ?
Ngài
đảnh lễ thọ nhận. Môn đệ của Ngài có hai vị xuất
sắc, Thương-Na-Ḥa-Tu và Mạc-Điền-Để-Ca
(Mạc-Điền-Địa). Ngài chọn Thương-Na-Ḥa-Tu làm
người kế thừa tổ vị và truyền trao y bát
lại.
Cảm
thấy thân bèo bọt đă đến thời kỳ hoại diệt, đă
t́m được người kế.thừa, Ngài dự định vào
Niết-bàn, Ngài đến từ giă vua A-Xà-Thế, song
không gặp vua. Ngài liền đi thẳng đến bờ sông
Hằng, lên một chiếc thuyền ngồi kiết-già thả
trôi lơ lửng giữa ḍng sông. Vua A-Xà-Thế hay
tin Ngài sắp vào Niết-bàn ở sông Hằng, liền cùng
quan quân tùy tùng t́m đến bờ sông. Vua thấy
Ngài ngồi trên thuyền ở giữa ḍng sông bèn đảnh
lễ nói kệ:
- Khể
thủ tam giới tôn,
- Khí
ngă như chí thử.
- Tạm
bằng bi nguyện lực,
- Thả
mạc Bát-niết-bàn.
Dịch:
- Lạy
đấng tôn tam giới,
- Bỏ
con đến nơi nầy.
- Tạm
nương sức bi nguyện,
- Xin
chớ vội Niết-bàn.
Vua
nước Tỳ-Xá-Ly nghe tin cũng đến bên bờ kia sông
Hằng, đảnh lễ và nói kệ:
- Tôn
giả nhất hà tốc,
- Nhi
qui tịch diệt trường !
- Nguyện trụ tu du gian,
- Nhi
thọ ư cúng dường.
Dịch:
- Tôn
giả sao quá nhanh,
- Sớm
vào nơi tịch diệt !
- Xin
tạm dừng chốc lát,
- Để
nhận con cúng dường.
Ngài
thấy hai vua đồng đến khuyến thỉnh, bèn nói
kệ:
- Nhị
vương thiện nghiêm trụ,
- Vật
vi khổ bi luyến.
- Niết-bàn đương ngă tịnh,
- Nhi
vô chư hửu cố.
Dịch:
- Hai
vua ở an vui,
- Chớ
v́ thương buồn khổ.
- Niết-bàn, tôi an tịnh,
- V́
không c̣n các nghiệp.
Ngài
giữ tâm b́nh đẳng ở giữa ḍng sông vào Niết-bàn.
Hai vua họp nhau làm lễ thiêu thân Ngài và phân
chia xá-lợi xây tháp cúng dường.
3.
Tổ Thương-Na-Ḥa-Tu (
Sanakavasa)
Thế
kỷ đầu sau Phật Niết-bàn
Ngài
ḍng Tỳ-Xá-Đa nước Ma-Đột-La, cha tên Lâm-Thắng,
mẹ là Kiều-Xa-Da. Ngài ở trong thai mẹ sáu năm
mới sanh. Tục truyền ở Ấn-Độ khi nào cỏ
Thương-Nặc-Ca sanh là có một vị thánh nhơn ra
đời. Chính khi Ngài lọt ḷng mẹ th́ thứ cỏ ấy
cũng mọc lên, v́ thế cha mẹ Ngài đặt tên là
Thương-Na-Ḥa-Tu.
Lúc
đầu, Ngài xuất gia làm đồ đệ vị tiên ở núi
Tuyết. Chính Ngài tu theo pháp tiên đă được thần
thông, sau gặp Tổ A-Nan, Ngài hồi đầu trở về
chánh pháp. Tổ A-Nan, thấy Ngài đă thâm ngộ diệu
tâm nên truyền pháp kệ rằng :
- Bổn
lai truyền hửu pháp,
- Truyền liễu ngôn vô pháp
- Các
các tu tự ngộ
- Ngộ
liễu vô vô pháp.
Dịch
:
- Xưa
nay truyền có pháp
- Truyền rồi nói không pháp.
- Mỗi
mỗi cần tự ngộ
- Ngộ
rồi không không pháp.
Tổ
lại dặn:
─
Xưa Đức Như-Lai đem đại pháp nhăn nầy trao cho
Ngài Ca-Diếp, Ngài Ca-Diếp trao lại cho ta, nay
ta sắp vào Niết-bàn đem trao lại cho ngươi,
Ngươi phải khéo ǵn giữ truyền trao không để dứt
mất.
Sau
khi đắc pháp nơi Tổ A-Nan, Ngài đi đến khu rừng
Ưu-Lưu-Trà cất tịnh-xá hoằng hóa Phật-pháp rất
hưng thịnh. Chính nơi đây, khi Phật c̣n tại thế
có lần đi giáo hóa ngang khu rừng nầy, Phật nói
với A-Nan:
Sau
khi ta Niết-bàn, khoảng 100 năm, có một Tỳ-kheo
tên Thương-Na-Ḥa-Tu ở tại khu rừng nầy hoằng
truyền chánh pháp.
Thấy
cơ duyên hóa đạo đă viên măn, Ngài đem chánh
pháp nhăn tạng truyền lại cho đệ tử là
Ưu-Ba-Cúc-Đa. Ngài vào núi Bạch-Tượng phía Nam
nước Kế-Tân sắp vào Niết-bàn. Nhơn trong chánh
định Ngài thấy nhóm 500 người đệ tử của
Ưu-Ba-Cúc-Đa thường hay lười biếng và khinh mạn,
Ngài liền đến cảnh tỉnh họ, khi Ngài đến,
Ưu-Ba-Cúc-Đa đi vắng. Ngài lại ṭa của
Ưu-Ba-Cúc-Đa ngồi, đệ tử Cúc-Đa không biết Ngài
là người ǵ ? Tất cả đều bực tức không phục. Họ
chạy báo cho Cúc-Đa hay. Cúc-Đa về đến thấy thầy
ḿnh liền đảnh lễ. Song đệ tử vẫn c̣n tâm khinh
mạn chẳng kính. Ngài lấy tay mặt chỉ lên hư
không liền có sữa thơm chảy xuống,
Ngài
bảo Cúc-Đa :
─
Ngươi biết ǵ chăng ?
Cúc-Đa thưa:
─
Chẳng biết. Cúc-Đa bèn nhập chánh định để xem
xét, cũng không thể hiểu.
Cúc-Đa thưa:
─
Điềm lành nầy do chánh định ǵ xuất hiện ?
─
Đây là chánh định Long-Phấn-Tấn. C̣n cả năm trăm
thứ chánh định như thế mà ngươi chưa biết. Chánh
định của Như-Lai, hàng Bích-Chi không thể biết.
Chánh định của Bích-Chi, hàng La-Hán không thể
biết. Chánh định thầy ta là A-Nan, ta cũng không
biết. Nay chánh định của ta, ngươi đâu thể biết.
Chánh định ấy là tâm không sanh diệt, trụ trong
sức đại từ, cung kính lẫn nhau, được thế đó mới
có thể biết.
─ Đệ
tử của Cúc-Đa trông thấy những kỳ-diệu ấy đều
kính phục, chí thành sám hối. Ngài lại nói kệ
:
- Thông đạt phi bỉ thử
- Chí
thánh vô trường đoản
- Nhữ
trừ khinh mạn ư
- Tất
đắc A-La-Hán.
Dịch
:
- Thông suốt không kia đây
- Chí
thành không hay dở
- Ngươi trừ tâm khinh mạn
- Chóng được A-La-Hán.
Sau
đó, Ngài thị tịch bằng cách dùng hỏa quang tam
muội thiêu thân. Thầy tṛ Ưu-Ba-Cúc-Đa thu nhặt
xá-lợi xây tháp cúng dường .
4.
Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa
(Upagupta)
Cuối
thế kỷ thứ nhất sau Phật Niết-bàn
Ngài
ḍng Thủ-Đà-La ở nước Sát-Lợi, cha tên Thiện-Ư.
Trước khi sanh Ngài, thân phụ nằm mộng thấy mặt
trời vàng xuất hiện trong nhà. Thưở bé Ngài mặt
mũi khôi ngô, tánh t́nh thuần hậu, trí huệ minh
mẫn.
Khoảng 12 tuổi, Ngài được gặp Tổ
Thương-Na-Ḥa-Tu đến tận nhà và dạy cho Ngài
phương pháp buộc niệm. Nghĩa là mỗi khi khởi
nghĩ ác liền bỏ một ḥn sỏi đen vào hũ, khi khởi
nghĩ lành liền bỏ một ḥn sỏi trắng vào hũ. Mỗi
tháng đem ra xem xét coi đen nhiều hay trắng
nhiều ; nếu đen nhiều phải cố gắng sửa đổi. Ngài
vâng làm như vậy, ban đầu sỏi đen nhiều, dần dần
bằng nhau và sau nầy trắng nhiều.
Năm
17 tuổi, Ngài xin Tổ Thương-Na-Ḥa-Tu xuất gia.
Tổ hỏi :
-
Ngươi được bao nhiêu tuổi ?
Ngài
thưa :
-
Bạch thầy, con được 17 tuổi.
-
Thân ngươi 17 tuổi hay tánh ngươi 17 tuổi ?
Ngài
hỏi lại :
- Đầu thầy tóc bạc, vậy tóc thầy
bạc hay tâm thầy bạc ?
Tổ
bảo :
-
Tóc ta bạc không phải tâm ta bạc.
-
Con cũng thế, thân con được 17 tuổi, không phải
tánh con 17 tuổi.
Tổ
bèn hoan-hỉ nhận cho xuất gia làm thị giả. Đến
20 tuổi, Ngài thọ giới cụ túc và ngộ đạo. Tổ bảo
:
Xưa
Đức Thế-Tôn đem chánh pháp vô thượng truyền cho
Tổ Ca-Diếp. Tổ Ca-Diếp truyền lại cho thầy của
thầy ta là Đức A-Nan, thầy ta truyền cho ta và
nay ta truyền lại cho ngươi chánh pháp nầy.
Ngươi cố gắng hộ tŕ đừng để đoạn dứt. Hăy nghe
bài kệ đây :
- Phi
pháp diệc phi tâm,
- Vô
tâm diệc vô pháp.
- Thuyết thị tâm pháp thời,
- Thị
pháp phi tâm pháp
Dịch
:
- Phi
pháp cũng phi tâm,
- Không tâm cũng không pháp ,
- Khi
nói tâm pháp ấy,
- Pháp
ấy phi tâm pháp.
Khi
Ngài đến nước Ma-Đột-La, Ngài cảm hóa rất đông
dân chúng qui hướng Phật pháp, có nhiều người đă
chứng đạo quả. Có những khi Ngài thuyết pháp,
chư thiên rải hoa, quả đất rúng động, khiến cung
ma cũng bị chấn động. Vua ma-ba-tuần sợ e
Phật-giáo thạnh hành th́ bè đảng của chúng bị
tiêu diệt, nên quyết dùng hết thần lực phá hoại
Phật-pháp. Ma bèn hiện các ngọc nữ đến làm nhiễu
loạn tâm thính giả. Ngài liền nhập định để quán
sát nguyên do; Được cơ hội thuận tiện, ma đem
ṿng chuỗi anh-lạc quàng vào cổ Ngài. Xuất định,
Ngài dùng thần lực biến ba thây chết -người,
chó, rắn- thành một tràng hoa đẹp. Ngài dùng lời
diệu ngọt bảo ma :
Ngươi sẵn ḷng tốt đem chuỗi anh-lạc rất
quí tặng ta, giờ ta biếu lại ngươi tràng hoa đẹp
nầy, gọi là thù tạc nhau.
Vua
ma nghe rất mừng, đưa cổ nhận tràng hoa. Tràng
hoa tṛng vào cổ giây lát hóa thành thây thúi,
gịi tủa ghê tởm. Vua ma kinh sợ gớm chán, muốn
cởi ra mà cởi không được, dùng hết thần lực cũng
không cởi nổi. Túng thế, vua ma chạy lên cơi
trời Dục cầu cứu với vua Trời, rốt cuộc không
kết quả. Lần lượt vua ma cầu cứu đến Trời Phạm.
Vua các Trời đều bảo :
-
Pháp ấy là do đệ tử Phật biến hóa ra, chúng ta
c̣n phàm lậu làm sao trừ được.
Vua
ma nghe phán như vậy lại hỏi :
-
Thế th́ làm thế nào gỡ ra ?
Vua
Trời nói kệ :
- Nhược nhơn địa đảo,
- Hoàn
nhơn địa khởi.
- Ly
địa cầu khởi,
- Chung vô kỳ lư.
Dịch
:
- Nếu
nhơn đất ngă,
- Phải
nhờ đất dậy.
- Ĺa đất muốn dậy,
- Trọn
không lư ấy.
Vua
ma nhận lời dạy, rời khỏi cung Trời trở về chỗ
Ngài Ưu-Ba-Cúc-Đa chí thành lễ tạ sám hối. Ngài
bảo:
-Thánh trước dạy ta hàng phục ngươi. Tuy
vậy, nếu ngươi biết cải thiện là được thờ phụng
Phật, khỏi sa vào đường dữ.
Vua
ma nghe dạy vui vẻ thưa:
-
Tôn-giả v́ con làm lợi ích lớn, cúi xin Tôn-giả
cởi ṿng thây thúi dùm con.
Ngài
dạy:
-
Vậy ngươi phải quỳ gối chấp tay tự xướng ba lần
quy-y Tam bảo đi. Vua ma quỳ gối chấp tay xướng
ba lần quy-y Tam bảo xong, th́ ṿng thây thúi
biến mất. Vua ma vui mừng nhảy nhót đảnh lễ Ngài
nói kệ:
- Khể
thủ tam muội tôn,
- Thập
lực đại từ túc.
- Ngă
kim nguyện hồi hướng,
- Vật
linh hữu liệt nhược.
Dịch
:
- Cúi
lạy chánh-định tột,
- Đủ
mười lực đại từ.
- Nay
con xin hồi hướng,
- Chớ
c̣n tánh yếu hèn.
Sau
khi quy-y tam bảo xong, Ngài bảo vua ma:
-
Xưa ngươi thường thấy Như-Lai, giờ đây hiện thử
cho ta xem.
Vua
ma thưa:
-
Hiện việc xưa không khó, chỉ xin Tôn-giả trông
thấy đừng lễ.
Vua
ma liền vào rừng ẩn mất. Chốc lát bỗng thấy Phật
từ mé rừng đi ra oai nghi nghiêm chỉnh, theo sau
đoàn Tỳ-kheo 1.250 vị. Ngài vừa trông thấy, bất
giác cúi ḿnh đảnh lễ. Ma hoảng kinh biến mất.
Lúc hóa đạo, mỗi khi giáo hóa một người thâm ngộ
Phật-pháp, Ngài để vào thất đá một thẻ tre. Ngôi
thất ấy bề dài 18 thước tay bề ngang 12 thước
tay. Thế mà một thời gian thẻ tre đầy ắp cả
thất. Sau cùng, Ngài độ ông Hương-Chúng con một
vị trưởng giả và truyền chánh pháp lại cho ông
nầy. Nhơn thân phụ ông Hương-Chúng mộng thấy mặt
trời vàng xuất hiện trong nhà, nên Ngài đổi hiệu
là Đề-Đa-Ca. Đă có người kế thế và nhơn duyên
hóa đạo đă xong. Ngài từ biệt đại chúng, Ngồi
kiết già thị-tịch. Đề-Đa-Ca và môn đệ mở cửa
thất đá lấy thẻ tre làm vật liệu thiêu Ngài,
thiêu xong lượm xá-lợi xây tháp cúng dường .
5.
Tổ Đề-Đa-Ca (Dhrtaka) Đầu thế kỷ thứ hai sau Phật
Niết-bàn
Ngài
tên Hương-chúng ở nước Ma-Già-Đà. Nhơn thân phụ
Ngài nằm mộng thấy mặt trời vàng ánh xuất hiện
trong nhà, chiếu sáng khắp cả. Lại thấy phía
trước hiện ra một ḥn núi lớn, trang nghiêm bằng
bảy báu, trên đảnh núi có ḍng suối, nước chảy
trong veo, tràn khắp bốn phương. Sau đó, mẹ sanh
ra Ngài.
Ngài
gặp Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa bèn đem điềm mộng của cha
thuật lại và nhờ giải hộ. Tổ giải:
-Núi
báu là thân ta, suối nước tuôn ra là pháp vô
tận, mặt trời xuất hiện trong nhà là tướng ngươi
vào đạo, ánh sáng chiếu khắp là trí tuệ siêu
việt của ngươi.
Ngài
nghe giải xong, vui mừng khắp khởi xướng kệ rằng
:
- Nguy
nguy thất bảo sơn,
- Thường xuất trí huệ tuyền.
- Hồi
vi chân pháp vị,
- Năng
độ chư hữu duyên.
Dịch
:
- Ṿi
vọi núi bảy báu,
- Thường tuôn suối trí huệ.
- Chuyển thành vị chơn pháp,
- Hay
độ người có duyên.
Tổ
Ưu-Ba-Cúc-Đa cũng nói kệ đáp :
- Ngă
pháp truyền ư nhữ,
- Đương hiện đại trí huệ.
- Kim
nhựt tùng ốc xuất,
- Chiếu diệu ư thiên địa.
Dịch
:
- Pháp
ta truyền cho ngươi,
- Sẽ
hiện trí-huệ lớn.
- Mặt
trời mọc trong nhà,
- Chiếu sáng khắp trời đất.
Ngài
nghe kệ rồi, xin theo Tổ xuất gia học đạo. Thấy
Ngài ứng đối lanh lẹ, trí-huệ minh đạt, Tổ hoan
hỷ chấp nhận cho xuất gia làm đệ-tử. Một hôm, Tổ
gọi Ngài bảo: Như-Lai đem đại pháp nhăn tạng
trao cho Tổ Ma-Ha Ca-Diếp, lần lượt trao truyền
cho đến ta, nay ta trao lại cho ngươi. Hăy nghe
kệ đây:
- Tâm
tự bổn lai tâm,
- Bổn
tâm phi hữu pháp.
- Hữu
pháp hữu bổn tâm,
- Phi
tâm phi bổn pháp.
Dịch
:
- Tâm
tự xưa nay tâm,
- Bổn
tâm chẳng có pháp.
- Có
pháp có bổn tâm,
- Chẳng tâm chẳng bổn pháp
Ngài
thành kính nhận lănh chánh pháp. Sau, Ngài sang
Trung-Ấn giáo hóa. Nơi đây có tám ngàn vị đại
tiên, dưới sự lănh đạo của đại tiên Di-Dá-Ca.
Nghe Ngài đến đây, Di-Dá-Ca vân tập tiên chúng
đến yết kiến Ngài.
Gặp
Ngài, Di-Dá-Ca thưa:
-
Xưa tôi cùng Thầy đồng sanh cơi trời Phạm-Thiên.
Tôi gặp tiên A-Tư-Đà truyền cho pháp tiên. Thầy
gặp đệ tử Phật hướng dẫn tu tập thiền định. Từ
đó, cách nhau đă đến sáu kiếp.
Ngài
bảo:
-
Lời tiên nhơn đă nói đúng như vậy. Song, ông
chuyên về pháp tiên tột cùng sẽ đến đâu ?
Di-Dá-Ca thưa:
-
Tôi tuy chưa gặp bậc chí thánh, song tiên
A-Tư-Đà thường thọ kư rằng: "Sáu kiếp về sau,
tôi sẽ nhờ bạn đồng học mà được chứng quả giải
thoát. Nay gặp nhau đây đâu không đúng như vậy ư
?"
Ngài
bảo:
-
Ông đă biết như vậy th́ cần phải xuất gia, pháp
tiên là đường nhỏ, không thể đưa người đến giải
thoát. Ta hóa đạo đă lâu, cũng muốn dừng nghỉ.
Nếu ông thật thú hướng về đại pháp th́ không nên
chậm trễ.
Di-Dá-Ca nghe nói vui mừng liền xin xuất
gia. Ngài độ cho ông xuất gia thọ giới.
Lúc
đó, tiên chúng theo Di-Dá-Ca thấy vị tiên trưởng
của ḿnh làm như vậy, rất bất măn. Họ nói thầm
với nhau rằng: "Đề-Đa-Ca đâu đủ sức làm thầy
ḿnh mà theo xuất gia".
Ngài
biết tâm họ, muốn gây cho họ có niềm tin, liền
phóng quang sáng chiếu, chân đi trên hư không
như người đi trên đất bằng, lại hóa cây dù báu
che khắp chúng tiên, nơi ngón tay sữa thơm tuôn
ra, trong sữa hiện lên một hoa sen, trong hoa
sen hóa ra Đức Phật.
Chúng tiên trông thấy thần biến phi
thường, bèn cuối đầu cầu xin xuất gia. Tôn giả
hoan hỷ chấp nhận.
Thấy
cơ duyên hóa độ đă viên măn, Ngài truyền pháp
lại cho Di-Dá-Ca, rồi thâu thần tịch diệt.
Di-Dá-Ca và đồ chúng thiêu hài cốt Ngài,
thâu lượm xá-lợi xây tháp tại núi Ban-Trà thờ
phụng cúng dường.
6.
Tổ Di-Dá-Ca (Miccaka) Đầu thế kỷ thứ ba sau Phật
Niết-bàn
Ngài
người Trung-Ấn, không rơ họ ǵ. Ngài cùng chúng
tiên thọ giáo xuất gia với Tổ Đề-Đa-Ca. Sau đó,
Ngài tu hành chứng được quả thánh. Khi sắp tịch,
Tổ Đề-Đa-Ca gọi Ngài lại bảo:
-Xưa
Như-Lai thầm trao đại pháp nhăn cho Tổ Ma-Ha
Ca-Diếp lần lượt truyền trao đến ta, nay ta trao
cho ngươi, ngươi phải ǵn giữ truyền trao chớ
dứt. Nghe ta nói kệ :
- Thông đạt bổn tâm pháp,
- Vô
pháp vô vi pháp .
- Ngộ
liễu đồng vị ngộ,
- Vô
tâm diệc vô pháp .
Dịch
:
- Thông đạt pháp bổn tâm,
- Không pháp không phi pháp
- Ngộ
rồi đồng chưa ngộ,
- Không tâm cũng không pháp .
Sau
khi được pháp, Ngài du hóa các nơi tùy căn cơ
giáo hóa chúng sanh. Một hôm, Ngài đến Bắc-Ấn
chợt thấy trên thành có vầng mây màu vàng. Ngài
ngó sang những người bên cạnh bảo :
-Đây
là vượn khí đại thừa. Trong thành nầy sẽ có bậc
chí nhơn nối pháp cho ta .
Khi
đi vào trong thành đến chợ, quả gặp người tay ôm
bầu rượu, đón Ngài hỏi :
-
Tôn-giả từ phương nào đến, muốn đi về đâu ?
Ngài
đáp :
-Ta
từ tâm ḿnh đến, muốn đi không chỗ.
- Tôn-giả biết vật trong tay
tôi chăng ?
-
Đây là đồ đựng vật làm mất thanh tịnh.
- Tôn-giả biết tôi chăng ?
- Tôi th́ chẳng biết, biết
th́ chẳng tôi.
Ngài
lại bảo :
-
Ngươi hăy nói tên họ ra, ta sẽ chỉ nhơn đời
trước cho ngươi. Người ấy bèn nói kệ :
- Ngă
kim sanh thử quốc,
- Phục
ức tích thời nhựt .
- Bổn
tánh Phả-La-Đọa,
- Danh
tự Bà-La-Mật.
Dịch
:
- Nay
tôi sanh nước nầy,
- Lại
nhớ ngày xa xưa
- Ḍng
họ Phả-La-Đọa,
- Tên
là Bà-Tu-Mật.
Ngài
nghe rồi nhớ lại duyên trước, bèn bảo Bà-Tu-Mật
:
-
Thầy ta là Đề-Đa-Ca thường nói : "Xưa kia
Như-Lai du hóa Bắc-Ấn có báo A-Nan : Sau khi ta
diệt độ khoảng ba trăm năm, ở nước nầy sẻ có vị
thánh nhơn ra đời, họ Phả-La-Đọa tên Bà-Tu-Mật,
làm vị Tổ thứ bảy của Thiền-Tông . Đây là
Như-Lai thọ kư cho ngươi, ngươi nên xuất gia."
Bà-Tu-Mật liền để bầu rượu xuống, đảnh lễ
Ngài. Đảnh lễ xong, đứng qua một bên thưa
:
-
Con nhớ lại kiếp xưa thường làm thí chủ cúng
dường Phật một bảo ṭa. Như-Lai thọ kư cho con
rằng : "Ngươi ở hiền kiếp sẽ được Phật-pháp làm
Tổ thứ bảy". Nay gặp gỡ đây là cái duyên trước
vậy, cúi xin Tôn giả đại từ thương xót độ thoát
cho con. Ngài liền v́ ông cho cạo tóc xuất gia
và thọ đầy đủ giới pháp. Thấy tuổi đă già và cơ
duyên hóa độ cũng xong, Ngài truyền chánh pháp
lại cho Bà-Tu-Mật. Truyền xong, Ngài thâu thần
tịch diệt. Bà-Tu-Mật và môn đồ lượm xá-lợi để
vào b́nh báu, xây tháp cao tôn thờ trên từng
chót để mọi người cúng dường.
7. Tổ Bà-Tu-Mật
(Vasumitra)
Cuối
thế kỷ thứ ba sau Phật Niết-bàn
Ngài
họ Phả-La-Đọa sanh trưởng tại miền Bắc-Ấn. Khi
c̣n tại gia, Ngài thường mặc đồ sạch sẽ, tay cầm
bầu rượu, đi dạo chơi trong xóm làng, có khi
Ngài ngâm thơ thổi sáo, người thường không sao
hiểu nổi, họ bảo Ngài là người điên. Sau khi gặp
Tổ Di-Dá-Ca nói lại lời huyền kư Như-Lai, Ngài
liền tỉnh ngộ tiền duyên, ném bầu rượu phát
nguyện xuất gia. Theo Tổ tu hành, Ngài ngộ được
tâm tông. Một hôm, Tổ Di-Dá-Ca gọi Ngài căn dặn:
-Công hạnh của ta gần viên măn, chánh
pháp nhăn tạng nầy trao lại cho ngươi, ngươi
phải ân cần ǵn giữ chớ để đoạn diệt. Hăy nghe
kệ đây :
- Vô
tâm vô khả đắc,
- Thuyết đắc bất danh pháp.
- Nhược liễu tâm phi tâm,
- Thủy
giải tâm tâm pháp.
Dịch
:
- Không tâm không thể được,
- Nói
được chẳng gọi pháp
- Nếu
rơ tâm phi tâm,
- Mới
hiểu tâm tâm pháp.
Sau
khi Tổ Di-Dá-Ca nhập Niết-bàn, Ngài đi hoằng
khắp nơi tuyên dương chánh pháp. Khi đến nước
Ca-Ma-La, Ngài lên pháp ṭa giảng đạo, có một
trí sĩ đến dưới ṭa lớn tiếng tự xưng:
-Tôi
là Phật-Đà-Nan-Đề, hôm nay quyết luận nghĩa với
thầy.
Ngài
bảo:
-
Nầy nhơn giả! Nếu luận th́ chẳng phải nghĩa, nếu
nghĩa th́ chẳng phải luận. Nếu nghĩ luận nghĩa,
trọn chẳng phải nghĩa luận.
Nan-Đề biết đây là người nói nghĩa thù
thắng, khởi tâm kính phục, thưa rằng:
-
Con nguyện cầu đạo, được thưởng thức vị cam lồ.
Ngài
thương xót liền cho xuất gia thọ giới, không bao
lâu truyền pháp cho Nan-Đề. Đă có người thừa kế,
Ngài dự định vào Niết-bàn. Ngài liền nhập từ
tam-muội để vào tịch định. Lúc đó, Đế-Thích,
Phạm-Vương cùng chư thiên đồng đến đảnh lễ, nói
kệ :
- Hiền
kiếp thánh chúng Tổ,
- Nhi
đương đệ thất vị.
- Tôn
giả ai niệm ngă,
- Thỉnh vị tuyên Phật địa.
Dịch
:
- Hiền
kiếp các thánh Tổ,
- Ngài
là vị thứ bảy,
- Tôn
giả thương xót con,
- Thỉnh v́ nói Phật địa .
Ngài
xuất định nói với họ rằng :
-
Pháp ta đă được là không phải có. Nếu muốn biết
Phật-địa phải ĺa có và không.
Nói
xong, Ngài vào tịch định thị hiện tướng
Niết-bàn. Chư thiên nghe rồi hoan hỷ tán hoa
trời, đảnh lễ. Nan-Đề cùng đồ chúng trà tỳ thân
Ngài, rồi lượm xá-lợi xây tháp cúng dường
.
8. Tổ Phật-Đà-Nan-Đề
(Buddhanandi)
Đầu thế kỷ thứ tư sau Phật
Niết-bàn
Ngài
họ Cù-Đàm, người nước Ca-Ma-La. Thuở nhỏ trên
đảnh Ngài có cục thịt nổi cao, thường phát ra
hào quang năm sắc xen lẫn. Ngài thông minh tuyệt
vời, chữ nghĩa một phen xem qua là ghi nhớ. Năm
14 tuổi, Ngài phát tâm xuất gia chuyên dùng hạnh
thanh tịnh để tự tu. Khi Tổ Bà-Tu-Mật đến nước
Ca-Ma-La, Ngài đến vấn nạn, nhơn đó kính phục
xin theo làm đệ tử. Tổ sắp Niết-bàn, gọi Ngài
đến phó chúc rằng :
-Chánh pháp nhăn tạng của Như-Lai, nay ta
trao cho ngươi, ngươi phải truyền bá chớ để đoạn
dứt, Nghe ta nói kệ:
- Tâm
đồng hư không giới,
- Thị
đằng hư không pháp.
- Chứng đắc hư không thời,
- Vô
thị vô phi pháp.
Dịch
:
- Tâm
đồng hạn hư không,
- Chỉ
pháp bằng thái hư.
- Khi
chứng được hư không,
- Không pháp, không phi pháp.
Ngài
vâng giữ phụng tŕ. Sau khi đắc pháp, Ngài thống
lănh đồ chúng du hóa khắp nơi. Đến nước ĐềGià,
Ngài đi qua cổng nhà họ Tỳ-Xá-La, chợt thấy trên
nóc nhà có hào quang trắng xông lên hư không.
Ngài chỉ chúng xem và bảo:
-Trong nhà nầy hiện có một vị thánh nhơn,
tuy miệng không nói một lời, chơn không đi một
bước, mà thật là bậc căn khí đại thừa. Dù không
ra ngoài đường mà biết việc xúc uế. Quả là người
nối pháp cho ta, khiến Phật-pháp hưng thịnh. Vị
nầy, sau sẽ độ được năm trăm người chứng quả
thánh.
Ngài
nói xong, có người trưởng giả trong nhà bước ra
làm lể thưa:
-
Tôn-giả cần điều ǵ dừng lại đây ?
Ngài
bảo:
- Ta
đến t́m người thị giả, chớ không cần ǵ.
Trưởng giả thưa:
-Nhà
tôi đâu có người kỳ đặc mà Ngài t́m, chỉ có đứa
con trai tên Phục-Đà-Mật-Đa không biết nói,
không biết đi, tuổi đă năm mươi, nếu Ngài cần
tôi cho, không tiếc. Ngài bảo:
-Đứa
con ông nói đó, chính là người tôi
t́m.
Trưởng giả thỉnh Ngài vào nhà.
Phục-Đà-Mật-Đa vừa trông thấy Ngài liền
chổi dậy,chấp tay nói kệ:
- Phụ
mẫu phi ngă thân,
- Thùy
vi tối thân giả ?
- Chư
Phật phi ngă đạo,
- Thùy
vi tối đạo giả ?
Dịch
:
- Cha
mẹ chẳng phải thân,
- Ai
là người chí thân ?
- Chư
Phật phi đạo tôi,
- Cái
ǵ là tột đạo ?
Ngài
nói kệ đáp:
- Nhữ
ngôn dữ tâm thân,
- Phụ
mẫu phi khả tỷ,
- Nhữ
hạnh dữ đạo hiệp,
- Chư
Phật tâm tức thị,
- Ngoại cầu hữu tướng Phật,
- Dữ
nhữ bất tương tợ,
- Nhược thức nhữ bổn tâm,
- Phi
hiệp diệc phi ly .
Dịch
:
- Lời
ngươi cùng tâm thân,
- Cha
mẹ không thể sánh,
- Hạnh
ngươi cùng đạo hiệp,
- Chư
Phật chính là tâm,
- Ngoài cầu Phật có tướng,
- Cùng
ngươi không chút giống,
- Nếu
biết bổn tâm ngươi,
- Chẳng hiệp cũng chẳng ĺa .
Mật-Đa nghe bài kệ xong rất hoan hỷ, bước
xuống đảnh lễ Ngài và đi bảy bước, một ḷng
thành khẩn xin xuất gia. Ngài chấp nhận cho xuất
gia, liền triệu tập chúng hiền thánh làm lễ
truyền giới cụ túc. Sau đó, Ngài lại dặn ḍ
Mật-Đa:
-
Pháp nhăn của Như-Lai thầm truyền đến đời ta,
nay ta trao lại cho ngươi, ngươi nên truyền trao
chớ đoạn dứt.
Nghe
ta nói kệ :
- Hư
không vô nội ngoại,
- Tâm
pháp diệc như thử,
- Nhược liễu hư không cố,
- Thị
đạt chơn như lư.
Dịch
:
- Hư
không chẳng trong ngoài,
- Tâm
pháp cũng như thế,
- Nếu
hiểu rơ hư không,
- Là
đạt lư chơn như .
Mật-Đa hân hạnh được truyền pháp vui mừng
vô hạn, liền nói kệ khen ngợi :
- Ngă
sư thiền Tổ trung,
- Thích đương vi đệ bát,
- Pháp
hóa chúng vô lượng,
- Tất
hoạch A-La-Hán .
Dịch
:
- Thầy
tôi trong thiền Tổ,
- Hiện
là vị thứ tám,
- Giáo
hóa chúng không cùng,
- Thảy
được quả La-Hán .
Ngài
truyền pháp xong, sắp vào Niết-bàn. Hôm ấy đang
ngồi trên bổn ṭa, Ngài an nhiên thị tịch. Số
chúng Ngài độ có đến năm trăm vị chứng nhị quả.
Toàn chúng trà tỳ hài cốt Ngài, lượm xá-lợi xây
bảo tháp tôn thờ.
9. Tổ
Phục-Đà-Mật-Đa (Buddhamitra)
Cuối
thế kỷ thứ tư sau Phật Niết-bàn
Ngài
họ Tỳ-Xá-La ở nước Đề-Già. Từ lọt ḷng mẹ đến
năm mươi tuổi chưa từng nói một lời, chưa từng
đi một bước. Cha mẹ nghi nhơn duyên ǵ mà Ngài
thế ấy ? Đến gặp Tổ Phật-Đà-Nan-Đề nói duyên đời
trước rằng :
-
Đứa bé nầy đời trước thông minh lắm, ở trong
Phật pháp do ḷng đại bi muốn làm lợi ích lớn
cho chúng sanh, cho nên thường nguyện :"Nếu tôi
sanh chỗ nào không bị t́nh phụ tử ràng buộc, tùy
duyên lành kia liền được giải thoát, miệng nó
không nói là tiêu biểu đạo không tịch. Chân nó
không đi là tiêu biểu pháp không đến đi."
Cha
mẹ Ngài nghe lời giải thích của Tổ, sạch hết
nghi ngờ, vui vẻ cho theo Tổ xuất gia.
Sau
khi đắc pháp, Ngài du hóa khắp nơi, sang
Trung-Ấn giáo hóa. Nơi đây có ông trưởng-giả tên
là Hương-Cái. Ông nầy có người con trai tên
Nan-Sanh. Ông trưởng-giả Hương-Cái dẫn con đến
yết kiến Ngài. Đảnh lễ xong, ông trưởng-giả thưa
:
-
Thằng bé nầy ở trong thai mẹ ngót sáu mươi năm,
do đó tôi đặt tên là Nan-Sanh. Có một tiên đến
xem tướng nó, rồi nói: "Thằng nhỏ nầy hẳn là
tướng phi phàm, sẽ làm pháp khí đại thừa, sau
gặp Bồ-Tát hóa độ". Bởi có duyên lành nên nay
được gặp Ngài, tôi nguyện cho nó theo Ngài xuất
gia học đạo.
Ngài
hoan hỷ nhận cho Nan- Sanh xuất gia thọ giới.
Trong buổi lễ xuất gia thọ giới bỗng có ánh sáng
mát chiếu khắp chổ Nan-Sanh ngồi. Cơ duyên hóa
độ sắp viên măn, Ngài kêu Nan-Sanh lại dặn ḍ
:
-
Đại pháp nhăn tạng của Như-Lai, nay ta trao cho
ngươi, Ngươi phải ǵn giữ truyền trao đừng cho
đoạn dứt. Ngươi nhận lời ta dạy, hăy nghe kệ đây
:
- Chơn
lư bổn vô danh,
- Nhơn
danh hiển chơn lư,
- Thọ
đắc chơn thật pháp,
- Phi
chơn diệc phi ngụy.
Dịch
:
- Chơn
lư vốn không tên,
- Nhơn
tên bày chơn lư,
- Nhận
được pháp chơn thật,
- Chẳng chơn cũng chẳng ngụy.
Nói
kệ xong, Ngài bèn vào chánh định hiện tướng
Niết-bàn. Chư thiên trổi nhạc cúng dường.
Nan-Sanh cùng đồ chúng dùng dầu thơm gỗ chiên
đàn làm lễ hỏa táng chơn thể của Ngài. Hỏa táng
xong lượm xá-lợi về tôn thờ nơi chùa Na-Lan-Đà .
10. Tổ
Hiếp-Tôn-Giả
(Parsvika) Đầu thế kỷ thứ năm sau Phật
Niết-bàn
Ngài
tục danh là Nan-Sanh, người Trung Ấn. Thân mẫu
mang thai đến 60 năm mới sanh ra Ngài. Lúc Ngài
sắp sanh, thân phụ nằm mộng thấy một con voi
trắng to trên lưng có chở một bảo tọa, trong bảo
tọa có hạt minh châu, từ ngoài cửa đi vào chiếu
sáng khắp nhà. Ông giựt ḿnh tỉnh giấc th́ Ngài
ra đời.
Sau
gặp Tổ Phục-Đà-Mật-Đa độ cho xuất gia. Được xuất
gia rồi Ngài cần mẫn tu học cho đến quên ăn bỏ
ngủ, suốt ngày đêm chưa từng đặt lưng xuống
chiếu, như thế măi cả đời. V́ thế thời nhơn gọi
Ngài là Hiếp-Tôn-Giả (Tôn-giả hông không dính
chiếu). Lănh thọ chánh pháp xong, Ngài đi vân du
các nơi tùy cơ giáo hóa. Đến nước Hoa-Thị, Ngài
tạm nghỉ dưới cây đại thọ. Khi ấy, Ngài lấy tay
chỉ xuống đất bảo chúng :
-
Khi nào đất này biến thành màu vàng, sẽ có một
thánh nhơn vào hội. Ngài vừa nói dứt lời, đất
liền biến thành màu vàng. Chốc lát có một thanh
niên con nhà giàu tên Phú-Na-Dạ-Xa đến trước
Ngài đứng chắp tay, Ngài hỏi :
-
Ngươi từ đâu đến ?
Thanh niên thưa :
-
Tâm con chẳng phải đến.
-
Ngươi dừng chổ nào ?
-
Tâm con chẳng phải dừng.
-
Ngươi chẳng định sao ?
- Chư Phật cũng thế.
-
Ngươi chẳng phải chư
Phật.
-
Chư Phật cũng chẳng phải.
Ngài
nhơn đó nói bài kệ :
- Thử
địa biến kim sắc,
- Dự
tri ư thánh chí,
- Đương tọa bồ-đề thọ,
- Giác
hoa nhi thành dỉ.
Dịch
:
- Đất
này hóa sắc vàng,
- Biết
có thánh nhơn sang,
- Ngồi
dưới cây bồ-đề,
- Hoa
giác nở hoàn toàn .
Phú-Na-Dạ-Xa cũng đọc bài kệ:
- Sư
tọa kim sắc địa,
- Thường thuyết chơn thật nghĩa,
- Hồi
quang nhi chiếu ngă,
- Linh
nhập tam-ma-đề .
Dịch
:
- Thầy
ngồi đất sắc vàng,
- Thường nói nghĩa chơn thật,
- Xoay
ánh sáng chiếu con,
- Khiến vào nơi chánh định .
Ngài
biết ư Phú-Na-Dạ-Xa ḷng cầu đạo rất thiết tha,
nên độ cho xuất gia và truyền giới cụ túc. Một
hôm, Ngài gọi Phú-Na bảo :
-Đại
pháp nhăn tạng của Như-Lai, nay trao cho ngươi,
ngươi phải khéo lưu truyền chớ để dứt mất. Hăy
nghe ta nói kệ :
- Chơn
thể tự nhiên chơn,
- Nhơn
chơn thuyết hữu lư,
- Lănh
đắc chơn chơn pháp,
- Vô
hành diệc vô chỉ
Dịch
:
- Chơn
thể đă sẵn chơn,
- Bởi
chơn nói có lư,
- Hội
được pháp chơn nhơn,
- Không đi cũng không dừng .
Truyền pháp xong, Ngài ngay nơi chỗ ngồi
thị hiện các tướng rồi vào Niết-bàn. Hỏa táng
thân Ngài xong có xá-lợi nhiều vô số, chúng phải
lấy y bọc đem về kính thờ cúng dường
.
11. Tổ
Phú-Na-Dạ-Xa ( Punyayasas )
Giữa
thế kỷ thứ năm sau Phật Niết-bàn .
Ngài
ḍng Cù-Đàm ở nước Hoa-Thị, thân phụ là
Bảo-Thân. Thân phụ sanh được bảy người con trai,
Ngài là con út. Thuở nhỏ. Ngài tâm tư b́nh thản
không tịnh không loạn. Ngài thường nói với các
anh :
-
Nếu gặp bực đại-sĩ ngồi nơi đạo tràng thuyết
pháp, em quyết đến đó gần gũi tùy hỷ.
Khi
Tổ Hiếp-Tôn-Giả đến nước này chấn hưng Phật
pháp, Ngài liền đến dự trong hội ấy. Thấy Ngài
ứng đối mẫn tiệp, ngôn ngữ hợp lư, Tổ độ cho
xuất gia. Sau khi đắc pháp nơi Tổ Hiếp-Tôn-Giả,
Ngài một ḷng tinh tấn, lấy sự giáo hóa làm
trọng trách. Đạo đức Ngài vang khắp, số chúng
qui ngưỡng đến ngàn vạn, những người được quả
thánh tới năm trăm vị. Về sau, Ngài đến nước
Ba-La-Nại có một vị trưởng-giả vào hội. Ngài hỏi
đồ chúng :
-
Các ngươi có biết người mới vào đây chăng ?
Xưa
Phật huyền kư rằng :"Sau khi ta diệt độ gần 600
năm, sẽ có một vị thánh nhơn ra đời hiệu
Mă-Minh, sanh trong nước Ba-La-Nại, nói pháp nơi
thành Hoa-Thị, bẻ dẹp các đạo khác, độ người vô
lượng". Mă-Minh nghe Ngài nói trúng tên ḿnh th́
thầm khen, bước ra đảnh lễ Ngài và hỏi :
-
Tôi muốn biết Phật, thế nào là Phật ?
Ngài
đáp :
-
Ông muốn biết Phật, chẳng biết ấy là phải.
- Đă chẳng biết Phật th́ đâu
biết là phải ?
- Ông đă chẳng biết Phật,
tại sao biết chẳng phải ?
- Đây thật là nghĩa cưa.
- Đó là nghĩa cây. Ông nói
nghĩa cưa là thế nào ?
- Tôi cùng thầy phân ra bằng
nhau. Nghĩa cây của thầy nói là sao ?
- Ngươi bị ta xẻ
.
Mă-Minh liền ngộ được thắng nghĩa của
Ngài, vui thích cầu xin xuất gia. Ngài độ cho
ông xuất gia và thọ giới cụ-túc.
Số chúng được Ngài độ, có
đến hai trăm vị chứng quả A-La-Hán, ngoài ra c̣n
vô số người phát tâm qui kính Tam-bảo. Thấy cơ
duyên giáo hóa sắp viên măn, Ngài kêu Mă-Minh
lại dặn ḍ :
-Ngươi nên chuyển bánh xe pháp làm vị Tổ
thứ 12. Xưa đại pháp nhăn tạng của Như-Lai trao
cho Tổ Ma-Ha Ca-Diếp lần lượt truyền trao, nay
ta trao cho ngươi, ngươi phải truyền tiếp . Nghe
ta nói kệ :
- Mê
ngộ như ẩn hiển,
- Minh
ám bất tương ly,
- Kim
phó ẩn hiển pháp,
- Phi
nhất diệc phi nhị .
Dịch
:
- Mê
ngộ như ẩn hiện,
- Tối
sáng chẳng rời nhau,
- Nay
trao pháp ẩn hiện,
- Chẳng một cũng chẳng hai .
Ngài
truyền pháp cho Mă-Minh xong, liền hiện thần
biến, rồi lặng lẽ viên tịch . Mă-Minh và đồ
chúng xây tháp trùm trên chơn thân thờ Ngài
.
12. Bồ-Tát Mă-Minh
( Asvaghosha )
Cuối
thế kỷ thứ năm sau Phật Niết-bàn .
Bồ-Tát người nước Ba-La-Nại, hiệu Mă-Minh
cũng có hiệu Công-Thắng. V́ khi Ngài sanh ra,
các con ngựa đều ré lên, nên gọi là Mă-Minh. lại
cũng có thuyết nói, mỗi khi Ngài thuyết pháp,
các con ngựa trong chuồng ở gần đều lặng lẽ lóng
nghe, khi thuyết xong chúng lại hư vang, nên gọi
Ngài là Mă-Minh. Lúc chưa xuất gia, Ngài là một
biện sĩ lỗi lạc, danh tiếng đồn đăi vang cả quốc
nội và quốc ngoại.
Sau
khi được Tổ Phú-Na-Dạ-Xa độ cho xuất gia và
truyền tâm ấn, Ngài lại nổi tiếng là một nhà
thuyết pháp tài t́nh.
Bao
nhiêu tà thuyết ngoại đạo đều bị Ngài bẻ dẹp.
Chính Ngài là người thắp sáng ngọn đuốc Đại-Thừa
ở đầu thế kỷ thứ sáu sau Phật Niết-bàn. Ngài đi
giáo hóa đến nước Hoa-Thị nơi đây ngọn đuốc pháp
của Ngài càng sáng rực hơn.
Một
hôm, có một ông già gầy ốm vào trong hội nghe
pháp, bỗng nhiên ngă xuống đất. Ngài bảo chúng
:
-Đây
là việc phi thường, sẽ có tướng lạ. Ông già kia
liền biến mất. Chợt thấy dưới đất vọt lên một
người con gái nhan sắc đẹp đẽ thân như màu vàng,
dùng tay chỉ Ngài nói kệ :
- Khể
thủ trưởng lăo tôn,
- Đương thọ Như-Lai kư,
- Kim
ư thử địa thượng,
- Nhi
độ sanh tử chúng .
Dịch
:
- Cúi
đầu lễ trưởng lăo,
- Hiện
nhận lời Phật ghi,
- Nay
ở nơi xứ nầy,
- Độ
chúng khỏi sanh tử .
Nói
kệ xong, trong chớp mắt không thấy cô nữa. Ngài
bảo chúng :
-
Giây lát đây sẽ có ngoại đạo đến đấu sức với ta.
Bỗng
chốc gió mưa ầm ĩ xối xả kéo đến, khiến trời đất
mịt mù. Ngài bảo :
-
Đây là báo hiệu ngoại đạo sẽ đến. Ta sẽ trừ
chúng. Nói xong, Ngài chỉ tay lên hư không, hiện
ra con rồng vàng to lớn, phấn khởi oai thần,
khiến pháp ngoại đạo tan biến .
Sau
bảy ngày, có một con sâu nằm nép dưới ṭa của
Ngài. Ngài lấy tay nắm bắt con sâu ấy đưa cho
đại chúng xem và nói :
-
Con sâu nầy là trá h́nh của ngoại đạo, đến ẩn
núp nơi đây đặng nghe trộm pháp của ta . Nói
xong, Ngài ném con sâu ra bảo : " Đi ngay ! ".
Nhưng con sâu sợ hăi nằm im không động. Ngài an
ủi :
- Ta
không có hại ngươi. Ngươi hăy hiện lại bổn h́nh.
Ngoại đạo liền hiện bổn h́nh đảnh lễ xin sám
hối. Ngài hỏi :
-
Ngươi tên ǵ ?
Có
bao nhiêu đồ đệ ?
Ngoại đạo thưa :
-
Con tên Ca-Tỳ-Ma-La, có đến ba ngàn đồ đệ.
-
Ngài hỏi :
-
Tột thần lực của ngươi biến hóa thế nào.
Ngoại đạo thưa :
-
Con hóa biển cả là việc chẳng khó.
-
Ngài hỏi :
-
Ngươi hóa tánh biển được chăng ?
Ngoại đạo mờ mịt không biết, thưa :
-
Lời nầy con không thể biết.
Ngài
v́ giải thích :
-
Tánh biển là núi sông quả đất đều y cứ nơi đó mà
lập, tam muội lục thông do đây phát hiện.
Ngoại đạo nghe pháp ấy, liền khởi ḷng
tin mạnh mẽ, cùng ba ngàn đồ đệ đều cầu xin xuất
gia. Ngài v́ họ cho cạo đầu xuất gia, rồi triệu
tập năm trăm vị thánh tăng đến làm lễ thọ giới
cụ túc. Ngài bảo giới tử :
-
Các ngươi thú hướng Bồ-Đề sẽ thành đạo thánh.
Ca-Tỳ-Ma-La quả nhiên được giới thể, phát hào
quang sáng, có mùi hương lạ xông khắp.
Một
hôm, Ngài gọi Ma-La đến bảo :
-
Đại pháp nhăn tạng của Như-Lai, nay trao cho
ngươi, truyền bá chớ để đoạn dứt. Nghe ta nói kệ
:
- Ẩn
hiển tức bổn pháp,
- Minh
ám nguyên bất nhị,
- Kim
phó ngộ liễu pháp,
- Phi
thủ diệc phi khí.
Dịch
:
- Ẩn
hiện vốn pháp này,
- Sáng
tối nguyên không hai,
- Nay
truyền pháp liểu ngộ,
- Không lấy cũng chẳng bỏ .
Truyền pháp xong, Ngài vào chánh định
hiện tướng viên tịch. Ca-Tỳ-Ma-La và đồ chúng
đem chơn thể của Ngài để vào khám thờ. Ngài là
vị Tổ thứ 12 của Thiền-Tông, cũng là một vị pháp
sư làm sáng tỏ giáo pháp Đại-Thừa. Ngài sáng tác
ba bộ luận:
1-
Đại-Thừa Khởi Tín Luận.
2-
Đại Tông địa huyền văn bổn luận.
3-
Sự sư pháp ngũ thập tụng .
Nổi
tiếng nhất là bộ Đại-Thừa Khởi Tín Luận, đến
hiện giờ những nước Phật-giáo Đại-Thừa vẫn
truyền dạy bộ luận nầy .
13. Tổ Ca-Tỳ-Ma-La
(Kapimala)
Đầu
thế kỷ thứ sáu sau Phật Niết-bàn.
Ngài
người nước Hoa-Thị, ban đầu học theo ngoại đạo,
giỏi các pháp huyễn thuật, đồ chúng có đến ba
ngàn. Khi đến so tài với Mă-Minh, bị Tổ hàng
phục, liền cùng đồ chúng phát tâm xuất gia. Tổ
Mă-Minh độ cho Ngài xuất gia. Sau khi được
truyền tâm pháp, Ngài đi giáo hóa khắp nơi. Lần
lượt đến nước Tây-Ấn, nơi đây có Thái-tử tên
Vân-Tự-Tại rất ngưỡng mộ Ngài. Thái-Tử thỉnh
Ngài và đại chúng vào cung cúng dường, Ngài từ
chối bảo :
-
Phật cấm Sa-môn không được gần gũi vua quan
những nhà có thế lực, nên tôi không dám nhận
lời. Thái-tử bạch :
-
Thưa Tôn-giả ! phía Bắc thành nầy có một ḥn núi
lớn, trong núi có hang đá yên lặng bặt người thế
tục, có thể ở nơi đó thiền định được. Tuy nhiên,
trong đó có nhiều rắn và thú dữ, song tin tưởng
đức cao dày của Tôn-giả sẽ chuyển hóa chúng.
Ngài nhận lời, cùng đồ đệ tiến thẳng đến núi ấy.
Vừa đến núi nầy quả gặp một con rắn lớn dài gần
một dặm, trợn mắt nh́n Ngài, Ngài vẫn đi thẳng
không ngó đến nó. Ngài đi đến phía Nam chân núi
dừng nghỉ chỗ đất bằng, con rắn ấy đến quấn
chung quanh Ngài, Ngài cũng chẳng đoái hoài,
giây lát con rắn ḅ đi. Ngài t́m lại chúng theo
Ngài th́ họ đă chạy tán loạn hết. Ngài một ḿnh
đi thẳng đến hang đá. Bỗng thấy một ông già mặc
toàn đồ trắng đi ra chấp tay kính lễ Ngài, Ngài
hỏi :
-Ông
ở đâu ?
Ông
già thưa :
-Con
xưa làm vị Tỳ-kheo rất thích vắng lặng, bực
người mới học đến hỏi, nhơn đó nổi sân; bởi
duyên cớ ấy khi chết đọa làm thân rắn ở trong
hang nầy, đến giờ đă ngàn năm. Vừa gặp Tôn-giả
là bực thánh đức nên ra kính lễ. Ngài hỏi
:
-Núi
nầy c̣n có người nào ở nữa chăng? Và họ theo đạo
nào ? Ngươi chỉ cho ta biết ?
Ông
già thưa :
-Cách đây mười dặm về phía Bắc có một
tàng cây thật to, dưới tàng cây có năm trăm vị
nhân tài ẩn dật, vị lănh tụ hiệu là Long-Thọ,
thường v́ chúng nói pháp, con cũng thường đến
nghe. Ngài chờ đồ chúng tụ hội, cùng họ tiến đến
phía Bắc. Vừa đến cây to, quả nhiên Long-Thọ ra
nghinh tiếp Ngài. Long-Thọ vui vẻ đảnh lễ thưa
Ngài :
-
Chỗ núi sâu vắng vẻ, nơi hang ổ của thú dữ, đại
đức chí tôn sao thương xót đến đây?
Ngài
đáp :
-Ta
không phải chí tôn, đến để phỏng vấn hiền giả.
Long-Thọ lặng thinh thầm nghĩ:
-Tôn-giả nầy được tánh quyết định, đạo
nhăn đă sáng chưa ? Phải là người đại thánh,
thừa kế chơn tông chăng ?
Ngài
biết liền bảo:
-Tuy
tâm niệm của ngươi, ta đă biết rồi, chỉ cần xuất
gia, lo ǵ ta chẳng phải thánh ?
Bấy
giờ Long-Thọ sám hối tạ tội. Ngài độ cho xuất
gia. Một hôm, Ngài gọi Long-Thọ lại bảo:
-Nay
ta đem đại pháp nhăn tạng của Như-Lai trao cho
ngươi, ngươi phải truyền nối chớ dứt. Nghe ta
nói kệ :
- Phi
ẩn phi hiển pháp,
- Thuyết thị chơn thật tế,
- Ngộ
thử ẩn hiển pháp,
- Phi
ngu diệc phi trí .
Dịch
:
- Pháp
không ẩn không hiển,
- Nói
là mé chơn thật,
- Ngộ
pháp ẩn hiển nầy,
- Chẳng ngu cũng chẳng trí .
Truyền pháp xong, Ngài tŕnh thần biến
rồi tịch diệt. Long-Thọ và đồ chúng hỏa táng
thân Ngài, lượm xá-lợi xây tháp cúng dường .
14. Bồ-Tát
Long-Thọ (Nagarjuna) Giữa thế kỷ thứ sáu sau
Phật Niết-bàn.
Ngài
cũng có tên là Long-Thắng, ḍng Phạm-Chí ở miền
Tây-Ấn. Thuở nhỏ, Ngài bẩm tánh thông minh, vừa
nghe Phạm-Chí tụng bốn kinh Phệ-Đà là Ngài thuộc
ḷng văn nghĩa. Đến 20 tuổi, Ngài đi châu du
khắp các nước t́m học các môn thiên văn, địa lư,
toán số, sấm kư và các học thuật của ngoại đạo.
Môn nào Ngài học đến đều xuất sắc hơn mọi người.
Nhơn một cơ duyên chẳng lành. Ngài nhận thực
được các pháp là vô thường đau khổ nên vào núi ở
ẩn. Số người t́m đến cầu học với Ngài rất đông.
Sau
khi gặp Tổ Ca-Tỳ-Ma-La cảm hóa, Ngài xin xuất
gia được Tổ độ cho và truyền cả tâm ấn. Từ đó,
Ngài vân du thuyết pháp khắp nơi, lần lượt đến
miền Nam-Ấn. Dân chúng xứ nầy chỉ sùng phước
nghiệp, từ Ngài đến đem pháp yếu chỉ dạy, họ tự
bảo nhau : "Chỉ phước nghiệp nầy là việc tôi
thắng, nói về Phật tánh th́ đâu thể thấy".
Ngài
nhơn đó bảo họ :
-Các ngươi nếu muốn thấy được Phật
tánh th́ trước hết phải bỏ tâm ngă mạn đi, mới
có thể thấy được. Họ hỏi Ngài :
-Phật tánh lớn hay nhỏ ?
Ngài
đáp :
-Chẳng nhỏ chẳng lớn, không rộng không
hẹp, không phước không báo, chẳng chết chẳng
sống. Dân chúng nghe Ngài nói tột lư, vui mừng
nguyện học pháp ấy. Ngài liền ngay trên ṭa hóa
thân như vầng mặt trăng. Dân chúng tuy nghe
thuyết pháp mà không thấy có h́nh Ngài. Trong ấy
có con một ông nhà giàu tên là Ca-Na-Đề-Bà, khi
thấy thế liền cảm ngộ.
Đề-Bà bảo dân chúng :
-Biết tướng nầy chăng ?
Dân
chúng thưa :
-Chúng tôi không thể phân biệt
được.
Đề-Bà nói:
-Đây
là Bồ-Tát thị hiện để biểu thị Phật tánh, muốn
chúng ta hiểu rơ vậy. Vô tướng tam muội giống
như mặt trăng tṛn là nghĩa Phật tánh rỗng rang
sáng suốt . Đề-Bà nói dứt lời th́ vầng trăng ẩn
mất, Bồ-Tát Long Thọ hiện ngồi an nhiên chỗ cũ,
nói kệ:
- Thân
hiện viên nguyệt tướng,
- Dĩ
biểu chư Phật thể,
- Thuyết pháp vô kỳ h́nh,
- Dụng
biện phi thinh sắc.
Dịch
:
- Thân
hiện tướng trăng tṛn,
- Để
nêu thể các Phật,
- Nói
pháp không h́nh ấy,
- Dùng
rơ phi thinh sắc .
Toàn
chúng nghe xong, đều cảm ngộ, cầu xin xuất gia.
Ngài triệu tập các bậc thánh tăng đến truyền
giới. Trong số xuất gia nầy, Đề-Bà là người dẫn
đầu. Một quốc gia ở gần miền Nam-Ấn, có đến năm
ngàn người tu theo ngoại đạo được nhiều phép lạ,
Vua và quốc dân đều thọ giáo nơi họ, khiến đạo
Phật mờ tối. Ngài thấy thế cảm động, bèn đổi
h́nh thức, mặc áo trắng đợi mỗi khi vua ra
thành, Ngài cầm cây cờ đi trước, hoặc ẩn hoặc
hiện. Làm như thế đến bảy lần. Hôm nọ, vua lấy
làm lạ kêu lại hỏi :
-Ngươi là người ǵ dám đi trước ta, mà
bắt không được, thả chẳng đi ?
Ngài
đáp :
-Tôi
là người trí, biết tất cả việc.
Vua
nghe ngạc nhiên, muốn thí nghiệm nói:
-Chư
thiên nay đang làm ǵ ?
Ngài
đáp :
-Chư
thiên đang đấu chiến với A-Tu-La.
Vua
hỏi :
-Làm
sao được biết ?
Ngài
đáp :
-Nếu
bệ hạ muốn biết chốc lát sẽ thấy chứng nghiệm.
Quả nhiên, phút chốc thấy gươm giáo tay chơn ở
trên không rơi xuống. Vua và quốc dân rất kính
phục Ngài, nhơn đó, Ngài chuyển họ trở lại quy y
Tam-Bảo. Hôm nọ, Ngài gọi Ca-Na-Đề-Bà đến dặn ḍ
:
-Như-Lai lấy đại pháp nhăn tạng trao cho
Tổ Ma-Ha Ca-Diếp, cho đến đời ta, nay ta trao
cho ngươi. Hăy nghe kệ :
- Vị
minh ẩn hiển pháp,
- Phương thuyết giải thoát lư,
- Ư
pháp tâm bất chứng,
- Vô
sân diệc vô hỷ.
Dịch
:
- V́
sáng pháp ẩn hiển,
- Mới
nói lư giải thoát,
- Nơi
pháp tâm chẳng chứng,
- Không sân cũng không hỷ.
Dặn
ḍ xong, Ngài nhập nguyệt luân tam muội rồi hiện
tướng thần biến vào Niết-bàn. Ngài sáng tác rất
nhiều bộ luận để xiển dương giáo pháp Đại-Thừa :
1-
Trung luận,
2-
Thuận trung luận,
3-
Thập nhị môn luận,
4-
Đại-Thừa phá hữu luận,
5-
Lục thập tụng như lư luận,
6-
Đại-Thừa nhị thập tụng luận,
7-
Thập bát không luận,
8-
Hồi tránh luận,
9-
Bồ-đề tư lương luận,
10-
Bồ-đề tâm ly tướng luận,
11-Bồ-đề hạnh kinh,
12-
Thích ma ha diễn luận,
13-
Khuyến phát chư vương yếu kệ,
14-
Tán pháp giới tụng,
15-
Quảng đại pháp nguyện tụng.
Bồ-Tát Mă-Minh là người khêu mồi ngọn đèn
chánh pháp đại-thừa ; chính Ngài là người thắp
sáng và truyền bá khắp nơi cho đến vô tận ngọn
đuốc Đại-Thừa. Những tác phẩm của Ngài, bộ
Trung-Luận có giá trị nhất, đến hiện nay đă dịch
ra nhiều thứ chữ để truyền bá khắp thế
giới.
15. Bồ-Tát
Ca-Na-Đề-Bà (Kanadeva)
Cuối
thế kỷ thứ sáu sau Phật Niết-bàn.
Ngài
ḍng Tỳ-Xá-Ly ở Nam-Ấn. Thuở nhỏ Ngài bẩm tánh
thông minh, biện tài vô ngại, Ban sơ Ngài học
phong tục trong nước, ưa làm việc phước thiện.
Khi Tổ Long-Thọ đến nước nầy, Ngài t́m đến yết
kiến. Tổ Long-Thọ muốn thử Ngài, sai đồ đệ múc
một thau nước đầy để ở trước lối vào. Ngài đi
qua lấy cây kim bỏ vào, rồi thẳng đến yết kiến
Tổ.
Thầy
tṛ gặp nhau vui vẻ lănh hội, khi Tổ Long-Thọ
thuyết pháp hiện tướng vầng trăng tṛn, Ngài
thầm ngộ yếu chỉ. Ngài theo Tổ xuất gia và được
truyền tâm ấn.
Sau
khi đắc pháp, Ngài vân du khắp nơi, lần lượt
sang nước Ca-Tỳ-La để giáo hóa. Trong nước nầy
có ông trưởng giả tên Tịnh-Đức sanh được hai
người con trai, người cả tên La-Hầu-La-Điểm,
người thứ tên La-Hầu-La-Đa. Ông hằng ngày chỉ
săn sóc vườn tược. Hôm nọ, một cây trong vườn
nẩy sanh thứ nấm lạ, ông nhổ về ăn thử, thực
ngon lành. Song chỉ ông và người con thứ hằng
ngày đều nhổ được nấm ăn, ngoài ra không ai nhổ
được. Ông bảo con thứ :
-Nấm
cây nầy chỉ ta và ngươi được ăn, ắt là việc phi
thường. Ước ǵ có ai thông hiểu giải thích cho
việc này. La-Hầu La-Đa nói kệ:
- Thử
mộc sanh kỳ nhĩ,
- Ngă
thực bất khô khao,
- Trí
giả giải thử nhơn,
- Ngă
hồi hướng Phật đạo .
Dịch
:
- Cây
nầy sanh nấm lạ,
- Con
ăn rất ngon lành,
- Người trí giải nhơn nầy,
- Con
xin theo Phật đạo .
Chợt
gặp Bồ-Tát Đề-Bà đến nhà, cha con ông Tịnh Đức
vui mừng đem việc nầy ra hỏi. Ngài dạy
:
-Khi
xưa lúc ông hai mươi tuổi thường mời một vị
Tỳ-kheo về nhà cúng dường. Vị Tỳ-kheo ấy tuy có
chút ít giới hạnh mà con mắt pháp chưa sáng, tâm
không thấu lư, luống nhận sự cúng dường của ông.
Song vị Tỳ-kheo ấy có chút ít tu hành nên khỏi
sa vào đường ác, vẫn phải làm cây sanh nấm nầy
để trả nợ cho ông. Xưa khi vị Tỳ-kheo ấy đến nhà
ông, trong nhà chỉ có ông và người con thứ nầy
thành kính cúng dường, c̣n bao nhiêu người đều
không vui. V́ thế, nên nấm hiện nay chỉ hai cha
con ông được hưởng. Ngài lại bảo:
-Ông
nay được bao nhiêu tuổi ?
Trưởng giả thưa:
-Tôi
được 79 tuổi.
Ngài
nói kệ :
- Nhập
đạo bất thông lư,
- Phục
thân hoàn tín thí,
- Nhữ
niên bát thập nhất,
- Thử
mộc diệc vô nhĩ.
Dịch
:
- Vào
đạo không thông lư,
- Hoàn
thân đền tín thí,
- Trưởng giả tuổi tám mốt,
- Cây
nầy không sanh nấm.
Ông
trưởng giả nghe nói xong, biết rơ duyên trước
càng thêm thán phục, Ông thưa :
-Tôi
già yếu tuy muốn xuất gia e không kham theo
thầy. Đứa con thứ của tôi hết ḷng mộ đạo, tôi
xin cho nó theo làm thị giả cho thầy, mong thầy
dung nạp. Ngài hoan hỷ chấp nhận La-Hầu-La-Đa
xuất gia và triệu tập các vị thánh tăng đến
truyền giới.
Ngài
du hóa đến nước Ba-Liên-Phất gặp lúc ngoại đạo
hưng thịnh Phật pháp lu mờ. Ngài đem hết khả
năng chuyển hóa ngoại đạo trở về quy y Tam-Bảo,
khiến xứ nầy Phật pháp hưng thịnh lại.
Khi
già yếu, Ngài gọi La-Hầu-La-Đa đến phó chúc pháp
nhăn tạng và dặn ḍ đừng để đoạn diệt. Kế nói kệ
:
- Bổn
đối truyền pháp nhơn,
- Vị
thuyết giải thoát lư,
- Ư
pháp thật vô chứng,
- Vô
chung diệc vô thủy.
Dịch
:
- Xưa
đối người truyền pháp,
- V́
nói lư giải thoát,
- Nơi
pháp thật không chứng,
- Không chung cũng không thủy.
Dặn
ḍ xong, Ngài nhập định ngồi nghiêm chỉnh thị
tịch. La-Hầu-La-Đa và đồ chúng xây tháp cúng
dường.
Ngài
là Bồ-Tát thứ ba làm nổi bật giáo lư Đại-Thừa.
Những tác phẩm Ngài trước thuật :
1-
Bách luận,
2-
Bách tự luận,
3-
Đại trượng phu luận,
4-
Đề-Bà Bồ-Tát phá Lăng-Già kinh trung ngoại đạo
tiểu-thừa tứ tông luận,
5- Đề-Bà Bồ-Tát thích Lăng-Già kinh
trung ngoại đạo tiểu-thừa Niết-bàn
luận,
Những bộ luận trên nổi tiếng nhất là bộ
Bách-luận và Đại-Trượng-Phu luận.
16. Tổ
La-Hầu-La-Đa (Rahulata) Đầu thế kỷ thứ bảy sau Phật
Niết-bàn .
Ngài
ḍng Phạm-Ma ở nước Ca-Tỳ-La, Thuở nhỏ đă có sẵn
ḷng mộ đạo. Khi lớn do cơ duyên trong vườn có
cây mọc nấm, Tổ Đề-Bà giải thích nhơn do, mà
Ngài được xuất gia. Sau khi được truyền tâm ấn,
Ngài thống lănh đồ chúng du hóa nhơn gian, lần
lượt đến phía Nam thành Thất-La-Phiệt gặp sông
Kim-Thủy. Ngài bảo chúng :
-Các
ngươi biết chăng ? Vừa thấy bóng năm đức Phật
hiện dưới ḍng sông, ta lấy bát mút nước nếm có
mùi vị lạ, ngược ḍng sông nầy chừng năm trăm
dặm sẽ có bực chí nhơn ở, hiệu là
Tăng-Già-Nan-Đề.
Ngài
bèn dẫn chúng theo ven bờ sông trở lên, quả
nhiên thấy Nan-Đề đang ngồi thiền trong thất đá.
Ngài và đồ chúng dừng lại xem, chờ đến bảy ngày
Nan-Đề mới xuất định. Ngài hỏi Nan-Đề:
-Thân ông định hay tâm ông định ?
Nan-Đề đáp:
-Thân tâm đều định.
-Thân tâm đều định sao có
xuất nhập ?
-Tuy có xuất nhập mà không
mất tướng định, như vàng ở trong giếng, vàng ra
ngoài giếng, thể vàng vẫn yên lặng.
-Nếu
vàng ở trong giếng, vàng ra ngoài giếng, thể
vàng không động tịnh, th́ vật ǵ ra vào ? -Nơi
vàng không động tịnh th́ vật ǵ ra vào ?
-Đă
thừa nhận vàng ra vào mà thể vàng không động
tịnh.
-Nếu
vàng ở trong giếng th́ ra là vật ǵ ?
-Vàng, nếu ra ngoài th́ ở
trong giếng không phải vàng, Vàng nếu ở trong
giếng th́ ra không phải vật.
-Nghĩa nầy không đúng.
-Lư kia chẳng nhằm.
-Nghĩa nầy đă ngă.
-Nghĩa kia chẳng thành.
-Nghĩa kia chẳng thành mà
nghĩa của ta thành.
-Nghĩa ta tuy thành mà pháp
không có ta.
-Nghĩa ta đă thành v́ ta mà
không ta.
-Ta mà không ta lại thành
nghĩa ǵ ?
-V́ ta không ta nên thành
nghĩa của ngươi.
-Nhơn giả thờ vị thánh nào
mà được "không ta" ấy ?
-Thầy ta là Bồ-Tát Ca-Na-Đề-Bà chứng được
"không ta". Nan-Đề tán thán :
-Cúi
đầu lễ Đề-Bà, người tạo thành nhơn giả. V́ nhơn
giả "không ta", tôi muốn thờ nhơn giả. Ngài bảo
:
-V́
ta đă "không ta", ngươi cần thấy là ta. Ngươi
nếu thờ nơi ta, biết ta chẳng là ta.
Nan-Đề tâm được rỗng rang liền đảnh lễ
nói kệ :
Tam
giới nhất minh
đăng
Hồi quang nhi chiếu
ngă
Thập phương tất khai
lăng
Như nhật hư không trụ.
Dịch
:
Ba
cơi một ngọn
đèn
Ánh sáng soi chiếu
con
Mười phương đều sáng
lạng
Như mặt trời trong không.
Nan-Đề nói kệ xong, lại đảnh lễ cầu xin
thế độ. Ngài bảo:
-Tâm
ngươi tự tại chẳng lệ thuộc vào ta, cần ǵ nương
nhờ mà cầu giải thoát. Một hôm, Ngài gọi Nan-Đề
đến bảo :
-Nay
ta đă già không c̣n ở đời bao lâu, đại pháp nhăn
tạng của Như-Lai trao lại cho ngươi. Nghe ta nói
kệ :
Ư
pháp thật vô
chứng
Bất thủ diệc bất
ly
Pháp phi hữu vô
tướng
Nội ngoại vân hà khởi.
Dịch
:
Nơi
pháp thật không
chứng
Chẳng giữ cũng chẳng
ĺa
Pháp chẳng tướng có
không
Trong ngoài do đâu khởi.
Nan-Đề nghe kệ xong càng thêm cung kính,
nói kệ tán thán :
Thiện tai đại thánh
giả
Tâm minh du nhật
nguyệt
Nhất quang chiếu thế
giới
Ám ma vô bất diệt.
Dịch
:
Lành
thay ! bậc đại
thánh
Tâm sáng như nhật
nguyệt
Ánh sáng chiếu thế
giới
Ma tối diệt hết sạch.
Ngài
ngồi trên ṭa lặng lẽ thị tịch. Bốn chúng xây
tháp cúng dường .
17. Tổ
Tăng-Già-Nan-Đề
(Sanghanandi) Giữa thế kỷ thứ bảy sau
Phật Niết-bàn.
Ngài
là hoàng-tử con vua Bảo-Trang-Nghiêm ở thành
Thất-La-Phiệt. Ngài sanh chưa bao lâu đă biết
nói, mà thường nói việc Phật pháp. Năm bảy tuổi,
Ngài chán thú vui ở đời, cầu xin xuất gia. Ngài
nói kệ xin cha mẹ :
Khể
thủ đại từ
phụ
Ḥa nam cốt huyết
mẫu
Ngă kim dục xuât
gia
Hạnh nguyện ai mẫn cố .
Dịch
:
Cúi
đầu lễ cha
lành
Nép ḿnh lạy mẹ
hiền
Nay con muốn xuất
gia
Xin thương xót nhận cho .
Cha
mẹ cố khuyên giải không cho. Ngài phải nhịn ăn
nài nỉ cho kỳ được. Đối cùng cha mẹ thấy chí
Ngài quá mạnh không sao ngăn nổi, nên cho xuất
gia với điều kiện ở một ngôi nhà riêng trong
hoàng cung. Vua thỉnh Sa-Môn Thiền-Lợi-Đa về dạy
Phật pháp cho Ngài. Từ đây Ngài được pháp danh
là Tăng-Già Nan-Đề. Ngài ở trong hoàng cung chín
năm tu hành, mới được thọ giới cụ túc. Một hôm,
Ngài tự cảnh tỉnh :
-Ta
đă thọ giới cụ túc mà c̣n ở trong nhà thế tục
nầy sao ? Chợt một buổi chiều trời quang mây
tạnh, Ngài nh́n thấy một con đường bằng phẳng, ở
xa đầu kia lố dạng một ngọn núi xanh. Ngài liền
cất bước nhắm ḥn núi thẳng tiến. Ngài đi đến
dưới núi mà trời chưa tối. Tự Ngài t́m được thất
đá rồi ngồi thiền nơi ấy. Năm ấy Ngài 26 tuổi.
Sáng
hôm sau, vua nghe mất Thái-tử cho người t́m kiếm
khắp nơi không được. Bực ḿnh, vua đuổi Sa-Môn
Thiền-Lợi-Đa ra khỏi thành. Ngài tu thiền ở đây
ngót mười năm, mới có cơ duyên gặp Tổ
La-Hầu-La-Đa được truyền chánh pháp. Sau khi đắc
pháp, Ngài thống lănh đồ chúng du hóa khắp nơi
làm lợi lạc quần sanh. Một hôm, Ngài bảo đồ
chúng :
-Thầy ta La-Hầu-La-Đa thường nói nước
Ma-Đề sẽ ra đời một vị thánh tên Già-Da-Xá-Đa
nối ta truyền pháp. Nay ta và các ngươi sang
nước ấy t́m. Ngài liền dẫn đồ chúng du hóa nước
Ma-Đề. Đang đi trong nước nầy, bỗng có một luồng
gió mát lành từ phương tây thổi đến làm mát khỏe
toàn chúng, Ngài bảo chúng:
-Đây
là đạo đức phong, ba ngàn dặm về phía tây ắt gặp
thánh nhơn. Thầy tṛ đi đến một ḥn núi nh́n lên
đảnh có áng mây năm sắc.
Ngài
bảo chúng :
-Trên đảnh núi có mây tía như cái lọng,
ắt là chỗ thánh nhơn ở. Lên đến đảnh, quả nhiên
thấy một mái nhà tranh nằm bên cạnh núi. Một đứa
bé cầm gương tṛn, đến trước bái Ngài. Ngài hỏi
:
-Ngươi bao nhiêu tuổi ?
Đứa
bé thưa :
-Trăm tuổi.
-Ngươi c̣n bé mà sao trăm
tuổi ?
-Tôi chẳng hiểu sao, chính
tôi một trăm tuổi.
-Ngươi có căn cơ lành chăng
?
-Phật đâu không nói kệ :"Nếu người sanh
trăm tuổi không hội được cơ duyên chư Phật,
chẳng bằng sanh một ngày, mà được hiểu rành rơ".
-Ngươi cầm gương tṛn ư muốn
làm ǵ ?
Đứa
bé nói kệ :
- Chư
Phật đại viên giám,
- Nội
ngoại vô hà ế,
- Lưỡng nhơn đồng đắc kiến,
- Tâm
nhăn giai tương tợ.
Dịch
:
- Chư
Phật gương tṛn lớn,
- Trong ngoài không vết che,
- Hai
người đồng được thấy,
- Tâm
mắt đều giống nhau .
Ngài
thấy đứa bé đối đáp hợp đạo như thế, đồng ư cho
làm thị giả, Ngài nhận đứa bé dẫn về tịnh-xá cạo
tóc thọ giới, cho hiệu là Già-Da-Xá-Đa. Một hôm,
gió thổi cái linh treo trên điện Phật khua động,
Ngài hỏi Xá-Đa:
-
Linh kêu hay gió kêu ?
Xá-Đa thưa:
-
Chẳng phải linh kêu, chẳng phải gió kêu, mà tâm
con kêu.
- Tâm ngươi là cái ǵ ?
-
Đều lặng lẽ.
- Hay thay! ngươi khéo hội
lư Phật, nên nói pháp yếu, nối đạo cho ta, chẳng
phải ngươi c̣n ai ? Ngài liền nói kệ :
- Tâm
địa bổn vô sanh,
- Nhơn
địa tùng duyên khởi,
- Duyên chủng bất tương pḥng,
- Hoa
quả diệc phục nhi .
Dịch
:
- Đất
tâm vốn không sanh,
- Nhơn
đất từ duyên khởi,
- Duyên giống chẳng ngại nhau,
- Hoa
trái cũng như thế .
Nói
kệ xong, Ngài nắm cành cây mà hóa. Đồ chúng bàn
nhau :"Thầy ta diệt độ ở dưới tàng cây, cũng là
điềm che mát cho kẻ sau". Liền làm lễ hỏa táng
tại đây .
18. Tổ
Già-Da-Xá-Đa (Gayasata) Cuối thế kỷ thứ bảy sau
Phật Niết-bàn.
Ngài
họ Uất-Đầu-Lam ở nước Ma-Đề, cha hiệu Thiên-Cái,
mẹ là Phương-Thánh. Bà Phương-Thánh thọ thai,
một đêm mộng thấy có người cầm cái gương báu đến
nói: "Tôi đến". Bà chợt tỉnh giấc, nghe toàn
thân nhẹ nhàn thanh thản, khác hơn ngày thường.
Trong nhà có mùi hương lạ, vài lằn hào quang
xuất hiện. Bảy ngày sau, Bà sanh ra Ngài.
Thân
Ngài trong sáng giống như lưu-ly. Ngài thích chỗ
vắng vẻ, nói ra những lời siêu việt. Nhà cha mẹ
Ngài ở trên núi Bảo-Lạc-Ca. Sau khi Ngài ra đời,
ngôi nhà nầy luôn luôn có áng mây tía che đậy
trên không. Tổ Tăng-Già-Nan-Đề nhơn thấy áng mây
ấy, t́m đến gặp Ngài. Từ đó, Ngài theo làm đệ tử
Tổ.
Về
sau, Ngài được Tổ truyền tâm ấn và thống lănh đồ
chúng. Tùy duyên, Ngài đi vân du khắp nơi để
giáo hóa làm lợi ích cho quần sanh. Khi tuổi đă
già, Ngài du hóa đến nước Nguyệt-Chí. Trong nước
nầy có người ḍng Bà-La-Môn Tên Cưu-Ma-La-Đa
tuổi được 30, tu theo ngoại đạo, chủ thuyết tự
nhiên. Ông có nuôi một con chó, mỗi khi ăn xong,
con chó ra hành lang dưới tấm rèm nằm. Có những
khi mưa gió ướt cả ḿnh, mà nó vẫn nằm đó. Người
nhà sợ nó lạnh đuổi đi chỗ khác, rồi nó cũng trở
lại chỗ đó nằm. Ông Cưu-Ma-La-Đa lấy làm lạ, đem
việc đó hỏi thầy ông, nhưng không giải được điều
ǵ. Ông mong có dịp gặp những bậc tu hành đạo
đức cao cả để nhờ giải nghi.
Ngài
cùng đồ chúng đi đến gần nhà người Bà-la-môn
nầy, bỗng thấy khí đại thừa xông lên. Ngài dừng
lại bảo chúng:
-Khí
nầy nếu ṿng tṛn như khoen đeo tai là có Bồ-Tát
bên cạnh. Nay khí nầy tương tợ ṿng tṛn ắt có
thánh nhơn gần đây. Thầy tṛ đi đến một đỗi,
bỗng có người Bà-la-môn đến hỏi thị giả:
-Thầy đây là người ǵ ?
Thị
giả đáp:
-Là
đệ tử Phật.
Người ấy liền chạy thẳng vào nhà đóng cửa
lại. Ngài đi theo đến nơi gơ cửa. Trong nhà nói
vọng ra rằng:
-Nhà
nầy không có người.
–Ngài hỏi:
-Đáp
không người đó là ai ?
Cưu-Ma-La-Đa nghe nói bèn có vẻ lạ, nghi
là bậc đạo hạnh bèn mở cửa. Ra thấy Ngài, ông
chào và thỉnh ngồi ghế giữa, đoạn đem nghi vấn
về con chó ra hỏi.
Ngài
giải thích:
-Con
chó nầy là cha của ông, bởi có chút ít nghiệp
nên đọa làm súc sanh. Xưa kia cha ông đem cả
ngàn đỉnh vàng để trong cái hũ lén chôn dưới
rèm. Đến khi người chết, chưa gặp ông để trối
lại, v́ c̣n tiếc của nầy nên sanh ra làm chó để
ǵn giữ. Nếu ông đào được, ắt nó sẽ bỏ đi.
Cưu-Ma-La-Đa liền cho người đào chỗ con chó nằm,
quả nhiên được hũ vàng đúng như lời Ngài nói.
Ông hết ḷng kính phục phát nguyện xuất gia.
Ngài hoan hỷ chấp nhận làm lễ xuất gia thọ giới
và cho làm thị giả. Thấy cơ duyên đă măn, Ngài
kêu Cưu-Ma-La-Đa đến dặn ḍ:
-Xưa
Như-Lai đem đại pháp nhăn trao cho Tổ Ma-Ha
Ca-Diếp truyền lần đến ta, nay ta truyền lại cho
ngươi. Ngươi nghe ta dạy:
- Hữu
chủng hữu tâm địa,
- Nhơn
duyên năng phát manh,
- Ư
duyên bất tương ngại,
- Đương sanh sanh bất sanh.
Dịch:
- Có
giống có đất tâm,
- Nhơn
duyên hay nẩy mầm,
- Đối
duyên chẳng ngại nhau,
- Chính sanh, sanh chẳng sanh.
Cưu-Ma-La-Đa cung kính vâng dạy, đảnh lễ
thọ lănh. Ngài dùng mười tám phép thần biến rồi
vào viên tịch. Đồ chúng hỏa táng và lượm xá-lợi
xây tháp cúng dường .
19. Tổ
Cưu-Ma-La-Đa (Kumarata) Đầu thế kỷ thứ tám sau Phật
Niết-bàn.
Ngài
ḍng Bà-la-môn ở nước Nguyệt-Chí. Gia đ́nh Ngài
trước kia giàu có, song cha Ngài v́ bịnh tham
tiếc chỉ một bề bo bo giữ của. Nhơn việc con chó
nằm ngoài rèm, gặp Tổ Già-Da-Xá-Đa giải nghi,
Ngài phát tâm theo đạo Phật, xuất gia thọ giới.
Sau khi được được Tổ Xá-Đa phó chúc và truyền
tâm pháp, Ngài đi vân du khắp nơi để hoằng pháp
lợi sanh. Ngài đi giáo hóa đến miền Trung-Ấn,
trên đường gặp một du khách tên Xà-Dạ-Đa đến lễ
bái Ngài, Ông hỏi:
-Nhà
con cha mẹ đều kính Tam-Bảo tu hành đúng pháp,
mà sao nhiều bệnh hoạn, làm việc ǵ thất bại
việc nấy. Hàng xóm gần nhà con, có người hung
bạo giết hại làm ác càng ngày càng nhiều, mà
thân thể khỏe mạnh, ra làm việc đều được như ư.
Như vậy, nhơn quả nghiệp báo đâu không phải nói
suông ư ? Con rất nghi lẽ nầy, mong Ngài giải
nghi.
Ngài
bảo :
-Phật nói nghiệp báo thông cả ba đời, bởi
do đời trước tạo nghiệp lành nên đời nầy hưởng
quả lành. Dù đời nầy có làm ác th́ quả ác sẽ
chịu ở đời sau. Cho nên, có người đời nầy tuy
làm lành mà đời nầy không hưởng được quả lành,
v́ nghiệp ác trước mạnh hơn. Có người đời nầy
tuy làm ác mà không chịu quả ác, v́ nghiệp lành
trước mạnh hơn. Nếu do đời nầy không được quả
lành, rồi lại tạo ác, th́ đời sau càng sa vào
đường ác. Nếu do đời nầy được quả lành, rồi lại
tạo lành, th́ đời sau càng tiến trên đường lành.
Lại, có người đời trước làm lành được nửa đời,
đổi sang làm ác, đến đời nầy nửa đời trước hưởng
phước, nửa đời sau mắc họa. Hiện nay cha mẹ ông
và người hàng xóm lẽ báo ứng thiện ác cũng giống
như thế, bởi nghiệp đời trước chiêu cảm nên vậy.
Đâu thể căn cứ trong hiện đời mà hiểu được ?
Xà-Dạ-Đa nghe giải liền tan hết nghi ngờ.
Ngài dạy thêm:
-Tuy
ông đă tin nghiệp ba đời, mà chưa rơ nghiệp từ
hoặc sanh, hoặc nhơn thức có, thức y nơi bất
giác, bất giác y nơi tâm. Song tâm vốn thanh
tịnh, không sanh diệt, không tạo tác, không báo
ứng, không hơn kém, lặng lẽ linh thông. Ông nếu
vào pháp môn nầy có thể đồng với chư Phật, tất
cả thiện, ác, hữu vi, vô vi, đều như mộng huyễn.
Xa-Dạ-Đa nghe được lời nầy liền phát huệ đời
trước, bèn xin xuất gia. Ngài hỏi:
-Ông
người xứ nào ? Cha mẹ c̣n chăng ? Nếu thật tâm
cầu đạo, nên trở về nhà xin với cha mẹ, xin xong
trở lại cũng chẳng muộn.
Xà-Dạ-Đa thưa:
-Con
là người Bắc-Ấn, cách đây hơn ba ngàn dặm, đâu
thể trở lại được. Xin thỉnh Ngài đến xứ con, cho
gia đ́nh con cúng dường và nhơn đó con được xuất
gia.
Ngài
bằng ḷng, thầy tṛ và đồ chúng đồng sang
Bắc-Ấn. Đến nhà, Xà-Dạ-Đa xin phép cha mẹ được
xuất gia. Ngài làm lễ xuất gia và truyền giới cụ
túc cho Xà-Dạ-Đa tại một ngôi tháp cổ. Một hôm,
Ngài gọi Xà-Dạ-Đa đến dặn ḍ :
-Xưa
Phật ghi rằng ngươi sẽ làm Tổ thứ hai mươi, nay
ta trao pháp nhăn tạng cho ngươi, ngươi khéo giữ
ǵn và truyền bá. Nghe ta nói kệ :
- Tánh
thượng bổn vô sanh,
- Vị
đối cầu nhơn thuyết,
- Ư
pháp kư vô đắc,
- Hà
hoài quyết bất quyết.
Dịch:
- Trên
tánh vốn không sanh,
- V́
đối người cầu nói,
- Nơi
pháp đă không được,
- Đâu
cần giải chẳng giải.
Lại
dặn :
-Kệ
nầy là lời diệu, do Như-Lai thấy tánh thanh tịnh
nói ra, ngươi nên vâng giữ. Xà-Dạ-Đa cung kính
đảnh lễ vâng dạy. Ngài ngồi ngay trên ṭa chấp
tay hở ra như hoa sen nở, phóng hào quang sáng
suốt soi khắp trong chúng, rồi yên lặng thị
tịch. Toàn chúng xây tháp phụng thờ.
20. Tổ Xà-Dạ-Đa
(Jayata) Giữa thế kỷ thứ tám sau
Phật Niết-bàn.
Ngài
người Bắc-Ấn, trước đă sẵn ḷng mến đạo, thông
hiểu đạo lư. Nhơn du lịch miền Trung-Ấn gặp Tổ
Cưu-Ma-La-Đa, Ngài nhờ giải nghi, rồi phát tâm
xuất gia. Sau được truyền tâm ấn. Ngài thống
lănh đồ chúng du hóa các nước, lần lượt đến
thành La-Duyệt. Trong thành nầy hiện có số đông
chúng tăng học đạo. Nghe tin Ngài đến, họ đua
nhau đến yết kiến. Chúng đến trước nhất, người
lănh đạo là Bà-Tu-Bàn-Đầu. Ông nầy tu hành tinh
tấn suốt ngày đêm không nằm và sáu thời lễ bái,
mặc y vá, ăn một bữa, ḷng đạm bạc không mong
cầu. Đồ chúng nhơn đó rất kính trọng ông. Ngài
gọi đồ chúng bảo :
-Người khổ hạnh tu hành thanh tịnh nầy
(Bà-Tu-Bàn-Đầu) có thể được Phật đạo chăng?
Chúng đáp:
-Thượng nhơn nầy tu hành tinh tấn như
thế, đâu không được đạo.
Ngài bảo:
-Người nầy cùng đạo xa vậy.
Dù
khổ hạnh trải qua nhiều kiếp, chỉ giúp cho gốc
vọng, đâu thể chứng đạo ?
Chúng hỏi:
-Nhơn giả chứa đựng được pháp ǵ mà chê
thầy tôi ?
Ngài
đáp:
-Ta
chẳng cầu đạo cũng chẳng điên đảo, ta chẳng lễ
Phật cũng chẳng khinh mạn, ta chẳng ngồi măi
cũng chẳng lười biếng, ta chẳng biết đủ cũng
chẳng tham cầu. Bà-Tu-Bàn-Đầu nghe lời nầy vui
vẻ nói bài kệ tán thán:
- Khể
thủ tam muội tôn,
- Bất
cầu ư Phật đạo,
- Bất
lễ diệc bất mạn,
- Tâm
bất sanh điên đảo,
- Bất
tọa bất giải đải,
- Đăn
thực vô sở hảo,
- Tuy
hoăn nhi bất tŕ,
- Tuy
cấp nhi bất tháo,
- Ngă
kim ngộ chí tôn,
- Ḥa
nam y Phật giáo.
Dịch:
- Đảnh
lễ tam muội lớn,
- Chẳng cầu được Phật đạo,
- Chẳng lễ cũng chẳng khinh,
- Tâm
chẳng sanh điên đảo,
- Chẳng ngồi chẳng lười biếng,
- Chỉ
ăn không cần ngon,
- Tuy
hoăn mà không chậm,
- Tuy
gấp mà chẳng thô,
- Nay
con gặp chí tôn,
- Cúi
đầu vâng Phật dạy.
Ngài
bảo chúng:
-Người tu hạnh đầu đà nầy, bọn ngươi
không thể b́ kịp. V́ ông ấy kiếp trước tu hạnh
bất khinh nên mới được như vậy. Vừa rồi, ta chê
ông, bởi thấy ông đạo tâm tha thiết,s ợ e như
sợi đờn thẳng quá phải đứt nên ta không khen
ông, muốn ông tiến đến chỗ vô sở đắc và dừng trụ
nơi đất An-Lạc.
Ngài
lại gọi Bàn-Đầu hỏi:
-Ta
nói trái ư ông, tâm ông được chẳng động chăng ?
Bàn-Đầu thưa:
-Đâu
dám động tâm. Tôi nhớ bảy đời về trước sanh cơi
An-Lạc, v́ mộ đạo nên thờ trí giả Nguyệt-Tịnh
làm thầy. Thầy Nguyệt-Tịnh dạy tôi :"Không bao
lâu nữa ngươi sẽ chứng quả Tư-Đà-Hàm, nên siêng
năng tinh tiến. Phàm tu hành như trèo lên cao,
phải cố gắng tiến lần lên, không cho sụt xuống.
Nếu lỡ có sụt, muốn trèo lên lại càng khó". Lúc
đó, tôi đă tám mươi tuổi, nương gậy mới có thể
đi được. Khi ấy, gặp Bồ-Tát Đại-Quang-Minh ra
đời, tôi muốn đến lễ Ngài, bèn đi đến tịnh-xá,
lễ bái xong trở về. Chợt gặp thầy Nguyệt-Tịnh
quở trách tôi :"Dốt quá, tại sao ông lại khinh
cha trọng con ? Hôm trước, ta thấy ông sắp được
chứng quả, hôm nay đă mất". Khi ấy, tôi tự cho
là không có lỗi, nên không phục những lời quở
ấy. Tôi cầu xin thầy Nguyệt-Tịnh chỉ lỗi cho
tôi. Thầy Nguyệt-Tịnh dạy :"Vừa rồi, ngươi đến
đảnh lễ Bồ-Tát Đại-Quang, tại sao lại dựng cây
gậy vào mặt Phật vẽ trên vách, Ngươi do lỗi nầy
nên sụt quả vị !". Tôi nhớ kỹ lại, thật đúng như
lời thầy Nguyệt-Tịnh quở. Từ đó về sau, phàm có
nghe lời nào, chẳng dám không tin. Dù bị những
lời chửi mắng vẫn coi như gió thổi ngoài tai.
Huống là, nay Tôn-giả dùng chánh pháp chỉ dạy
th́ đâu dám phiền buồn. Cúi xin đấng đại từ
thương xót đem đạo mầu chỉ dạy cho con.
Ngài
liền dạy :
-Đại
pháp nhăn tạng của Như-Lai, nay ta trao cho
ngươi, ngươi nên truyền bá chớ để dứt mất. Nghe
ta nói kệ:
- Ngôn
hạ hiệp vô sanh,
- Đồng
ư pháp giới tánh,
- Nhược năng như thị giải,
- Thông đạt sự lư cánh .
Dịch:
- Nói
ra hợp vô sanh,
- Đồng
cùng tánh pháp giới,
- Nếu
hay hiểu như thế,
- Suốt
thông sự lư tột .
Bà-Tu-Bàn-Đầu lễ bái vâng lệnh. Ngài ngồi
ngay trên ṭa lặng lẽ qui tịch. Chúng hỏa táng
thu xá-lợi xây tháp thờ .
21. Tổ
Bà-Tu-Bàn-Đầu
(Vasubandhu) Cuối thế kỷ thứ tám sau
Phật Niết-bàn.
Ngài
họ Tỳ-Xá-Khư ở nước La-Duyệt, cha hiệu
Quang-Cái, mẹ là Nghiêm-Nhất. Nguyên gia đ́nh
ông Quang-Cái giàu có mà không con. Hai ông bà
đồng đi lễ tháp Phật ở phía Bắc thành La-Duyệt
để cầu con. Sau đó, bà mộng thấy nuốt hai hạt
châu một sáng một tối. Kế bà biết ḿnh có thai.
Một hôm, có vị A-La-Hán hiệu Hiền-Chúng đến nhà.
Ông Quang-Cái ra đảnh lễ. Đến lượt bà ra lễ,
Tôn-giả Hiền-Chúng liền tránh qua một bên ra vẻ
cung kính đáp lại. Ông Quang-Cái lấy làm lạ hỏi
:
-Tôi
là trượng phu đảnh lễ Tôn-giả chẳng nhượng, tại
sao vợ tôi là phụ nữ mà Tôn-giả lại kính nhượng
?
Tôn-giả Hiền-Chúng đáp:
-Bởi
ông là phàm phu nên tôi nhận ông lễ, c̣n vợ ông
đang mang thai Bồ-Tát là bậc pháp khí thượng
thừa nên tôi cố tránh, không phải tôi trọng nữ
khinh nam.
Ông
Quang-Cái tạ lỗi thưa :
-Tôn-giả là bậc thánh nhơn hay biết việc
chưa đến.
Sau
quả nhiên bà Nghiêm-Nhất sanh được hai người con
trai một lượt. Người con lớn đặt tên là
Bà-Tu-Bàn-Đầu tức là Ngài. Thuở bé, Ngài ư chí
siêu việt, đến 15 tuổi xin xuất gia với A-La-Hán
Quang-Độ. Khi thọ giới được Bồ-Tát Tỳ-Bà-Ha
truyền cho. Ngài mộ hạnh của Tổ Ma-Ha Ca-Diếp
nên tập tu theo hạnh đầu-đà. Lúc gặp Tổ Xà-Dạ-Đa
kích khởi phát sanh đại huệ và được truyền pháp.
Ngài
thống lănh đồ chúng du hóa khắp nơi, lần lượt
đến nước Na-Đề. Vua Na-Đề tên là Thường-Tự-Tại,
sanh được hai người con trai. Người con lớn là
Ma-Ha-La đă 40 tuổi, người con thứ là Ma-Noa-La
được 30 tuổi. Khi Ngài đến nước nầy, vua thỉnh
vào cung cúng dường. Vua hỏi Ngài :
-Phong tục nước tôi chắc không bằng phong
tục thuần mỹ ở thành La-Duyệt ?
Ngài
đáp:
-Ở
thành La-Duyệt xưa kia có phước đức được ba đức
Phật ra đời, ở nước nầy hiện có hai vị hiền sĩ
làm phước báo.
Vua
hỏi:
-Hai
vị hiền là ai ?
Ngài
đáp:
-Xưa
Phật thọ kư rằng: "Gần một ngh́n năm sau ta
Niết-bàn, có một thần lực đại sĩ ra nối truyền
chánh pháp tại nước Na-Đề tên là Ma-Noa-La", là
con thứ hai của bệ hạ. C̣n bần tăng tuy đức mỏng
cũng đảm đang một vị vậy. Vua nghe hoan hỷ gọi
thái-tử Ma-Noa-La đến, bạch với Ngài :
-Con
tôi đây đă được Phật thọ kư, cúi xin Tôn-giả
nhận cho nó xuất gia.
Ngài
bảo :
-Vị
hoàng tử nầy nếu không phải tôi làm thầy, sau
nầy không ai độ được. Ngài liền triệu tập thánh
chúng vào hoàng cung làm lễ xuất gia thọ giới
cho Ma-Noa-La. Ma-Noa-La rất hoan hỷ được thọ
lănh giới pháp. Sau đó, Ngài dẫn Ma-Noa-La sang
hóa đạo nước khác. Một hôm, Ngài gọi Ma-Noa-La
lại bảo :
-
Đại pháp nhăn tạng của Như-Lai nay giao phó cho
ngươi, ngươi phải ǵn giữ truyền bá. Nghe ta nói
kệ:
- Bào
huyễn đồng vô ngại,
- Vân
hà bất ngộ liễu,
- Đạt
pháp tại kỳ trung,
- Phi
kim diệc phi cổ.
Dịch:
- Bọt
huyễn đồng không ngại,
- Tại
sao chẳng liễu ngộ,
- Đạt
pháp ngay trong ấy,
- Chẳng xưa cũng chẳng
nay.
Truyền pháp xong, Ngài đang ngồi trên
ṭa, bỗng thân vượt lên hư không, ngồi yên trên
ấy. Bốn chúng quỳ bạch :
-Chúng con muốn thờ xá-lợi, xin Tôn-giả
cho chúng con được thiêu lấy xá-lợi.
Thân
Ngài liền hạ xuống ngồi yên chổ cũ. Chúng
thiêu lượm xá-lợi phụng thờ .
22. Tổ Ma-Noa-La
(Manorhita) Đầu thế kỷ thứ chín sau
Phật Niết-bàn.
Ngài
ḍng Sát-Đế-Lợi ở nước Na-Đề, cha là
Thường-Tự-Tại vua nước nầy. Ngài là con thứ ba
của vua, khi sanh ra có nhiều điềm lạ, nên vua
không dám lấy việc thế tục ràng buộc. Khi gặp Tổ
Bà-Tu-Bàn-Đầu, Ngài được 30 tuổi, vua cha cho
phép xuất gia theo Tổ. Sau Ngài được Tổ truyền
tâm pháp.
Ngài
sang Tây-Ấn giáo hóa. Vua nước nầy họ Cù-Đàm tên
Đắc-Độ hằng sùng Phật pháp tinh tấn tu hành. Bảy
năm hành đạo tại Long cung. Một hôm, bỗng hiện
một bảo tháp xanh huyền bề cao một thước tư,
ngay chổ vua tu hành. Vua đích thân lại bưng lên
để thờ, nhưng bưng không nổi, lính hộ vệ họp lực
nhắc lên cũng không lay chuyển. Sau cùng vua
phải mở đại hội triệu tập tất cả lực sĩ, tăng
sĩ, phạm-chí, chú-thuật… để hỏi nguyên nhơn bảo
tháp xuất hiện và dời lên thờ. Trong cuộc hội
nầy, Ngài cũng đến dự. Trước tiên những lực sĩ
ra sức nhắc tháp lên không lay động. Kế các nhà
chú-thuật dùng thần chú cũng bất lực. Sau cùng
Ngài Ma-Noa-La bước ra giải thích :
-Tháp nầy do vua A-Dục tạo ra để thờ
xá-lợi của Phật. Bốn mặt đều có chạm h́nh tiền
thân Phật Thích-Ca khi c̣n làm hạnh Bồ-Tát. Ngày
nay do đại-vương có duyên phước lớn nên tháp nầy
mới hiện.
Nói
xong, Ngài lại nhắc bảo tháp để trên bàn thờ.
Vua và toàn chúng hết ḷng kính phục.Vua thưa :
-Xin
Tôn-giả dạy cho chúng tôi những Phật pháp ǵ cần
học ?
Ngài
bảo:
-Muốn học Phật pháp phải bỏ ba vật và đủ
bảy việc.
Vua
thưa:
-Ba
vật ǵ phải bỏ và đủ bảy việc ǵ ?
Ngài
đáp:
-Tham, sân, si là ba vật phải bỏ. Đủ bảy
việc là:
1-
Đại từ,
2-
Hoan hỷ,
3-
Vô ngă,
4-Dơng mănh,
5-
Nhiêu ích,
6-
Hàng ma,
7-
Vô chứng.
Vua
Đắc-Độ nghe xong cảm ngộ, rất tiếc ḿnh được
hiểu quá muộn. Tự than :
-
Bậc chí thành khó gặp, sự vui trong đời có ǵ
lâu dài !
Vua
cho đ̣i thái tử đến giao hết việc nước, xin theo
Ngài xuất gia học đạo. Ngài triệu tập các vị
thánh chúng đến hoàng cung làm lễ xuất gia và
truyền giới cho vua. Xuất gia tu không bao lâu,
vua Đắc-Độ chứng được quả thánh. Ngài dạy Đắc-Độ
ở lại trong nước giáo hóa, c̣n Ngài sang nước
Nguyệt-Chi t́m người kế truyền.
Ngài
Ma-Noa-La và tăng chúng đến nước Nguyệt-Chi. Vua
nước nầy là Bảo-Ấn và Tỳ-kheo Hạc-Lặc-Na đồng
đón tiếp, thỉnh về nội cung. Hạc-Lặc-Na đem việc
Long-Tử hỏi trước:
-Thưa Tôn-giả ! Tôi có một đứa đệ tử tên
Long-Tử tuổi tuy c̣n nhỏ mà thông minh tuyệt
vời. Tôi thường nhập định t́m nguyên nhơn đời
trước mà không thấy manh mối, hôm nay gặp đây
xin Tôn-giả chỉ dạy cho ?
Ngài
hỏi:
-Ông
nhập định quán thấy được mấy kiếp ?
Hạc-Lặc-Na thưa:
-Tôi
chỉ thấy được ba đời.
Ngài
bảo:
-Đệ
tử của ông trong kiếp thứ năm đă sanh trong nhà
Bà-la-môn giàu có tại nước Diệu-Hỷ. Khi ấy,
trong nước có ngôi chùa mới khánh thành cái đại
hồng chung. Con ông Bà-la-môn nầy dùng gỗ chiên
đàn tiện cái chày dộng chuông cúng chùa. Nhờ
chày nầy giúp cho người được nghe chuông thức
tỉnh. Bởi quả báo ấy, nên nay nó sanh ra được
thông minh.
Hạc-Lặc-Na lại hỏi:
-Riêng tôi không biết duyên ǵ mà cảm
được bầy hạc thường theo, xin Tôn-giả chỉ dạy ?
Ngài
bảo:
-Xưa
ông trong kiếp thứ tư làm vị Tỳ-kheo đạo đức
được đầy đủ, có đến 500 đệ tử mỗi khi Long cung
thỉnh ông cúng dường, ông xét trong hàng đệ tử
không có người đủ phước đức thọ Long cung cúng
nên ông chỉ đi một ḿnh.
Nhóm
đệ tử bất măn nói:
-Thầy thường thuyết pháp nói: "Đối sự ăn
uống b́nh đẳng, đối với pháp cũng b́nh đẳng, mà
nay thầy đi thọ trai một ḿnh !".
Sau
Long cung thỉnh, ông đều cho chúng đi theo. Bởi
họ chưa đủ đức mà nặng về sự ăn uống, nên sau
khi tịch diệt, chúng ấy lần lượt chết sanh trong
loài có cánh. Đă trải qua năm kiếp, nay họ lại
làm thân hạc. Do nhơn duyên thầy tṛ kiếp trước
nên nay chúng cảm mến ông. Hạc-Lặc-Na cảm động,
lại hỏi:
-Nay
phải tu pháp ǵ để giúp chúng trở lại làm người
?
Ngài
bảo:
-Ta
có pháp bảo vô thượng, là kho tàng Như-Lai,
Thế-Tôn xưa trao cho Tổ Ma-Ha Ca-Diếp lần lượt
đến ta, nay ta trao cho ông, ông nên truyền bá
chớ nên để dứt mất.
Nghe
ta nói kệ:
- Tâm
tùy vạn cảnh chuyển,
- Chuyển xứ thật năng u,
- Tùy
lưu nhận đắc tánh,
- Vô
hỷ diệc vô ưu .
Dịch:
- Tâm
theo muôn cảnh chuyển,
- Chổ
chuyển thật kín sâu,
- Theo
ḍng nhận được tánh,
- Không mừng cũng không
lo.
Hạc-Lặc-Na vui vẻ kính vâng phụng hành.
Ngài truyền pháp xong, ngay chỗ ngồi lặng lẽ thị
tịch. Chúng hỏa táng và lượm xá-lợi xây tháp thờ
.
23. Tổ Hạc-Lặc-Na
(Haklena) Giữa thế kỷ thứ chín sau
Phật Niết-bàn
Ngài
ḍng Bà-la-môn sanh tại nước Nguyệt-Chi, cha
hiệu Thiên-Thắng, mẹ là Kim-Quang. Ông
Thiên-Thắng đă lớn tuổi mà không con. Một hôm,
ông đến trước Kim-Tràng thờ bảy đức Phật dâng
hương lễ bái cầu con. Một hôm, bà Kim-Quang nằm
mộng thấy một vị thần đứng trên ngọn núi Tu-Di
tay cầm ṿng ngọc nói với bà: "Ta lại đây". Khi
thức giấc, bà biết có thai. Khi Ngài được bảy
tuổi đi chơi trong xóm, thấy một ngôi miếu thờ
thần, dân gian hằng ngày giết các súc vật đến
dâng cúng. Ngài đi thẳng vào miếu quở:
-Khéo bày đặt sự họa phước mà lừa gạt dân
chúng, hằng năm làm hao phí của nhơn dân, tổn
hại sinh mạng loài vật quá nhiều !
Ngài
quở xong, ngôi miếu bị sụp đổ. Dân chúng trong
làng gọi Ngài là ông thánh con.
Hai
mươi tuổi, Ngài xuất gia tu theo Phật giáo. Ngài
ở ẩn trong đám rừng xanh ngót chín năm, chỉ làm
bạn với bầy hạc và chuyên tụng Kinh Đại-Bát-Nhă.
Năm ba mươi tuổi, Ngài gặp Tổ Ma-Noa-La và được
truyền tâm ấn. Ngài dẫn chúng du hóa miền
Trung-Ấn. Ông vua sứ nầy tên Vô-Úy-Hải rất sùng
mộ Phật giáo. Vua thỉnh Ngài vào cung thuyết
pháp cho vua nghe. Vua nghe Ngài thuyết pháp rất
hoan hỷ. Ngài có đệ tử ưu tú nhất là Long-Tử.
Long-Tử rất thông minh, mà mạng yểu. Long-Tử
mất, cha mẹ và anh là Sư-Tử đến làm lễ hỏa táng,
song dời quan tài không được. Sư-Tử lấy làm lạ
hỏi Ngài :
-Toàn chúng tận lực dỡ lên, tại sao không
nổi ?
Ngài
đáp:
-Lỗi
tại nơi ngươi vậy.
Sư-Tử hỏi:
-Tôi
có lỗi ǵ ? Xin Tôn-giả nói cho tôi biết.
Ngài
bảo:
-Ngươi xưa theo Bà-la-môn, em ngươi đi
xuất gia, hai bên xa cách. Em ngươi hai năm ngày
đêm nhớ thương, muốn làm phước giúp cho ngươi,
bảo thầy ngươi đấp một tượng Phật, đă lâu mà
chưa hoàn bị. Ngươi v́ ghét nên đem tượng Phật
ném xuống đất. Bây giờ, ngươi đi về thỉnh tượng
Phật để trên bàn lại, th́ quan tài sẽ dời được.
Sư-Tử làm y như Ngài dạy, quả nhiên quan tài dời
đi dễ dàng. Kế đến thầy của Sư-Tử tịch. Ông cảm
thấy buồn bă, nghiệm lại lời Ngài nói, bèn đến
xin xuất gia theo Phật làm đệ tử Ngài.
Sư-Tử hỏi Ngài:
-Bạch thầy ! Con muốn dụng tâm cầu đạo,
phải dụng tâm nào ?
Ngài
đáp:
-Không có chổ dụng tâm.
Đă
không dụng tâm làm sao làm Phật sự ?
-Ngươi nếu có dụng th́ chẳng
phải công đức. Nếu ngươi không làm tức là Phật
sự. Cho nên kinh nói: "Ta ra làm công đức, mà
không có cái ta làm".
Sư-Tử nghe nói liền phát sanh trí huệ
Phật.
Ngài
chỉ hướng Đông-Bắc hỏi Sư-Tử:
-Ngươi thấy ǵ chăng ?
Sư-Tử thưa:
-Con
thấy.
-Ngươi thấy cái ǵ ?
-Con thấy hơi trắng xông lên
giống như cái mống bao khắp trời đất, lại có hơi
đen năm lằn xẹt như cây thang lên trời
Đạo-Lợi.
-Ngươi thấy hơi ấy, có biết ứng điềm ǵ
chăng ?
-Con không biết ứng điềm ǵ,
xin thầy dạy cho.
-Cuối năm chục năm sau khi ta diệt độ,
tai nạn sẽ phát khởi ở Bắc-Ấn ngươi nên biết đó.
Sư-Tử thưa:
-Con
muốn du phương, thỉnh thầy chỉ dạy.
Ngài
bảo:
-Nay
ta đă già, giờ Niết-bàn sắp đến, đại pháp nhăn
tạng của Như-Lai giao lại cho ngươi, ngươi đến
nước khác. Song nước ấy có tai nạn mà liên hệ
đến thân ngươi. Ngươi phải dè dặt, truyền trao
sớm chớ để đoạn mất. Nghe ta nói kệ :
- Nhận
đắc tâm tánh thời,
- Khả
thuyết bất tư ngh́,
- Liễu
liễu vô khả đắc,
- Đắc
thời bất thuyết tri .
Dịch
:
- Khi
nhận được tâm tánh,
- Mới
nói chẳng nghĩ bàn,
- Rơ
ràng không chỗ được,
- Khi
được không nói biết .
Truyền pháp xong, Ngài phi thân lên hư
không làm mười tám pháp thần biến, rồi trở lại
chỗ ngồi lặng lẽ thị tịch
24. Tổ Sư-Tử
(Aryasimha) Cuối thế kỷ thứ chín sau
Phật Niết-bàn
Ngài
ḍng Bà-la-môn người Trung-Ấn. Thuở nhỏ Ngài rất
thông minh, tài hùng biện xuất chúng. Ngài có
người em tên Long-Tử cũng thông minh như thế.
Trước Ngài thọ giáo với thầy Bà-la-môn, em Ngài
lại xuất gia tu theo Phật giáo.
Khi
Long-Tử tịch, Ngài có cơ hội gặp Tổ Hạc-Lặc-Na
và hồi đầu thọ giáo với Tổ. Khi Tổ sắp tịch
truyền tâm pháp lại cho Ngài. Ngài sang nước
Kế-Tân hoằng hóa. Trong nước nầy trước có vị
Sa-môn tên Bà-Lợi-Ca, chuyên tập thiền quán
Tiểu-thừa. Môn đồ của Bà-Lợi-Ca, sau lại chia
làm năm phái:
1
-Thiền-định,
2
-Tri-kiến,
3
-Chấp-tướng,
4
-Xă-tướng,
5
-Tịnh-khẩu.
Họ
tranh nhau dành phần hơn. Ngài đến các phái ấy,
dùng biện tài vô ngại chiết phục được bốn phái.
Duy phái Thiền-định người cầm đầu là Đạt-Ma-Đạt,
hay tin nầy tức giận t́m đến cật vấn Ngài.
Vừa
gặp Ngài, Đạt-Ma-Đạt nói:
-Muốn gặp nhau vấn nạn mới đến đây.
Ngài
hỏi:
-Nhơn giả tập định sao lại đến đây ?
-Nếu
có đến đây th́ đâu phải thường tập định ?
Ma-Đạt nói:
-Tôi
đến chỗ nầy mà tâm cũng không loạn, định tùy
người tập đâu phải tại chỗ nơi.
Ngài
hỏi:
-Nhơn giả lại đây th́ cái tập kia cũng
đến. Đă không phải chỗ nơi th́ đâu tại người
tập?
Ma-Đạt nói:
-V́
định tập người, chẳng phải người tập định. Tuy
tôi có đi lại mà cái định ấy vẫn thường tập.
Ngài
hỏi:
-Người chẳng tập định, v́ định tập người.
Vậy chính khi người đi lại, th́ cái định ấy tập
ai ?
Ma-Đạt nói:
-Như
hạt minh châu sạch, trong ngoài không bị che,
nếu định được thông đạt cũng lại như thế.
Ngài
bảo:
-Nếu
định thông đạt giống như hạt minh châu. Nay thấy
nhơn giả không thể sánh được với hạt minh châu.
Ma-Đạt nói:
-Hạt
châu kia sáng suốt trong ngoài đều định. Tâm tôi
không loạn ví như hạt châu ấy.
Ngài
bảo:
-Châu kia không có trong ngoài, nhơn giả
làm sao hay định ? Vật nhơ chẳng giao động,
định nầy chẳng phải sạch.
Đạt-Ma-Đạt biết nghĩa ḿnh bị bẽ găy,
càng kính phục, đảnh lễ bạch Ngài:
-Con
học đạo c̣n sơ suyển, nếu không được lời chỉ dạy
của Tôn-giả làm sao biết được chỗ tột. Cúi xin
Tôn-giả thương xót nhận con làm học
tṛ.
Ngài
dạy thêm:
-Thiền-định của chư Phật không có sở đắc.
Giác đạo của chư Phật không có sở chứng. Không
đắc không chứng là chơn giải thoát. Đền nhơn trả
quả là nghiệp báo của thế gian, ở trong pháp nầy
(chơn giải thoát) ắt chẳng như thế. Ngươi nếu
tập định nên tập như vậy.
Đạt-Ma-Đạt vui vẻ vâng lời dạy. Một hôm,
có ông trưởng giả dẫn đứa con đến yết kiến Ngài.
Trưởng giả thưa:
-Thằng con tôi đây tên là Tư-Đa, từ
khi sanh ra cho đến giờ (20 tuổi) mà bàn tay
trái vẫn nắm chặc lại chưa từng mở ra. Xin
Tôn-giả từ bi nói rơ nhơn đời trước của nó cho
con hiểu.
Ngài
nh́n thẳng vào mặt Tư-Đa, rồi đưa tay bảo:
-Trả
hạt châu lại cho ta !
Tư-Đa liền sè tay dâng hạt châu cho Ngài,
Ông trưởng-giả và đồ chúng thấy thế đều ngạc
nhiên. Ngài giải thích:
-Thuở quá khứ Ta làm vị Tỳ-kheo thường
được Long-Vương thỉnh xuống Long-cung tụng kinh,
khi ấy, Tư-Đa nầy cũng theo ta xuất gia, tên
Bà-Xá. Một hôm, Long-Vương thỉnh ta đi tụng
kinh, Bà-Xá theo làm thị giả. Tụng kinh xong,
Long-Vương cúng hạt châu đáp lễ. Ta nhận trao
cho thị giả giữ trong tay. Ta tịch, sanh nơi
đây, v́ nhơn duyên thầy tṛ chưa hết, nên lại
gặp nhau tại hội nầy. Ông trưởng giả nghe được
tiền duyên của con ḿnh, hoan hỷ cho Tư-Đa theo
Ngài xuất gia.
Ngài
xét duyên xưa và nay nên hợp hai tên lại đặt là
Bà-Xá-Tư-Đa. Nhận Bà-Xá-Tư-Đa rồi, Ngài triệu
tập thánh chúng làm lễ truyền giới. Sau đó, Ngài
gọi Bà-Xá-Tư-Đa lại bảo:
-Nơi nước nầy sắp có tai nạn đến
cho ta, nhưng tuổi ta đă già yếu đâu mong lánh
thoát làm ǵ. Ta đă được truyền đại pháp nhăn
tạng của Như-Lai, nay ta trao lại cho ngươi,
ngươi nên phụng tŕ, ngươi mau đi khỏi nước nầy,
lấy sự giáo hóa làm nhiệm vụ. Nếu có người nghi
ngờ nên tŕnh cái y tăng-già-lê của ta đây làm
tin. Nghe ta nói kệ:
- Chánh thuyết tri kiến thời,
- Tri
kiến câu thị tâm,
- Đương tâm tức tri kiến,
- Tri
kiến tức vu kim.
Dịch:
- Chính khi nói tri kiến,
- Tri
kiến đều là tâm,
- Chính tâm tức tri kiến,
- Tri
kiến tức là hiện nay.
Bà-Xá-Tư-Đa nhận lănh tuân hành, ngay hôm
ấy đi nơi khác. Lúc ấy, trong nước Kế-Tân có hai
người ngoại đạo giỏi pháp huyễn thuật mưu đồ ám
sát nhà vua. Nhưng c̣n ngại bại lộ cơ mưu, nên
chúng đổi h́nh Tỳ-kheo đi làm việc gian ác ấy.
Quả nhiên bị quân quan bắt được.Vua Di-La-Quật
hay việc nầy nổi cơn phận nộ, ra lệnh triệt hạ
chùa chiền, bắt nhốt tăng chúng. Vua trách :
-Lâu
nay ta sùng kính Phật giáo quư trọng Tỳ-kheo mà
nay họ lại manh tâm sát hại ta, vậy c̣n đạo đức
chỗ nào ?
Bởi
sự tức giận ấy, nhà vua đích thân cầm gươm báu
đến chỗ Ngài Sư-Tử hỏi:
-Thầy được không tướng chưa ?
Ngài
đáp:
-Đă
được.
- Đă
được, th́ c̣n sợ sống chết chăng ?
-Đă
ĺa sống chết th́ đâu có sợ.
-Chẳng sợ có thể cho ta cái đầu chăng ?
-
Thân chẳng phải cái của ta, huống nữa là đầu.
Vua
liền chặt đầu Ngài rơi xuống đất. Nơi cổ phun
lên giọt sữa trắng cao chừng một trượng. Cánh
tay mặt của vua Di-La-Quật cũng đứt ĺa. Bảy
ngày sau vua băng hà. (Duyên nghiệp đời trước
của Ngài và nhà vua có ghi rơ ràng trong :
Thánh-Trụ-Tập và Bửu-Lâm-Truyện). Thái-tử
Quang-Thủ lên ngôi, lo mai táng phụ hoàng và
thỉnh chúng tăng cúng dường sám hối. Tăng chúng
lo xây tháp thờ Ngài .
25. Tổ Bà-Xá-Tư-Đa
(Basiasita) Đầu thế kỷ thứ mười sau
Phật Niết-bàn
Ngài
ḍng Bà-la-môn người nước Kế-Tân, cha hiệu
Tịch-Hạnh, mẹ là Thường-An-Lạc. Một hôm, bà
Thường-An-Lạc nằm mộng thấy lượm được cây kiếm
thần, sau đó có thai Ngài. Khi sanh ra, Ngài nắm
chặt bàn tay trái măi, cho đến gặp Tổ Sư-Tử mới
xoè ra. Ngài được cha mẹ cho phép xuất gia theo
hầu Tổ Sư-Tử. Tổ Sư-Tử v́ nợ trước phải trả nên
truyền tâm ấn xong, bảo Ngài phải sang Nam-Ấn.
Ra
khỏi nước Kế-Tân, Ngài đến Trung-Ấn. Vua nước
nầy hiệu Ca-Thắng ra đón tiếp Ngài. Trong nước
nầy trước có chúng ngoại đạo giỏi pháp thuật, ỷ
tài khinh chê Phật pháp, người cầm đầu tên
Vô-Ngă. Vua thấy thế bất b́nh, muốn thỉnh Ngài
chiết phục chúng. Vua mở hội nghị luận, chính
vua làm chủ tọa. Vô-Ngă đến hội đề xướng mặc
luận, không dùng lời nói. Ngài chống :
-Nếu
chẳng dùng lời làm sao phân biệt hơn thua ?
Ngoại đạo nói:
-Chẳng tranh hơn thua chỉ lấy nghĩa ấy.
Ngài
hỏi:
-Cái
ǵ là nghĩa ?
Ngoại đạo đáp:
-Không tâm là nghĩa.
Ngài
hỏi:
-Ngươi đă không tâm th́ đâu thành nghĩa
?
-Tôi nói không tâm chính là danh
chẳng phải nghĩa.
Ngài
nói:
-Ngươi nói không tâm chính là danh chẳng
phải nghĩa, ta nói phi tâm chính là nghĩa chẳng
phải danh.
-Chính là nghĩa chẳng phải
danh th́ ai hay biện được nghĩa ?
Ngài
bảo:
-Ngươi nói chính là danh không phải
nghĩa, th́ danh nầy là danh ǵ ?
-V́ biện cái phi nghĩa nên
không danh mà đặt danh.
Ngài
bảo:
-Danh đă phi danh th́ nghĩa cũng phi
nghĩa, người biện là ai và biện vật ǵ ?
Bàn
qua luận lại như thế đến hơn năm chục lần, ngoại
đạo mới bặt lời nép phục. Bỗng trong vương cung
có mùi hương lạ bay đến, Ngài chợt nói
:
-
Đây là tin đưa đến, thầy ta đă tịch.
Ngài
liền xoay mặt về hướng Bắc chấp tay đảnh lễ. Lễ
xong, Ngài nói với vua :
-Khi
tôi mới đi, thầy dạy qua Nam-Ấn, nay ở lại đây
đă lâu là trái ư thầy, xin tạm biệt Đại-Vương
sang nơi ấy. Vua và quần thần đồng tiễn Ngài
sang Nam-Ấn.
Vua
nước Nam-Ấn hiệu là Thiên-Đức nghe tin Ngài sang
cũng sửa sang xe giá ra đón tiếp, thỉnh Ngài về
hoàng cung. Nhơn vua có hai Thái-tử, vị lớn
là Đức-Thắng th́ thân thể mạnh khỏe mà tánh t́nh
hung bạo, c̣n em th́ hiền lành mà bệnh hoạn liên
miên, sẵn dịp vua hỏi Ngài. Vua hỏi :
-Con
tôi kính thờ Phật pháp, ưa làm việc lành, mà sao
lại mắc bệnh kinh niên, vậy lẽ báo ứng lành dữ
như thế nào ?
Ngài
đáp:
-Bệnh của Thái-tử là do công đức phát
sanh. Song lư sâu xa nầy Đại-Vương phải khéo
nghe. Phật dạy người có nghiệp nặng nơi thân, ví
như bệnh nội thương quá nặng, uống thuốc không
có công hiệu, sắp chết bệnh càng hoành hành. Nếu
là bệnh nhẹ, gặp thuốc liền bớt, bớt rồi từ từ
mạnh. Người nghiệp nặng cũng vậy, tuy có công
đức mà không làm ǵ được, đến lúc gần chết
nghiệp lại càng hiện. Nếu nghiệp nhẹ, làm các
việc công đức, nghiệp trước liền hiện, trả xong
sau sẽ thanh tịnh. Hiện nay Thái-tử làm việc
thiện mà bị bệnh lâu, hẳn là do làm các công đức
nên phát ra nghiệp nhẹ nầy. Hiện nay tuy có khổ
nhỏ, về sau sẽ an ổn. Kinh đă nói: "Nếu phải
chịu nghiệp báo trong ba đường ác, nguyện đời
nầy trả xong, để khỏi vào đường ác". Vua c̣n
nghi ǵ ư?
Vua
Thiên-Đức tín nhận, càng phát tâm làm phước. Sau
đó, Ngài từ giă nhà vua đi hoằng hóa nơi khác.
Mười sáu năm sau, vua Thiên-Đức băng hà, Thái-tử
Đức-Thắng lên nối ngôi. Vua Đức-Thắng tin theo
ngoại đạo, chú thuật, nghe lời xúi dục của
chúng, muốn làm khó Ngài. Thái-tử con vua
Đức-Thắng tên Bất-Như-Mật-Đa biết được ác ư đó,
liền đến can vua.
Thái-tử thưa:
-Tôn-giả Bà-Xá-Tư-Đa xưa kia được ông nội
kính trọng, nhiều người muốn hại c̣n không thể
được, đạo đức của Ngài rất cao, xin phụ hoàng
đừng làm khó Ngài. Vua Đức-Thắng nổi giận cho
Thái-tử theo phe Tôn-giả Bà-Xá-Tư-Đa liền bắt hạ
ngục. Sau vua cho thỉnh Ngài vào chánh điện. Vua
cật nạn:
-Nước tôi không có pháp tà, thầy tu học
về Tông phái nào ?
Ngài
đáp:
-Tôi
tu học theo tâm tông của Phật.
Vua
hỏi:
-Phật diệt độ đă một ngàn năm, thầy làm
sao được tâm tông của Phật ?
Ngài
đáp:
-Từ
Phật truyền cho Tổ Ma-Ha Ca-Diếp đă trải qua 24
đời đến thầy tôi là Tổ Sư-Tử, tôi được người
truyền lại.
Vua
hỏi:
-Tôn-giả Sư-Tử đă bị giết, đâu thể đem
pháp truyền cho thầy ? Nếu thầy thật được truyền
th́ lấy ǵ làm tin ?
Ngài
đáp:
-Thầy tôi truyền bát và trao y
Tăng-già-lê để làm tin, hiện nay vẫn c̣n.
Ngài
liền lấy y đưa cho vua xem. Vua vẫn không tin
bảo đem lửa đốt. Khi lửa cháy, y hiện năm sắc
hào quang. Lửa tắt, y vẫn c̣n nguyên như cũ. Vua
mới tin nhận, xin sám hối tạ tội. Đồng thời, vua
truyền lệnh tha Thái-tử. Sau khi được thả,
Thái-tử Bất-Như-Mật-Đa quyết chí xuất gia, xin
phép vua cha được như nguyện. Vua thấy không thể
ngăn được chí Thái-tử, nên đành phải cho.
Thái-tử đến yết kiến Ngài xin cho làm đệ tử xuất
gia. Ngài hỏi:
-Nhà vua bằng ḷng chăng ?
Thái-tử thưa:
-Phụ
vương bằng ḷng.
Ngài
hỏi:
-Ông
muốn xuất gia để làm việc ǵ ?
Thái-tử thưa:
-Con
muốn xuất gia để làm việc Phật.
Ngài
thấy Thái-tử tha thiết cầu đạo, liền nhận cho
xuất gia. Sau sáu năm, Ngài triệu thỉnh các vị
thánh chúng vào vương cung truyền giới cho
Bất-Như-Mật-Đa. Giờ truyền giới đó có nhiều điềm
lành ứng hiện, toàn hội đều hoan hỷ. Một hôm,
Ngài gọi Bất-Như-Mật-Đa đến dặn ḍ :
-Ta
đă già lắm, chẳng bao lâu sẽ rời cơi nầy, xưa
đại pháp nhăn tạng của Như-Lai, nay ta trao lại
cho ngươi. Hăy nghe ta nói kệ:
- Thánh nhơn thuyết tri kiến,
- Đương cảnh vô thị phi,
- Ngă
kim ngộ kỳ tánh,
- Vô
đạo diệc vô lư .
Dịch:
- Thánh nhơn nói tri kiến,
- Ngay
cảnh không phải quấy,
- Nay
ta ngộ tánh ấy,
- Không đạo cũng không lư .
Bất-Như-Mật-Đa thọ pháp xong, thưa:
-C̣n
y Tăng-già-lê thầy không truyền cho con, là sao
vậy ?
Ngài
bảo:
-Xưa
ta được truyền y v́ thầy ta bị nạn truyền pháp
không rơ ràng. Nay ngươi được truyền, mọi người
đều biết, cần y làm ǵ ? Chỉ cần hóa đạo là đủ.
Nói
xong, Ngài thị hiện thần biến rồi vào Niết-bàn.
Đồ chúng lượm xá-lợi xây tháp thờ.
26. Tổ
Bất-Như-Mật-Đa (Punyamitra)
Giữa
thế kỷ thứ mười sau Phật
Niết-bàn
Ngài
ḍng Sát-Đế-Lợi ở Nam-Ấn, con vua Đức-Thắng. Lúc
bé, Ngài đă sùng mộ Phật giáo, tánh t́nh thuần
lương, thông minh xuất chúng. V́ can thiệp với
vua cha về việc hại Tổ Bà-Xá-Tư-Đa, Ngài bị hạ
ngục. Sau khi được thả, Ngài lấy cớ bệnh, từ
ngôi Thái-tử, xin xuất gia với Tổ Bà-Xá-Tư-Đa.
Sau đó, Ngài được Tổ truyền tâm ấn, đi giáo hóa
khắp nơi.
Ngài
sang Đông-Ấn hoằng hóa. Vua nước nầy hiệu
Kiên-Cố đang tin trọng các thầy Phạm-Chi. Hay
tin Ngài vào nước nầy, chúng Phạm-Chi họp nhau
bàn mưu hăm hại. Thầy bọn Phạm-Chi xin theo vua
lên chỗ cao, ông chỉ xa hỏi vua :
-Bệ
hạ thấy ǵ không ? Phương-Tây có yêu khí, ắt ma
vào nước.
Vua
đáp:
-Không thấy, song có ǵ đáng ngại ?
Phạm-Chi thưa :
-Ma
nầy đến th́ quốc gia suy vong. Xin dâng kế với
bệ hạ, chi bằng ḿnh tiêu diệt trước đi.
Vua
đáp:
-Chưa thấy họ có tội ǵ ? Đâu thể nhẫn
tâm hại được.
Phạm-Chi lại tiến cử một đồ chúng giỏi
chú thuật để theo vua trị ma. Ngài dự biết trước
việc xảy đến nên dặn đồ chúng:
-Ta đến thành nầy ắt có nạn nhỏ,
các ngươi chớ sợ.
Đến
thành, Ngài xin vào yết kiến nhà vua. Vừa gặp,
vua liền hỏi:
-Thầy đến đây làm ǵ ?
Ngài
đáp:
-Tôi
đến đây v́ độ chúng sanh.
Vua
hỏi:
-Sẽ
lấy pháp ǵ ? Độ những loài chúng sanh nào ?
Ngài
đáp:
-Tùy
mỗi loài kia dùng pháp độ họ.
Vua
hỏi:
-Nếu
có người pháp thuật giỏi, thầy dám chống chăng ?
Ngài
đáp:
-Phật pháp rất chơn chánh, dù thiên ma
cũng hàng phục được, huống là yêu thuật mà chẳng
dám chống sao ?
Ngoại đạo nghe nói nổi nóng, liền dùng
pháp thuật hóa quả núi lớn, hiện trên không ngay
đầu Ngài, như chực sắp đè. Ngài lấy tay chỉ, quả
núi bay lại trên đầu bọn Phạm Chi, chúng hoảng
sợ cầu Ngài cứu mạng. Ngài lấy tay chỉ, quả núi
tan mất. Vua và chúng Phạm-Chi đều kính phục xin
Ngài từ bi tha lỗi.
Nhơn
đó, Ngài đem yếu lư Phật pháp giảng giải cho vua
nghe. Vua hiểu rơ, thêm ḷng quí kính, thỉnh
Ngài lưu lại trong hoàng cung. Ngài cũng cho nhà
vua biết rằng trong nước nhà vua có một vị thánh
nhơn sẽ nối tiếp Ngài truyền đạo.
Nguyên trong nước nầy có một đồng tử con
ḍng Bà-la-môn. Cha mẹ mất sớm, đồng tử ấy phải
ăn xin để sống qua ngày. Đồng tử nầy tánh t́nh
phóng khoáng lạ thường, không ai biết tên họ ǵ.
Có khi đồng tử tự xưng là Anh-Lạc, nên dân chúng
gọi là đồng-tử Anh-Lạc. Gặp lúc đồng tử đi
nhanh, có người hỏi:
-Sao
anh đi nhanh vậy ?
Đồng
tử đáp:
-Sao
các người đi chậm quá.
Có
người hỏi:
-Anh
họ ǵ ?
Đồng
tử đáp:
-Tôi
với các người đồng họ.
Một
hôm,vua Kiên-Cố cùng Ngài Bất-Như-Mật-Đa ngồi
chung xe đi sang thành Đông. Anh-Lạc ra đón,
đứng trước xe làm lễ. Ngài nói với nhà vua :
-Người nầy là thánh nhơn ở trong nước đại
vương vậy.
Ngài
lại hỏi Anh-Lạc:
-Ngươi nhớ việc xưa chăng ?
Anh-Lạc thưa:
-Tôi
nhớ xưa đồng trong pháp hội, Tôn-giả giảng
Bát-Nhă-Ba-La-Mật-Đa, tôi giảng Tu-Đa-La thậm
thâm. Duyên xưa lại gặp, nên mới đón nhau đây.
Ngài
nói với vua:
-Đồng tử nầy là hóa thân của Bồ-Tát
Đại-Thế-Chí ra đời để nối ḍng pháp cho tôi. Sau
tôi sẽ có hai vị đại-sĩ ra đời, vị trước giáo
hóa ở Nam-Ấn, vị sau có duyên với nước
Trung-Hoa, nhưng ở bên ấy chín năm rồi trở về
bổn quốc.
Ngài
bảo Anh-Lạc :
-Do
xưa ta giảng Bát-Nhă, ông thuyết Tu-Đa-La, nay
lại gặp đây, nên lấy Bát-Nhă-Đa-La đặt tên
ngươi.
Bát-Nhă-Đa-La lễ tạ, theo thầy xuất gia.
Ngài ở Đông-Ấn ngót sáu chục năm hoằng truyền
chánh pháp. Thấy cơ duyên sắp măn, Ngài gọi
Bát-Nhă-Đa-La đến dặn ḍ :
-Xưa
Như-Lai trao đại pháp nhăn tạng lần lượt truyền
đến ta, nay ta đem truyền lại cho ngươi, ngươi
nên lưu truyền chớ để dứt mất.
-Nghe ta nói kệ:
- Chơn
tánh tâm địa tàng,
- Vô
đầu diệc vô đuôi,
- Ứng
duyên nhi hóa vật,
- Phương tiện hô vi trí .
Dịch
:
- Kho
tâm địa chơn tánh,
- Không đầu cũng không đuôi,
- Hợp
duyên tùy hóa vật,
- Phương tiện gọi là trí .
Ngài
từ giă vua Kiên-Cố rằng:
-Đại-vương gánh vác việc nước, ủng hộ
Tam-Bảo đều được an ổn. V́ tôi hóa duyên đă hết,
không v́ quyến luyến ân đức đại vương mà ở lâu,
nay tôi sắp đi, đại vương khéo bảo hộ Phật pháp.
Ngài
nói xong, trở lại chổ ngồi, thị hiện các thứ
thần biến, rồi thị tịch. Vua và môn đồ xây tháp
thờ xá-lợi cúng dường.
27. Tổ
Bát-Nhă-Đa-La
(Prajnatara) Cuối thế kỷ thứ mười sau
Phật Niết-bàn
Ngài
ḍng Bà-la-môn ở Đông-Ấn. Cha mẹ mất sớm, Ngài
đi theo xóm ăn xin qua ngày. Nếu có ai mượn làm
việc ǵ, Ngài sẵn sàng làm tận lực mà không cần
tiền. Hành động và ngôn ngữ của Ngài lạ thường,
người đời không lường được. Khi gặp Tổ
Bất-Như-Mật-Đa nhắc lại duyên xưa, Ngài xin xuất
gia, theo hầu Tổ và được truyền tâm pháp.
Sau
nầy, Ngài thống lănh đồ chúng sang Nam-Ấn hoằng
hóa. Vua nước nầy hiệu Hương-Chí hết ḷng sùng
kính Phật pháp. Vua sanh ba người con trai đều
kính tin Phật pháp. Người con lớn tên
Nguyệt-Tịnh-Đa-La thích tu pháp niệm Phật tam
muội. Người thứ hai tên Công-Đức-Đa-La thích tu
bố thí làm phước. Người thứ ba tên Bồ-Đề-Đa-La
thích thông lư Phật, lấy việc xuất thế làm trên.
Vua thỉnh Ngài về cung cúng dường, bảo ba vị
Thái-tử ra đảnh lễ Ngài. Ngài biết ba vị Thái-tử
đều ham tu, muốn nghiệm thử trí mỗi người thế
nào. Sẵn nhà vua cúng dường hạt châu quư vô giá,
Ngài lấy ra hỏi :
-Ở
đời c̣n có vật ǵ quư báu bằng hạt châu nầy
chăng ?
Nguyệt-Tịnh-Đa-La thưa:
-Hạt
châu nầy quư tột, ở đời không có ǵ hơn nó,
chẳng phải trong nhà vua th́ làm ǵ có hạt châu
nầy.
Công-Đức-Đa-La cũng đồng ư như vậy.
Bồ-Đề-Đa-La thưa :
-Châu nầy là của báu thế gian chưa đủ làm
tột, trong các thứ báu chỉ có pháp bảo là tột.
Đây là ánh sáng của thế gian, trong các thứ ánh
sáng chỉ có ánh sáng trí tuệ là tột. Đây là
trong sạch của thế gian, trong các thứ trong
sạch, chỉ tâm trong sạch là trên hết. Nhưng ánh
sáng của hạt châu nầy không thể tự chiếu, cần
nhờ ánh sáng trí tuệ mới biện biệt được nó. Đă
biện rơ mới biết là châu, đă biết là châu mới
hiểu cái quư báu của nó. Nếu hiểu cái quư báu
của nó, th́ nó báu mà không biết báu. Nếu biện
rơ nó là châu, th́ nó châu mà chẳng tự biết
châu. Châu mà chẳng tự biết châu, cần nhờ trí
châu mới biện được thế châu. Báu mà chẳng tự
biết báu, cần nhờ trí bảo mới rơ pháp bảo. Song,
thầy tôi có đạo th́ báu kia liền hiện. Chúng
sanh có đạo th́ tâm báu cũng thế.
Ngài
khen ngợi tài biện luận của Bồ-Đề-Đa-La. Lại hỏi
thêm :
-Trong các vật, vật ǵ không tướng ?
-Trong các vật, chẳng khởi
là không tướng.
-Trong các vật, vật ǵ là
tối cao ?
-Trong các vật, nhơn ngă là
tối cao.
-Trong các vật, vật ǵ là tối đại ?
-Trong các vật, pháp tánh là
tối đại.
Ngài
thầm vui biết là đại pháp khí sẽ nối dơi cho
Ngài sau nầy. Một hôm, vua Hương-Chí hỏi Ngài :
-Tôi
thấy các thầy đều tụng kinh, tại sao Tôn-giả
không tụng kinh ?
Ngài
đáp:
-Tôi
hơi thở ra chẳng tiếp các duyên, hít vào chẳng ở
trong ấm giới, thường tụng thứ kinh nầy trăm
ngàn muôn ức quyển.
Vua
Hương-Chí băng hà, hai hoàng tử lớn và hoàng
thân đều kêu khóc, duy Bồ-Đề-Đa-La ngồi nhập
định chỗ hoàn linh cữu suốt bảy ngày. An táng
nhà vua xong, Bồ-Đề-Đa-La xin phép mẹ và hai anh
theo Ngài Bát-Nhă-Đa-La xuất gia. Ngài thấy cơ
duyên đă thuần thục nên nhận cho, rồi thỉnh
thánh tăng làm lễ xuất gia thọ giới cho
Bồ-Đề-Đa-La.
Hôm
nọ, Ngài gọi Bồ-Đề-Đa-La đến dặn ḍ:
-Đại
pháp nhăn tạng của Như-Lai lần lượt truyền trao,
nay ta trao cho ngươi, ngươi khéo truyền bá chớ
cho đoạn dứt. Nghe ta nói kệ:
- Tâm
địa sanh chư chủng,
- Nhơn
sự phục sanh lư,
- Quả
măn bồ-đề viên,
- Hoa
khai thế-giới khởi.
Dịch:
- Đất
tâm sanh các giống,
- Nhơn
sự lại sanh lư,
- Quả
đầy bồ-đề tṛn,
- Hoa
nở thế-giới sanh.
Truyền pháp xong, Ngài hiện các thứ thần
biến, rồi thị tịch.
28. Bồ-Đề-Đạt-Ma
(Bodhidharma) Đầu thế kỷ thứ mười một sau
Phật Niết-bàn .
Ngài
thuộc ḍng Sát-Đế-Lợi ở Nam-Ấn, cha là Hương-Chí
vua nước nầy. Vua Hương-Chí sanh được ba người
con trai, Ngài là Vương-tử thứ ba. Thuở nhỏ,
Ngài đă có chí siêu việt và đặc tài hùng biện.
Nhơn vua Hương-Chí thỉnh Tổ Bát-Nhă-Đa-La vào
cung cúng dường, Ngài mới có duyên gặp Tổ. Qua
cuộc nghiệm vấn về hạt châu, Tổ đă biết Ngài là
người siêu quần bạt tục sẽ kế thừa Tổ vị. Sau
khi vua cha băng hà, Ngài quyết chí xuất gia cầu
xin Tổ Bát-Nhă độ làm đệ tử, Tổ hoan hỷ làm lễ
thế phát và truyền giới cụ túc. Tổ bảo Ngài :
-Hoàng-tử đối các pháp đă được thông
suốt, nay nên đổi hiệu là
Bồ-Đề-Đạt-Ma.
Từ đây, Ngài luôn hầu hạ bên thầy.
Một hôm, Tổ gọi Ngài đến truyền pháp và dặn ḍ:
-Ngươi tạm giáo hóa ở nước nầy, sau
sang Trung-Hoa mới thật là nhơn duyên lớn. Song,
đợi ta diệt độ khoảng sáu mươi năm sau sẽ đi.
Nếu ngươi đi sớm, sau e có việc không tốt.
Những điều kiết hung về sự giáo hóa ở
Trung-Hoa sau nầy, Ngài đều cầu xin Tổ chỉ dạy.
Tổ dùng những lời sấm kư tiên đoán sự kiết hung
vận số Phật pháp ở Trung-Hoa, nói có hơn mười
bài kệ.
Tổ
tịch rồi, Ngài vẫn ở tại nước nhà giáo hóa.
Người huynh đệ đồng sư với Ngài là Phật-Đại-Tiên
cùng chung sức giáo hóa. Thời nhơn gọi hai Ngài
là "Mở hai cửa cam lồ". Song, sau môn đồ của
Phật-Đại-Tiên lại chia làm sáu tông:
1 -
Hữu tướng,
2 -
Vô tướng,
3 -
Định huệ,
4 -
Giới hạnh,
5 -
Vô đắc,
6 -
Tịch tịnh,
Đua
nhau truyền bá. Ngài thấy sự chia ly ấy, ngại
cho chánh pháp suy vi. V́ thế, Ngài dùng phương
tiện cảm hóa họ hồi đầu quay về chánh pháp.
Vua
Nguyệt-Tịnh băng hà, con vua là Thái-tử Dị-Kiến
nối ngôi. Dị-Kiến lên ngôi không bao lâu lại tin
theo tà thuyết bài bác Phật giáo. Ngài sai đệ tử
là Ba-La-Đề đến cung vua để nhiếp hóa. Sau khi
cải tà quy chánh, vua Dị-Kiến hỏi ra mới biết
Ba-La-Đề là đệ tử của chú ḿnh. Nhà vua cho
người thỉnh Ngài về cung giáo hóa. Về cung giáo
hóa một thời gian, Ngài thấy cơ duyên sang
Trung-Hoa đă đến, bèn đem lời huyền kư của Tổ
Bát-Nhă-Đa-La thuật lại cho vua biết. Vua không
c̣n lời ǵ dám ngăn cản, đành sắm một chiếc
thuyền buôn, cho thủy thủ đưa Ngài sang
Trung-Hoa. Vua và quần thần tiễn đưa Ngài ra tới
cửa biển.
Ngài
ở trên thuyền gần ngót ba năm, thuyền mới cặp
bến Quảng-Châu, nhằm đời nhà Lương niên hiệu
Phổ-Thông năm đầu (520 sau T.C.),ngày 21 tháng 9
năm Canh-Tư. Thích-sử tỉnh nầy ra đón tiếp Ngài,
đồng thời dâng sớ về triều tâu vua Lương-Vơ-Đế.
Vua được sớ, liền sai sứ lănh chiếu chỉ đến
thỉnh Ngài về Kim-Lăng (Kinh đô nhà Lương). Vua
Vơ-Đế hỏi:
-Trẩm từ lên ngôi đến nay thường cất
chùa, chép kinh, độ Tăng ni, không biết bao
nhiêu, vậy có công đức ǵ chăng ?
Ngài
đáp:
-Đều
không có công đức.
-Tại
sao không có công đức ?
-Bởi
v́ những việc ấy là nhơn hữu lậu, chỉ có quả báo
nhỏ ở cơi người cơi trời, như bóng theo h́nh,
tuy có mà chẳng phải thật.
-Thế
nào là công đức chơn thật ?
-Trí thanh tịnh tṛn mầu,
thể tự không lặng, công đức như thế chẳng do thế
gian mà cầu.
-Thế
nào là thánh đế nghĩa thứ nhất ?
-Rỗng rang không thánh.
-Đối
diện với trẩm là ai ?
-Không biết.
Vua
Lương-Vơ-Đế không lănh ngộ được, lui về nghỉ.
Ngài biết căn cơ chẳng hợp, tạm lưu lại đây ít
hôm.
Đến
ngày 19, Ngài bỏ vua Lương, lén sang sông qua
Giang-Bắc. Ngài nhập cảnh nước Ngụy đi đến
Lạc-Dương nhằm đời Hậu-Ngụy, vua Hiếu-Minh-Đế
niên hiệu Chánh-Quang năm đầu (520 sau T.C.)
ngày 23 tháng 11.
Ngài
dừng trụ tại chùa Thiếu-Lâm ở Tung-Sơn, trọn
ngày ngồi xoay mặt vào vách im lặng. Tăng chúng
đều không hiểu được. Người đời gọi Ngài là "Thầy
Bà-la-môn ngồi nh́n vách" (Bích quán Bà-la-môn).
Có vị Tăng tên Thần-Quang học thông các sách,
giỏi lư diệu huyền, nghe danh Ngài t́m đến yết
kiến. Thần-Quang đă đủ lễ nghi mà Ngài vẫn ngồi
lặng yên ngó mặt vào vách không màng đến. Quang
nghĩ :"Người xưa cầu đạo chẳng tiếc thân mạng,
nay ta chưa được một trong muôn phần của các
Ngài". Hôm ấy, nhằm tiết mùa đông (mùng 9 tháng
chạp), ban đêm tuyết rơi lả tả, Thần-Quang vẫn
đứng yên ngoài tuyết chấp tay hướng về Ngài. Đến
sáng tuyết ngập lên khỏi đầu gối, mà gương mặt
Thần-Quang vẫn thản nhiên. Ngài thấy thế thương
t́nh, xoay ra hỏi:
-Ngươi đứng suốt đêm trong tuyết, ư muốn
cầu việc ǵ ?
Thần-Quang thưa:
-Cúi
mong Ḥa-thượng từ bi mở cửa cam lồ, rộng độ
chúng con.
-Diệu đạo vô thượng của chư Phật, dù
nhiều kiếp tinh tấn, hay làm được việc khó làm,
hay nhẫn được việc khó nhẫn, c̣n không thể đến
thay ! Huống là, dùng chút công lao nhỏ nầy mà
cầu được pháp chân thừa sao?
Thần-Quang nghe dạy bèn lén lấy dao chặt
cánh tay trái để trước Ngài để tỏ ḷng thiết tha
cầu đạo. Ngài biết đây là pháp khí bèn dạy:
-Chư
Phật lúc ban đầu cầu đạo, v́ pháp quên thân, nay
ngươi chặt cánh tay để trước ta, tâm cầu đạo như
vậy cũng khá.
-Pháp ấn của chư Phật con có
thể được nghe chăng ?
-Pháp ấn của chư Phật không
phải từ người khác mà được.
-Tâm con chưa an, xin thầy
dạy pháp an tâm.
-Ngươi đem tâm ra đây, ta an
cho.
-Con t́m tâm không thể được.
-Ta đă an tâm cho ngươi rồi.
Thần-Quang nhơn đây được khế ngộ. Ngài
liền đổi tên Thần-Quang là Huệ-Khả.
Từ
đây kẻ Tăng người tục đua nhau đến yết kiến
Ngài, tiếng tăm vang dậy. Vua Hiếu-Minh-Đế nước
Ngụy sai sứ ba phen thỉnh Ngài, Ngài đều từ
chối. Nhà vua càng kính trọng, sai sứ đem lễ vật
đến cúng dường : một cây tích trượng, hai y kim
tuyến, b́nh bát, v...v… Ngài từ khước nhiều lần,
nhưng nhà vua cố quyết cúng dường, rốt cuộc Ngài
đành phải nhận.
Mở
cửa phương tiện, Ngài có dùng bốn hạnh để giáo
hóa môn đồ :
1-
Báo oán hạnh.
2-
Tùy duyên hạnh.
3-
Vô sở cầu hạnh.
4-
Xứng pháp hạnh.
Ở
Trung-Hoa gần chín năm, Ngài thấy cơ duyên đă
đến, liền gọi đồ chúng hỏi:
-Giờ
ta trở về sắp đến. Các ngươi mỗi người nên nói
chỗ sở đắc của ḿnh.
Đạo-Phó ra thưa:
-Theo chỗ thấy của con, chẳng chấp văn
tự, chẳng ĺa văn tự, đây là dụng của
đạo.
Ngài
bảo:
-Ngươi được phần da của ta.
Bà
ni Tổng-Tŕ ra thưa:
-Nay
chỗ hiểu của con, như Tổ A-Nan thấy nước Phật
A-Súc, chỉ thấy một lần, không c̣n thấy lại.
Ngài
bảo:
-Ngươi được phần thịt của ta.
Đạo-Dục ra thưa:
-Bốn
đại vốn không, năm ấm chẳng có, chỗ thấy của con
không một pháp có thể được.
Ngài
bảo:
-Ngươi được phần xương của ta.
Đến
Huệ-Khả bước ra đảnh lễ Ngài, rồi lui lại đứng
yên lặng. Ngài bảo :
-Ngươi được phần tủy của ta.
Ngài
gọi Huệ-Khả đến dặn ḍ :
-Xưa
Như-Lai đem đại pháp nhăn tạng trao cho Tổ Ma-Ha
Ca-Diếp, lần lượt truyền đến ta. Nay ta đem trao
lại cho ngươi, ngươi phải truyền trao không để
dứt mất. Cùng trao cho ngươi y Tăng-già-lê và
bát báu, để làm pháp tín. Mỗi thứ tiêu biểu cho
mỗi việc, ngươi nên biết.
Huệ-Khả thưa:
-Xin
thầy từ bi chỉ dạy mọi việc.
Ngài
dạy:
-Trong truyền tâm-ấn để khế hợp chổ tâm
chứng, ngoài trao cà-sa để định tông chỉ. Đời
sau có nhiều người cạnh tranh nghi ngờ, họ nói
"Ta là người Ấn, ngươi là người Hoa, căn cứ vào
đâu mà được pháp, lấy cái ǵ để minh chứng ?".
Ngươi ǵn giữ pháp y nầy, nếu gặp tai nạn, ngươi
đem ra làm biểu tín, th́ sự giáo hóa không bị
trở ngại. Hai trăm năm sau khi ta diệt độ, y bát
này dừng lại không truyền, v́ lúc đó, Phật pháp
rất thạnh hành; Chính khi ấy, người biết đạo
thật nhiều, người hành đạo quá ít, người nói lư
th́ nhiều, người ngộ lư th́ ít. Tuy nhiên, người
thầm thông lặng chứng có hơn ngàn vạn. Ngươi
gắng xiển dương, chớ khinh người chưa ngộ. Nghe
ta nói kệ:
- Ngô
bổn lai tư độ,
- Truyền pháp cứu mê t́nh,
- Nhất
hoa khai ngũ diệp,
- Kết
quả tự nhiên thành.
Dịch
:
- Ta
sang đến cơi nầy,
- Truyền pháp cứu mê t́nh,
- Một
hoa nở năm cánh,
- Nụ
trái tự nhiên thành.
Ngài
lại bảo :
-Ta
có bộ Kinh Lăng-Già bốn quyển, là Phật nói tột
pháp yếu, cũng giúp cho chúng sanh Khai, Thị,
Ngộ, Nhập Tri Kiến Phật, nay ta trao luôn cho
Ngươi. Ta từ Nam-Ấn sang đây đă năm phen bị
thuốc độc mà không chết, v́ thấy xứ nầy tuy có
khí đại-thừa mà chưa ứng hợp, nên ta lặng lẽ
ngồi lâu chờ đợi. Nay đă truyền xong, đă có thủy
ắt phải có chung vậy.
Xong
rồi, Ngài cùng đồ chúng đi đến Vơ-môn ở chùa
Thiên-Thánh dừng lại ba hôm. Quan thái thú thành
nầy tên Dương-Huyễn-Chi là người sùng mộ Phật
pháp. Nghe tin Ngài đến, liền tới đảnh lễ. Ông
hỏi :
-Thầy ở Ấn-Độ được kế thừa làm Tổ, vậy
thế nào là Tổ, xin thầy dạy cho ?
Ngài
đáp:
-Rơ
được tâm tông của Phật, không lầm một mảy, hạnh
và giải hợp nhau, gọi đó là Tổ.
-Chỉ
một nghĩa nầy hay c̣n nghĩa nào khác ?
-Cần
rơ tâm người, biết rành xưa nay, chẳng chán có
không, cũng chẳng cố chấp, chẳng hiền chẳng ngu,
không mê không ngộ. Nếu hay hiểu như thế, cũng
gọi là Tổ.
Huyễn-Chi lại thưa :
-Đệ
tử v́ bị nghiệp thế tục, ít gặp được tri thức,
trí nhỏ bị che lấp không thể thấy đạo. Cúi xin
thầy chỉ dạy, con phải noi theo đạo quả nào ?
Dùng tâm ǵ được gần với Phật, Tổ ?
Ngài
v́ ông nói kệ:
- Diệc
bất đổ ác nhi sanh hiềm,
- Diệc
bất quán thiện nhi cần thố,
- Diệc
bất xả trí nhi cận ngu,
- Diệc
bất phao mê nhi tựu ngộ,
- Đạt
đại đạo hề quá lượng,
- Thông Phật tâm hề xuất độ,
- Bất
dữ phàm thánh đồng triền,
- Siêu
nhiên danh chi viết Tổ.
Dịch:
- Cũng
đừng thấy dữ mà sanh chê,
- Cũng
đừng thấy lành mà ái mộ,
- Cũng
đừng bỏ trí mà gần ngu,
- Cũng
đừng ném mê mà về ngộ,
- Đạt
đạo lớn chừ quá lượng,
- Thông Phật tâm chừ vô kể,
- Chẳng cùng phàm thánh đồng vai,
- Vượt
lên, gọi đó là Tổ.
Huyễn-Chi nghe dạy hoan hỷ đảnh lễ, lại
thưa :
-Xin
thầy chớ vội tạ thế, để làm phước lợi cho quần
sanh.
Ngài
bảo :
-Đời
mạt pháp, kẻ tệ ác quá nhiều, dù ta c̣n ở lâu e
chẳng lợi ích, mà thêm tai nạn, làm tăng trưởng
tội ác cho người.
-Từ
thầy đến đây ai thường hại thầy, xin thầy chỉ
họ, con sẽ sắp xếp.
-Nói ra ắt có tổn hại, ta
nên đi vậy. Đâu cam hại người để ḿnh được vui.
Huyễn-Chi nài nỉ thưa:
-Con
không hại người, chỉ muốn biết đó thôi.
Ngài
bất đắc dĩ nói bài kệ:
- Giang tra phân ngọc lăng,
- Quản
cự khai kim tỏa,
- Ngũ
khẩu tương cộng hành,
- Cửu
thập vô bỉ ngă.
Dịch:
- Thuyền con rẽ sóng ngọc,
- Đuốc
soi mở khóa vàng,
- Năm
miệng đồng cùng đi,
- Chín, mười không ta người.
Huyễn-Chi nghe rồi ghi nhớ, đảnh lễ Ngài
lui ra. Ở đây đúng ba hôm, Ngài ngồi an nhiên
thị tịch. Hôm ấy là ngày mùng 9 tháng 10 năm
Bính-Th́n, nhằm niên hiệu Đại-Thông năm thứ hai
nhà Lương (529 T.C). Đến ngày 18 tháng chạp năm
nầy, làm lễ đưa nhục thân của Ngài nhập tháp tại
chùa Định-Lâm, núi Hùng-Nhĩ.
Sau,
vua Hậu Ngụy sai Tống-Vân đi sứ Ấn-Độ về, gặp
Ngài tại núi Thông-Lănh, thấy Ngài trên vai quảy
một chiếc dép, một ḿnh đi nhanh như bay.
Tống-Vân hỏi:
-Thầy đi đâu ?
Ngài
đáp:
-Về
Ấn-Độ.
Tống-Vân ngẩn ngơ, từ giă Ngài về triều.
Đến triều th́ vua Minh-Đế đă băng hà.
Hiếu-Trang-Đế lên ngôi. Ông đem việc ấy tâu lại,
vua ra lệnh mở cửa tháp, mở quan tài ra, quả
nhiên là quan tài không, chỉ c̣n một chiếc dép.
Vua sắc đưa chiếc dép về thờ ở chùa Thiếu-Lâm,
Đến đời Đường niên hiệu Khai-Nguyên năm thứ 15
(728 sau T.C) môn đồ lại dời chiếc dép về thờ ở
Chùa Hoa-Nghiêm. Vua phong Ngài hiệu Viên-Giác
Thiền-Sư, tháp hiệu Không-Quán.
Tập
Thiếu Thất Lục Môn nói là tác phẩm của
Ngài. |