|
PHẢI TU HÀNH NHƯ THẾ NÀO
?
Pháp Sư :
HT. Tịnh Không
Giảng
Tại Tịnh Tông Học Hội Úc
Châu năm 1997
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
tu:
Phật
thất kỳ này c̣n chưa chính thức khai mạc nhưng
quư vị đến sớm đều vào Niệm Phật Đường niệm
Phật, như vậy rất đúng như pháp. Mọi người niệm
vài ngày, tâm được định th́ mới gặt hái được lợi
ích chân thật trong Phật thất, việc này rất đáng
đề xướng, hiệu quả vô cùng thù thắng. Có rất
nhiều người trong quư vị đồng tu từ xa đến, cũng
có người phụ trách lănh đạo Tịnh Tông, phát tâm
tu học như vậy thiệt là quá thù thắng, không
những đáng được chúng ta tán thán, thực sự là
được chư Phật hộ
niệm, long thiên thiện thần ủng hộ. Hiện nay
khắp nơi thành lập Tịnh Tông Học Hội ngày càng
nhiều, đây là một hiện tượng rất tốt. Chúng ta
đă có tổ chức th́ phải làm thế nào để phát huy
công năng của tổ chức cho có hiệu quả, giúp đỡ
đại chúng huân tu, đây là sứ mạng cấp bách của
chúng ta.
Lúc Tịnh Tông Học Hội vừa được thành lập tôi đă
viết một bài nguyên khởi, dùng danh nghĩa của
Hàn Quán Trưởng để phát biểu, trong bài nguyên
khởi này chúng tôi đề ra ‘Ngũ Kinh Nhất Luận’ là
kinh điển Tịnh Tông y theo để tu học. Đây là
kinh điển cơ bản của Tịnh Tông, không những phải
đọc tụng, trong nhiều kinh điển đức Thế Tôn đă
nhiều lần khuyên chúng ta 'thọ tŕ, đọc tụng,
diễn thuyết cho người khác'. Chúng tôi đă lập
lại câu này mấy trăm lần, mấy ngàn lần, cho dù
chúng ta không nhớ những câu nói khác của Thế
Tôn, nhưng câu này chắc đă rất quen thuộc rồi,
từ đây có thể biết tầm quan trọng của nó. Nếu có
thể thực hiện được lời dạy trong đó, nói thực ra
chúng ta cũng thừa sức thành Phật!
a.
Thâm giải Kinh giáo – Tin sâu, nguyện thiết,
phụng hành.
Nhưng muốn làm được câu này nhất định phải chân
chánh thông suốt kinh giáo. Số lượng hết thảy
những kinh điển Thế Tôn giảng trong suốt bốn
mươi chín năm quá nhiều, chúng ta là người b́nh
thường không thể nào học hết được. Các đại đức
thời xưa biết rơ điều này nên mới phân tông, lập
giáo tùy theo căn tánh của chúng sanh. Đời Tùy,
Đường các tông phái ở Trung Quốc đă h́nh thành,
quư vị cũng biết Phật giáo Trung Quốc có mười
tông phái, tám tông thuộc Đại thừa, hai tông
Tiểu thừa, trong mỗi tông lại chia thành nhiều
chi nhánh, mỗi chi nhánh lại chia thành phái
nhỏ, thế nên môn phái khác nhau rất
nhiều.
Chư
vị tổ sư đại đức vô cùng từ bi và dùng trí huệ
cao độ để chọn ra một số kinh giáo mà chúng ta
có thể thọ tŕ, [các ngài] giảng giải kỹ càng,
làm cho chúng ta thâm nhập kinh tạng. Trong hết
thảy pháp môn th́ kinh điển của Tịnh Tông ít
nhất, chỉ có năm kinh một luận. Phân lượng của
năm bộ kinh này cũng rất ngắn, kinh Vô Lượng Thọ
là kinh dài nhất, kết hợp năm kinh một luận lại
thành một quyển sách chữ nhỏ th́ cũng rất mỏng.
Quư vị thấy cuốn Tịnh Độ Ngũ Kinh mà chúng ta đă
in, cuốn in b́a cứng, dày, có chữ lớn nên lúc
đọc không mỏi mắt. Nếu dùng chữ nhỏ để in th́
rất mỏng. Phân lượng tuy không nhiều nhưng đạo
lư, lư luận, phương pháp, và cảnh giới trong đó
đều hết sức viên măn, so với những kinh lớn, bất
luận so với kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Bát Nhă
tuyệt đối đều chẳng thua
kém.
Nếu
chư vị có thể nhận thức rơ điều này, thể hội
được, th́ mới biết Tịnh Tông thiệt là chẳng thể
nghĩ bàn, thực hiện được 'lời vắn tắt mà đủ trọn ư nghĩa’ (ngôn
giản ư cai) -- rất ít văn tự nhưng hoàn toàn bao
gồm hết thảy lư luận, cảnh giới bên trong. Cho
nên tuy kinh điển ít nhưng muốn giảng kỹ thiệt
là chẳng dễ! Hồi trước tôi theo học lăo cư sĩ Lư
Bỉnh Nam, thầy Lư đă từng nói với tôi nhiều lần,
cả đời thầy sợ giảng kinh A Di Đà nhất, đừng
thấy kinh A Di Đà rất ngắn [thiệt ra] kinh A Di
Đà khó giảng nhất! Sau này chúng tôi học kinh
rồi mới hiểu rơ điểm này. Văn tự trong kinh A Di
Đà rất cạn, nếu không nghiên cứu sâu vào [thoạt
nh́n th́ sẽ nghĩ kinh này] giống như tiểu thuyết
ngắn, giới thiệu y báo và chánh báo trang nghiêm
ở thế giới Cực Lạc. Kể chuyện chẳng khó hiểu,
nếu chư vị coi Sớ Sao của Liên Tŕ đại sư th́
ngược lại sẽ chẳng hiểu. Yếu Giải của Ngẫu Ích
đại sư c̣n tinh tường hơn, thế mới biết nội dung
bộ kinh này hết sức phong phú, vô cùng thù
thắng.
Trong quá khứ tôi cũng đă giảng Năm Kinh Một
Luận nhiều lần, cũng có lưu lại băng thâu âm.
Giảng kư kinh Vô Lượng Thọ đă chỉnh lư xong,
hiện nay được in thành bốn cuốn sách b́a cứng,
đại khái có chừng một triệu ba trăm ngàn chữ;
như vậy đă nói hết ư tứ chưa? Nói cho quư vị
biết: không thể nào! Thiệt giống như nước trong
biển cả, chúng ta chỉ nếm một chút mà thôi. Ư tứ
quá phong phú, giảng không hết, bất kỳ chữ nào,
câu nào cũng hàm chứa vô lượng nghĩa. Thế nên
chẳng thể không thâm nhập kinh điển, tự ḿnh
thâm nhập rồi th́ ḷng tin của ḿnh mới vững
chắc, nguyện của ḿnh mới khẩn thiết, công phu
niệm Phật đương nhiên sẽ đắc lực, sự văng sanh
mới nắm chắc trong
tay.
Nếu
thói hư tật xấu, tập khí của ḿnh vẫn hiện lên y
như cũ, không thể khắc phục, vậy th́ chúng ta
phải hỏi tại sao thói hư tật xấu phát sanh? Nói
chung là v́ công phu của bạn chưa đủ. Tại sao
công phu chưa đủ? Bạn hoàn toàn chưa hiểu rơ lư
luận, phương pháp. Nói một cách khác bạn chẳng
có ḷng tin. Tuy bạn tin Tịnh Độ, ḷng tin này
vẫn c̣n nửa tin nửa ngờ, bạn chẳng có tâm nguyện
khẩn thiết. Nếu bạn có ḷng tin thật sự, tâm
nguyện thiết tha th́ các thói hư tật xấu, tập
khí ǵ cũng chẳng c̣n nữa, đều xả bỏ hết. Nếu
c̣n những thói hư tật xấu, tập khí th́ tức là
chẳng đủ tín, nguyện, chẳng thông hiểu kinh
giáo!
Từ
điểm này có thể biết ngày nay hoằng dương Tịnh
Tông trên thế giới không thể làm giống như Ấn
Quang đại sư. Lúc Ấn Quang đại sư c̣n tại thế
vào những năm đầu Dân Quốc, trong Niệm Phật
Đường chỉ chuyên niệm Phật mà chẳng giảng kinh,
tức là ‘một câu A Di Đà Phật niệm đến cùng’,
cũng giống như đả Phật thất hằng ngày, một năm
ba trăm sáu mươi lăm ngày chẳng sót ngày nào.
Bạn hăy xem thời khóa tụng niệm của chùa Linh
Nham th́ sẽ biết, mỗi ngày [niệm Phật] sáu cây
hương (lấy thời gian đốt một cây nhang làm đơn
vị), mỗi năm có hai lần ‘Phật thất tinh tấn’.
Phật thất tinh tấn kéo dài bốn mươi chín ngày,
mỗi ngày tăng lên tới chín cây hương. Vào thời
của ngài có thể làm như vậy, ngày nay chúng ta
không thể. Nguyên nhân ở tại chỗ nào? Hồi trước
tâm người ta thật thà, đôn hậu, cho dù chẳng
hiểu rơ, chẳng thông suốt kinh giáo, họ chẳng có
tí ǵ hoài nghi đối với những lời giảng dạy của
lăo sư phụ, lăo ḥa thượng – lăo ḥa thượng dạy
họ làm như thế nào th́ họ làm như vậy – như thế
mới được!
Thời đại bây giờ không thể được. Nếu tuổi tác
của quư vị lớn như tôi, sáu bảy chục tuổi th́ có
thể nhớ vào những năm Dân Quốc bốn mươi (1951)
người ở Đài Loan hết sức dễ thương, trung hậu,
thật thà, chất phác; xă hội Đài Loan an định,
trị an tốt nhất Đông Nam Á. Người thời đó tử tế,
lúc chúng tôi mới đến Đài Loan, khi đi t́m nhà
bạn nhưng không biết đường, tùy tiện hỏi người
nào th́ họ liền ngưng làm việc và dẫn ḿnh đi
kiếm cả một đoạn đường, đưa đến tận nhà. Xă hội
hiện nay không được vậy nữa! Nếu bạn hỏi đường,
[họ sẽ trả lời cộc lốc:] ‘Không biết’, chẳng
thèm đếm xỉa đến bạn. Đây là chỉ mới bốn mươi
năm mà thôi! Càng về trước ḷng người càng đôn
hậu, lúc mua đồ không có tiền sẵn trong túi th́
có thể thiếu chịu, chẳng cần ghi sổ, ghi tên ǵ
hết, giữa người với nhau có sự thành tín như
vậy; bây giờ đâu c̣n nữa! Hiện nay chuyện ǵ
cũng phải kư hợp đồng, c̣n phải viết ra từng
điều rơ ràng, sợ lọt vào những lỗ hổng luật
pháp. Bạn xem đời sống gian nan, khổ sở quá
chừng phải không, đâu có thong dong tự tại như
hồi đó. Cho nên thời xưa Niệm Phật Đường đơn
giản, đơn thuần, thiệt có thể thành tựu, có thể
giúp người ta văng
sanh.
Nhân
tâm trong xă hội ngày nay rất sôi động, lo sợ
chẳng yên, chẳng có cảm giác an toàn, tâm nhảy
loạn xạ, vậy th́ làm sao tín, nguyện có thể vững
chắc được! Thế nên phương pháp duy nhất là phải
giảng rơ, giảng kỹ kinh giáo, điểm này rất quan
trọng. Ngày nay chúng tôi đề xướng ‘Giải Hành
cùng coi trọng’, hy vọng mỗi Tịnh Tông Học Hội
đều lấy cuốn khóa tụng thường ngày mà chúng tôi
đă soạn, cuốn khóa tụng ấy là do tôi soạn, nghi
thức đă được giảm bớt. Lúc trước phần đông những
khóa tụng hằng ngày gồm có: buổi sáng tụng Chú
Lăng Nghiêm, Thập Chú, buổi tối tụng bài văn đại
sám hối, kinh Di Đà. Hiện nay chúng tôi sửa đổi
phần tụng kinh, khóa buổi sáng chọn bốn mươi tám
nguyện trong kinh Vô Lượng Thọ, khóa tối chọn
phẩm ba mươi hai đến ba mươi bảy trong kinh Vô
Lượng Thọ. Tại sao chúng ta phải thay đổi kinh
tụng niệm hằng ngày? V́ căn tánh của chúng sanh
hiện nay khác với lúc trước. Lúc trước người ta
y theo khóa tụng thời xưa có thể đạt được lợi
ích. Ngày nay chúng ta noi theo khóa tụng như
vậy chẳng thể đạt được lợi ích. Mục đích chúng
ta tu Tịnh Độ là tương lai cầu sanh Tây phương
Cực Lạc thế giới.
Làm sao mới được văng sanh
?
Nhất định phải có tâm giống với tâm của đức Phật
A Di Đà, có nguyện giống với nguyện của đức Phật
A Di Đà, [kiến] giải giống với đức Phật A Di Đà,
hạnh giống với đức Phật A Di Đà.
Nếu
chúng ta có thể làm được tâm, nguyện, giải, hạnh
đều giống với đức Phật A Di Đà th́ chúng ta nhất
quyết sẽ được văng sanh -- tự tự nhiên nhiên cảm
ứng đạo giao.
V́
vậy nên giảng giải kinh điển rất quan trọng,
nghiên cứu càng quan trọng hơn. Những đồng tu di
dân đến Úc Châu, quư vị ở trong thời đại này có
phước báo to lớn. Chúng ta thấy những người di
dân ở khắp nơi trên thế giới đều rất gian khổ,
làm việc không bao giờ ngừng nghỉ, áp lực đời
sống nặng nề, đâu được như những người di dân
đến Úc Châu, người nào cũng nhàn hạ, mỗi ngày
đều đi đánh banh. Đánh banh vẫn tạo nghiệp luân
hồi, đánh banh không thể đánh thoát ra nổi sáu
nẻo luân hồi, đánh chẳng ra nổi tam giới. [Thay
v́ đi đánh banh] quư vị có thể dùng thời gian
này để nghiên cứu Tịnh Độ Ngũ Kinh Nhất Luận,
thâm nhập nghiên cứu, được vậy th́ có thể xây
dựng được tín và nguyện của ḿnh. Ngẫu Ích đại
sư dạy rất hay: ‘Thiệt có tín, có nguyện th́
có thể văng sanh, phẩm vị văng sanh cao hay thấp
là do công phu niệm Phật sâu hay
cạn.’
Tín Nguyện
vô cùng quan trọng! Đừng tưởng ḿnh đă tin
tưởng, ḿnh đă phát nguyện rồi, ḿnh mỗi ngày
đều khuyên người niệm Phật, không hẳn vậy đâu!
Bạn hăy coi thử ḿnh c̣n tham, sân, si, mạn, đố
kỵ, chướng ngại không, nếu vẫn c̣n, vả lại
thường thường nổi lên tức là bạn chẳng có tín,
chẳng có nguyện. Người có tín, có nguyện nhất
định chẳng có [phiền năo, chướng ngại]; tâm của
người có tín, có nguyện giống hệt tâm Phật,
giống hệt tâm Bồ Tát th́ làm sao có nhiều phiền
năo, có nhiều chướng ngại như vậy
được!
Nghiệp chướng là ǵ ? Nghiệp chướng
tức là ‘vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước’.
Bất luận đối với người, với sự, với vật bạn c̣n
những tâm niệm này nổi lên tức là nghiệp chướng.
Không những nghiệp chướng này tạo chướng ngại
cho việc văng sanh của bạn, khi bạn nghiên [cứu
kinh] giáo th́ cũng gây chướng ngại cho việc
tăng trưởng trí huệ. Đồng tu niệm Phật thường
hay nói câu này: ‘Chúng ta phải tiêu nghiệp
chướng’, nhưng làm thế nào để tiêu trừ nghiệp
chướng? Có phải lạy Lương Hoàng Sám th́ sẽ tiêu
nghiệp chướng hay chăng? Bạn lạy luôn cả bảy
ngày thử coi bạn c̣n tham, sân, si hay không?
Nếu gặp việc không vừa ư liền nổi giận, đó là
nghiệp chướng hiện ra, nghiệp chướng chưa tiêu
ǵ hết! Giả sử lạy xong bảy ngày Lương Hoàng Sám
mà khi gặp chuyện chẳng vừa ư bạn vĩnh viễn
chẳng nổi giận th́ bạn đă tiêu hết nghiệp
chướng. Từ điểm này có thể biết trên môi nói
tiêu nghiệp chướng là một việc khác, thực sự th́
nghiệp chướng chẳng có tiêu ǵ cả, không những
chẳng tiêu mà mỗi ngày c̣n tăng thêm. Như vậy
th́ làm sao được! Đây là việc chúng ta phải đặc
biệt cảnh giác, phải nghĩ đến sanh tử luân hồi
rất đáng sợ
!
Trong
lục đạo luân hồi có được thân người thiệt chẳng
phải là một chuyện dễ dàng. Chúng ta hôm nay
được thân người là do thiện căn tích lũy từ
nhiều đời nhiều kiếp trước! Ngày nay ḿnh đă gặp
nhân duyên này nhưng được thân người xong lại
mất thân người, mất thân người rồi mà muốn kiếm
trở lại chẳng phải là dễ, hết sức khó khăn!
Trong kinh điển đức Phật dùng rất nhiều tỷ dụ ,
Phật chẳng nói dối, chẳng nói lời không thật,
chẳng gạt người, câu nào cũng đều chơn thật, v́
vậy chúng ta phải có tâm cảnh giác cao độ, phải
hiểu rơ sự thật này, hiểu rơ chân tướng của vũ
trụ nhân sanh.
b. Nghiên cứu kinh giáo
tức là nhớ Phật – Khoa phán, văn tự và nghĩa lư
được thực hiện trong sinh hoạt.
Tu
hành, tu là ǵ? Tu tức là sửa đổi những thói hư
tật xấu mà thôi. Tiêu chuẩn của tu hành là noi
theo lời giáo huấn của Phật, trong kinh Phật dạy
làm ǵ th́ ḿnh phải làm theo, dạy đừng làm ǵ
th́ ḿnh nhất định chẳng làm. Tu hành là bắt đầu
tu tập từ chỗ này. V́ vậy nghiên cứu kinh giáo
rất quan trọng, hy vọng mỗi ngày chúng ta ít
nhất phải nghiên cứu kinh giáo bốn giờ đồng hồ,
niệm Phật bốn giờ; mỗi ngày tám giờ đồng hồ,
không thể làm ít hơn, nếu ít hơn th́ đời này
chúng ta cầu văng sanh sẽ không chắc chắn. Mỗi
ngày công phu tám giờ đồng hồ nhất định không
thể thiếu, đây là đạo phong và học phong (phong cách tu
tập và phong cách học tập) của đạo tràng chúng
ta -- giải và hành cùng coi trọng. Quư vị nên
biết ‘nghiên giáo’ và ‘niệm Phật’ là cùng một
việc, chẳng phải là hai việc. Đại Thế Chí Bồ Tát
dạy: ‘Nhớ Phật niệm Phật, hiện giờ tương lai,
nhất định thấy Phật’ (Ức Phật niệm Phật, hiện
tiền đương lai tất định kiến Phật). Nghiên giáo
tức là nhớ Phật; năm kinh một luận của Tịnh Tông
toàn là nói về y báo, chánh báo trang nghiêm của
Tây phương Cực Lạc thế giới. Phương pháp niệm
Phật rất nhiều, cho nên nghiên giáo chẳng ở
ngoài niệm Phật. Hy vọng là các đồng tu có thời
giờ đều đến tham gia nghiên giáo; do pháp sư
hoặc cư sĩ đại đức phát tâm giảng kinh, giảng
một đoạn xong mọi người nghiên cứu, thảo
luận.
Nghiên cứu và thảo luận cần có một chương tŕnh,
thứ tự hẳn ḥi để tránh rối loạn, mới có thể gặt
hái được kết quả. C̣n về phương pháp, lúc trước
tôi đă viết một bài ‘Cương lănh trọng yếu của
việc nghiên cứu nội điển’, trong đó đề ra vài
nguyên tắc, quư vị làm theo những nguyên tắc này
th́ rất tốt. Trong đó có những điểm chánh: thứ
nhất văn tự phải trong sáng, găy gọn, rơ ràng.
Phân đoạn của kinh văn phải theo thứ lớp rơ rệt,
việc này trong Phật pháp gọi là ‘khoa phán’.
Phương pháp phân chia thành từng đoạn, thứ lớp
th́ 'người nhân thấy điều nhân, người trí thấy
điều trí’ [Từ nội tâm ảnh hưởng đến kiến giải,
quan điểm, cách xử sự], chẳng có nhất định, đều
không giống nhau, chẳng có tiêu chuẩn. Cho nên
mỗi vị đồng tu tham gia đều có thể tŕnh bày
cách nh́n của ḿnh. Người này cảm thấy nên từ
chỗ này phân đoạn, người kia cảm thấy nên từ chỗ
nọ phân đoạn, sau đó mọi người xúm lại nghiên
cứu cách nào hay nhất th́ chúng ta dùng cách đó.
Phương pháp nghiên cứu chương pháp và kết cấu
của kinh văn đối với sự học Quốc văn cũng có thể
giúp cho ḿnh tiến bộ thêm, đây là một môn học
rất lư
thú.
Sau
đó đi sâu vào văn tự, nhất định phải t́m ra
những chữ đọc trại ra âm chữ khác, chữ lạ chẳng
hiểu th́ nhất định phải tra tự điển. Chữ Trung
Quốc có nhiều chữ ‘phá âm’, một chữ có rất nhiều
cách đọc, cách đọc khác nhau th́ ư nghĩa cũng
khác nhau; có khi cách đọc giống nhau nhưng cùng
một chữ có nhiều cách giải thích, cách nào phù
hợp đoạn kinh văn này đều phải nghiên cứu. Đây
là sự nghiên cứu sâu vào văn tự, khi bạn nghiên
cứu những thứ này th́ bạn sẽ chẳng khởi vọng
tưởng, sẽ không nghĩ ngợi lung tung; vậy th́
Giới, Định, Huệ đều nằm trọn trong
đó.
Vấn đề
văn tự chữ nghĩa đă giải quyết xong, chúng ta
mới bàn thảo nghĩa lư trong đó; Phật nói câu này
dụng ư ở đâu? Hiểu ư tứ xong đi thêm một tầng
nữa: trong đời sống nên làm như thế nào? Làm thế
nào để ứng dụng vào công việc hằng ngày, xử sự,
đăi người, tiếp vật, đây mới thiệt là làm theo
lời giáo huấn của Phật, mới đạt được lợi ích
chân thật của lời dạy. V́ vậy mọi người đều có
thể tham dự những công tác này, không chỉ dành
riêng cho một cá nhân nào và chẳng phải nghe
theo một người mà thôi, như vậy đạt được hiệu
quả rất ít, mọi người nhất định phải tham dự. Ở
đây tuy sách vở không đầy đủ, nhưng đối với
người sơ học như chúng ta th́ cũng khá đủ rồi,
nếu cần chúng ta sẽ mua thêm sách ở Đài Loan, có
một thư viện nho nhỏ, cung cấp cho mọi người
nghiên cứu tham khảo. Quư vị có thể tra cứu tài
liệu, ghi chép, mỗi ngày đến giờ nghiên giáo bạn
có thể phát biểu ư kiến, tâm đắc, cảm ứng của
bạn. Nếu bạn nghĩ sai, đồng tu sẽ giúp bạn sửa
lại, nếu bạn có ư kiến hay th́ cũng có thể chia
xẻ với mọi người, đây là tự lợi, lợi tha, như
vậy gọi là ‘thảo luận nghiên cứu giáo
học’.
Ở
Singapore tôi dùng phương pháp này để dạy học,
tôi dạy học chẳng giảng bài cho học sinh, lúc
lên lớp là học sinh lên giảng đài giảng cho tôi nghe, nếu
người này giảng chưa đúng th́ đổi một học sinh
khác lên giảng, mỗi học sinh phải luôn luôn
chuẩn bị đầy đủ. Kêu ai lên giảng? Phải rút
thăm, v́ vậy người nào cũng phải chuẩn bị. Họ
học với tôi, học rất căng thẳng. Cư sĩ Lư Mộc
Nguyên nói với tôi: ‘Họ thức đến hai ba giờ
khuya c̣n chưa ngủ’. Tôi biết chuyện này, ngày
xưa chúng tôi đi học cũng vậy; có ai chẳng trải
qua những khổ nhọc này? Nếu chẳng chịu đựng được
chút khổ nhọc th́ bạn làm sao học cho được?
Thông thường tôi sẽ chọn từ ba đến bốn người,
nếu đều giảng không được hoàn hảo th́ chẳng c̣n
cách nào khác, tôi phải đứng lên giảng. Nếu họ
giảng cũng khá th́ tôi chẳng cần giảng, chỉ sửa
sai chút đỉnh là được. Dùng cách này học sinh thiệt là
rất nhọc nhằn, nhưng họ thâu thập được lợi ích
thực sự. Nếu trong ba tháng chỉ nghe tôi giảng
th́ sau khi bước ra khỏi giảng đường liền quên
hết -- lời nói thoảng qua tai th́ chẳng dùng
được. Cho nên họ nói với tôi những ǵ họ học
được trong ba tháng c̣n phong phú hơn những ǵ
họ học trong bốn năm ở Phật Học Viện trước đây,
thiệt là đạt được
lợi ích to lớn, tuy nhọc nhằn nhưng chẳng uổng
công. Trong bốn năm trước có ngày nào phải thức
đến hai ba giờ khuya đâu? Chẳng có. Mỗi đêm ngủ say mê, mơ mộng
lung tung, trong ba tháng này khẩn trương, chịu
khó, bởi vậy mới có thâu
hoạch.
Lúc
trước ở Đài Trung thầy Lư cũng dùng phương pháp
này dạy chúng tôi. Thầy ngồi ở hàng ghế cuối
cùng, v́ lúc đó chưa có máy khuyếch âm
(amplifier), khi bạn lên giảng đài nói chuyện phải nói đến mức
thầy nghe rơ th́ mới được, v́ vậy nên thầy ngồi
ở chỗ xa nhất. Nếu thầy nghe chẳng rơ th́ không
được – âm thanh của bạn nhỏ quá, chẳng đủ tiêu
chuẩn. Âm thanh, thái độ, cử chỉ của bạn đều
phải đủ tiêu chuẩn, đều phải tiếp nhận phê b́nh,
thế nên tu học phải hết ḷng. Có gắng sức, hết
ḷng th́ bạn mới có ích lợi, ích lợi ở chỗ nào?
Bạn đạt được ích lợi th́ bạn hiểu được. Ngày hôm
sau, lập lại! Lập lại thêm lần nữa! Ngày nào
cũng vậy, mỗi ngày đều phải trao giồi, luyện
tập, bạn sẽ có hứng thú sâu đậm đối với sự tu
học Phật pháp, thời gian của bạn sẽ không lăng
phí, đời sống của bạn rất dồi dào phong phú, bạn
sẽ rất vui vẻ, đây đúng là niềm vui pháp hỷ sung
măn! Trải qua sự học tập như vậy bạn mới có thể
luyện tập giảng kinh – lên giảng đài tập dợt lại, tiếp nhận lời
phê b́nh của người nghe, người nghe giúp bạn sửa
đổi, cải tiến. Sau đó bạn phải hết ḷng sửa đổi
bài giảng nháp của bạn, sửa đổi âm thanh của
bạn, thái độ biểu diễn, sau cùng lên giảng đài chánh thức biểu
diễn.
Mỗi
buổi sáng nghiên giáo, phải cần hai đến ba tiếng
đồng hồ, không thể gián đoạn. Buổi tối giảng
kinh, những người phát tâm giảng kinh thay phiên
nhau giảng. Tại sao chúng ta phải giảng kinh vào
buổi tối? Trong xă hội hiện nay các đồng tu tại
gia rất bận rộn trong công việc làm ăn, ban ngày
chẳng có thời giờ đến nghe kinh, chỉ có buổi
tối. V́ vậy chúng ta thay đổi niệm Phật vào buổi
chiều, giảng kinh buổi tối. Buổi tối giảng kinh
là mở rộng cho mọi người, hoan nghinh những
người ở ngoài đến nghe giảng. Giảng kinh cũng
không được gián đoạn, tứ chúng đệ tử đều phải
phát tâm. Buổi sáng công phu niệm Phật, niệm một
giờ rưỡi, cũng bằng thời gian một cây hương
trong Phật thất. ‘Buổi sáng nghiên giáo, buổi
chiều niệm Phật, buổi tối giảng kinh’. Một năm
ba trăm sáu mươi lăm ngày, mỗi ngày đều như vậy,
đây là học phong, đạo phong của Tịnh Tông chúng
ta.
Mỗi
tháng chúng ta đề xướng đả Phật thất một lần.
Lúc đả Phật thất th́ có ngưng việc nghiên giáo
không? Không ngưng. Người đả Phật thất ở Niệm
Phật Đường niệm Phật, chúng ta có pḥng học dành
riêng cho việc nghiên giáo, chỉ có những đồng tu
chủ tŕ và hộ thất trong bảy ngày này không tham
gia nghiên giáo, phải hộ tŕ đạo tràng Phật
thất. Trong khóa Phật thất th́ buổi tối vẫn
giảng kinh như thường. Như vậy có lợi v́ những
người đến tham dự Phật thất có rất nhiều người
chẳng ở tại địa phương này, là những người từ
chỗ khác đến, lúc b́nh thường cơ hội nghe pháp
rất ít, đến đây vừa đúng lúc được dịp học hỏi,
chúng ta giảng một ít Phật pháp cho họ nghe. Cho
nên từ ngày đầu đến ngày thứ năm trong Phật thất
đều giảng kinh, đêm thứ sáu làm lễ hồi hướng, đêm thứ bảy làm lễ Tam
Thời Hệ Niệm, hai đêm này không giảng kinh, ngoài ra ngày
nào cũng giảng kinh. Hy vọng Tịnh Tông Học Hội ở
khắp nơi đều có thể hết ḷng làm theo phương
pháp này.
c. Tu hành – Thanh
tịnh, B́nh đẳng, Giác.
Tu
hành cần phải chân thành, thật thà, quan trọng
nhất là ba điều trong đề kinh của kinh Vô Lượng
Thọ: ‘Thanh tịnh - B́nh đẳng - Giác’. Năm chữ
này là Tam Bảo! Khi bắt đầu học Phật quư vị phải
quy y Tam Bảo.
Tam Bảo
là ‘Giác, Chánh, Tịnh’.
Thanh
tịnh là Tăng bảo, B́nh đẳng là Pháp bảo, Giác là
Phật bảo.
Trong đề kinh có đầy đủ Tam Bảo. Không những đầy
đủ Tam Bảo mà Tam Học cũng đầy đủ. Tam học là
‘Giới, Định, Huệ’, Thanh tịnh là Giới, B́nh đẳng
là Định, Giác là Huệ.
Đồng tu
Tịnh Tông chúng ta tu những ǵ? Tu Giác, Chánh,
Tịnh.
A
Di Đà Phật tức là Giác - Chánh - Tịnh.
Quư vị đă
đọc kinh Vô Lượng Thọ, thấy Thế Tôn nói với A
Nan: 'Quư vị có muốn nh́n thấy Thanh tịnh - B́nh
đẳng - Giác không?', Thanh tịnh - B́nh đẳng -
Giác tức là A Di Đà Phật. Nếu chúng ta tu Thanh
tịnh - B́nh đẳng - Giác thành công, chúng ta
cũng sẽ là A Di Đà Phật, tự tự nhiên nhiên sẽ là
trăm ngàn ức hóa thân của A Di Đà Phật; bạn sẽ
là hóa thân của A Di Đà Phật th́ bạn làm sao
chẳng đến Cực Lạc thế giới được? Đương nhiên sẽ
đến mà!
Thế nên phải hiểu kinh Vô Lượng Thọ của Tịnh
Tông, năm kinh một luận dạy chúng ta tu những
ǵ? Tức là dạy chúng ta tu Thanh tịnh - B́nh
đẳng - Giác. Mỗi năm tâm chúng ta có thanh tịnh
hơn năm trước không? ‘Thanh tịnh’ nghĩa là vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước, phiền năo giảm bớt, thói hư
tật xấu ít hơn rồi. Như vậy là có tiến bộ, là
công phu đắc lực rồi
đó.
Nếu mỗi
ngày tụng kinh, niệm Phật nhưng thói hư tật xấu
cũng c̣n nhiều như cũ, tâm lượng vẫn c̣n hẹp
ḥi, vậy th́ chẳng có ích chi cả
! Chúng ta
nghĩ coi Phật, Bồ Tát có tâm như thế nào? Phật,
Bồ Tát có tâm chân thành, thanh tịnh, từ bi, khi
khởi tâm động niệm đều nghĩ đến hết thảy chúng
sanh, chẳng nghĩ đến ḿnh; chúng ta phải học cái
tâm của Phật, tức là niệm niệm v́ chúng sanh,
tận tâm tận lực giúp Phật pháp, giúp chúng sanh,
đừng nghĩ về ḿnh; ‘ḿnh chẳng c̣n nữa th́ bạn sẽ thực sự
được đại tự tại’. Tại sao chúng ta học Phật chẳng được
thành tựu? Tuy nghĩ đến chúng sanh, tự ḿnh c̣n
chiếm hơn phân nửa v́ vậy nên bạn chẳng thể
thành tựu, bạn chẳng được cảm ứng. Đến lúc nào
mới quên ḿnh, dốc toàn tâm toàn lực v́ chúng
sanh? Trong kinh quư vị thường thường niệm đến
câu 'tâm bao trùm hư không, lượng trọn khắp các
cơi nhiều như cát'(tâm bao thái hư, lượng châu
sa giới); đó là tâm lượng của chư Phật, Bồ Tát,
chúng ta phải học theo. Tâm bao trùm hư không,
lượng trọn khắp các cơi nhiều như cát là tâm
lượng vốn sẵn có của mỗi người chúng ta; tại sao
bây giờ tâm lượng chúng ta nhỏ nhoi như vậy? Hai
người ở chung với nhau bất đồng ư kiến, không
thể bao dung lẫn nhau, vậy th́ bạn c̣n có thành
tựu ǵ nữa? Thế nên học Phật việc đầu tiên là
phải mở rộng tâm lượng, phải có thể bao dung
nhẫn nhịn, khi gặp những việc không như ư th́
cũng đừng nên trách móc người khác, chỉ nghĩ
tưởng việc của ḿnh, như vậy mới có thể giải
quyết vấn đề, mới có thể thành tựu đức hạnh, trí
huệ của ḿnh.
d. Phản tỉnh, sửa lỗi lầm, tiêu nghiệp
chướng.
Trong lịch sử Trung Quốc mọi người đều biết vua
Thuấn. Vua Thuấn là vị đầu tiên trong ‘Nhị Thập
Tứ Hiếu’, ngài là vị dẫn đầu của đạo hiếu. Ngài
làm như thế nào? Mẹ của ngài mất sớm, cha cưới
kế mẫu. Kế mẫu sanh một đứa con, đương nhiên
thương con ḿnh và đối xử với ngài rất bạc bẽo, người cha
lại nghe lời của kế mẫu. Trong đời sống hằng
ngày hầu như việc ǵ cũng làm cho cha phiền
ḷng, ngài chẳng nghĩ rằng cha mẹ không đúng,
hoàn toàn quay ngược lại, nghĩ về ḿnh, tự hỏi
ḿnh đă làm ǵ sai chăng? Hoàn toàn phản tỉnh
nội tâm. Cứ như vậy trải qua mấy năm, cha mẹ rốt
cuộc cũng bị ngài cảm hóa. Đây là đại hiếu! Chân chánh làm được
lời dạy của Lục Tổ Huệ Năng: 'Nếu là người tu
đạo chân chánh, chẳng nh́n lỗi người
khác'.
Dưới cái nh́n của vua Thuấn, người khác chẳng có
lỗi lầm ǵ hết, lỗi lầm đều là của cá nhân ḿnh.
Tại sao mọi người đều đối xử không tốt với ḿnh?
Chẳng trách người khác, chỉ trách ḿnh; tự ḿnh
phản tỉnh, thực sự sám hối, sửa lỗi lầm, như thế
mới cảm động cha mẹ. Sau này vua Nghiêu biết
được, vua Nghiêu biết được người này rất phi
thường, trong nhà có thể làm cho cả nhà ḥa hợp,
sau này có thể ảnh hưởng đến làng xóm, làm cho
người trong cả xóm, cả địa phương ḥa hợp. Nếu
người này làm quốc vương th́ nhất định có thể
cai trị dân chúng cả nước, thế nên vua Nghiêu
nhường ngôi cho ngài, c̣n gả hai người con gái
của ḿnh cho ngài. Đây là thánh nhân thế gian,
là tấm gương tốt cho chúng
ta.
Thế
nên người tu đạo chân chánh th́ đừng nh́n lỗi
lầm của người khác, hết thảy lỗi lầm đều là của
ḿnh. Tại sao người ta lại trừng mắt nh́n chúng
ta? Tại sao họ mắng chửi ḿnh mà không chửi
người khác? Tự chúng ta suy nghĩ xem ḿnh đă có
lỗi với họ ở chỗ nào? Chúng ta làm sai chỗ nào?
Việc ǵ làm cho người ta sanh phiền năo? Thế nên
tu hành chẳng có ǵ khác ngoài việc có thể quay
đầu, phản tỉnh, sửa lỗi lầm, đây gọi là sám hối
thực sự, được vậy mới có thể tiêu nghiệp chướng.
Nếu nói chỗ nào cũng nh́n thấy lỗi lầm của người
khác, ḿnh chẳng có lỗi, người này chắc chắn là
chúng sanh trong ba đường ác. Phu Tử nói: 'Người
ngu như vậy, chẳng cần trách họ!'chẳng cần nói
nữa, người này sẽ đi vào tam đồ lục đạo
mà.
Chúng
ta nhất định phải thâm nhập kinh giáo, vĩnh viễn
chẳng bao giờ tạm dừng, được vậy mới có thể nâng
cao cảnh giới của ḿnh. Các ngôi vị Bồ Tát mới
có thể nâng cao, Thập Trụ thăng lên Thập Hạnh,
rồi thăng lên Thập Hồi Hướng, lên Thập Địa.
Chúng ta niệm Phật cũng chẳng ngoại lệ, chúng ta
có thể từ Phàm Thánh Đồng Cư độ thăng lên Phương
Tiện Hữu Dư độ, lại thăng lên Thật Báo Trang
Nghiêm độ, đây mới là người thông minh chân
chánh. Không ngừng nâng cao cảnh giới của ḿnh,
đời này chúng ta chẳng luống
uổng.
Tuy
mọi người chưa đọc kinh Hoa Nghiêm nhưng đă nghe
đến năm mươi ba lần tham học của Thiện Tài đồng
tử, đó là dạy chúng ta làm thế nào để tu Đại
thừa Bồ Tát đạo. Trong pháp Bồ Tát chỉ có một
ḿnh – tự ḿnh tôi là phàm phu, là học sinh, trừ
tôi ra hết thảy đều là chư Phật, chư Bồ Tát; thế
nên Thiện Tài thành Phật ngay trong một đời.
Ngày nay chúng ta học Phật -- chỉ có ḿnh đúng,
mọi người đều sai hết. Có tâm niệm này, thái độ
này th́ bạn làm sao thành tựu? Mỗi ngày tăng
trưởng ngă chấp, ngă mạn. Chuyện này không thể
được, là tạo ra vô lượng vô biên tội nghiệp,
chẳng phải tiêu nghiệp chướng mà mỗi ngày càng
tăng thêm nghiệp chướng.
e. Học Phật phải bắt đầu
từ khởi tâm động niệm.
Phật, Bồ Tát là gương mẫu, mô phạm cho chúng ta,
chúng ta phải học theo các Ngài. Khi chúng ta
khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác, khi tâm
niệm vừa khởi trong tâm liền nghĩ: ‘Tôi làm như
vậy có thể làm gương mẫu cho mọi người chăng?’
Nếu bạn có thể hạ thủ từ chỗ này th́ sự tu hành
của bạn sẽ có tiến bộ. [Lấy thí dụ] Chúng ta đi
trên đường muốn khạc nhổ lập tức liền nghĩ nếu
tôi nhổ bừa băi th́ có thể làm gương mẫu cho xă
hội đại chúng hay không? Tâm niệm này vừa khởi
lên th́ bạn tự nhiên sẽ chẳng dám khạc nữa. Hiện
nay những thứ giấy bao bọc bánh kẹo rất đẹp, ăn
rồi chúng ta có thể tùy tiện liệng những miếng
giấy này không? Bạn có nghĩ đến lời đức Phật dạy
chúng ta không? ‘Diễn thuyết cho người khác’,
diễn là biểu diễn, làm gương cho người ta xem,
tôi làm như vậy có giống Phật, Bồ Tát không?
Giống đệ tử của Phật, Bồ Tát chăng? Tùy tiện
liệng bậy những thứ này th́ tôi đă có lỗi đối
với Phật, Bồ Tát. Hôm nay các bạn mặc áo thun,
trên đó có ghi ḍng chữ: ‘Đệ tử Di Đà’, những
hành vi của bạn có xứng đáng với Phật A Di Đà
chăng? A Di Đà Phật dạy bạn làm như vậy sao?
Nghĩ vậy nên chúng ta tự nhiên sẽ thâu liễm, sẽ
không dám phạm lỗi
lầm.
Nền
trị an ở Tân Gia Ba rất tốt là [nhờ] pháp trị
đấy! H́nh phạt rất nặng. Chúng ta không muốn bị
người phạt, chúng ta có lương tâm, thường thường
nghĩ đến A Di Đà Phật, mỗi khi chúng ta khởi tâm
động niệm, hết thảy hành động đều phải xứng đáng
với Phật A Di Đà, đáng là học tṛ giỏi của Phật
A Di Đà, là gương mẫu cho xă hội đại chúng, đó
gọi là tu hành. Bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ đây –
y giáo phụng hành. Trong kinh dạy chúng ta làm
như thế nào? Chúng ta có thể nghĩ đến những thứ
này, có thể trong đời sống hằng ngày, từng ly
từng tí đều không vi phạm lời dạy của Phật, đây
tức là tự hành hóa tha, thiệt là làm được 'thọ
tŕ, đọc tụng, diễn thuyết cho người khác biết;;
‘Thuyết’ là khi người ta hỏi ḿnh, ḿnh nhiệt
tâm giải thích cho người ta biết. Chỉ cần bạn
làm được tốt, tự tự nhiên nhiên sẽ cảm động
những người xung quanh, cảm động hàng xóm láng
giềng của
bạn.
Nếu
bạn làm được lâu dài, công phu sâu dày rồi, bạn
sẽ có thể cảm hóa xă hội; những người được bạn
cảm động nhất định sẽ thỉnh giáo bạn, đây là cơ
duyên chín muồi. Bạn phải giải thích tường tận
cho họ, khuyến khích họ học Phật, nói với họ sự
lợi ích của việc học Phật: tâm người học Phật
thanh tịnh, thanh tịnh tức là tâm chẳng bị ô
nhiễm; tâm địa b́nh đẳng chẳng có cao thấp, có
cao thấp th́ chẳng b́nh đẳng, không b́nh đẳng
th́ đương nhiên chẳng thanh tịnh. Đại trí đại
giác là từ thanh tịnh, b́nh đẳng sanh ra. Nếu
tâm bạn chẳng thanh tịnh, chẳng b́nh đẳng th́ sẽ
sanh phiền năo, chẳng sanh trí huệ, th́ sẽ mê
hoặc điên đảo, vậy th́ làm sao
được!
Thời
gian người ta sống trên đời này hết sức ngắn
ngủi, làm đệ tử Như Lai đặc biệt là làm đệ tử Di
Đà là hết sức hy hữu, đây là cơ hội hiếm hoi,
khó gặp nhất! Đệ tử Di Đà được hết thảy mười phương thế giới chư
Phật Như Lai đều tán thán và tôn trọng. Lúc
chúng ta muốn đi tham phỏng đạo tràng của chư
Phật ở mười phương thế giới, chư Phật thấy chúng
ta là đệ tử Di Đà
đều sẽ đặc biệt
tiếp đón. Nhưng nếu hành động, khởi tâm động
niệm của chúng ta chẳng làm rạng danh đức Phật A
Di Đà, ngược lại ngày ngày đều bôi nhọ Ngài, như
vậy th́ không được đâu! Làm những việc trái
ngược lương tâm, luôn làm việc tham, sân, si,
mạn mà c̣n treo chiêu bài ‘Đệ tử Di Đà’, chẳng
phải chúng ta đă làm mất mặt A Di Đà Phật rồi
hay sao? Việc này làm sao được? Hy vọng chư vị
đồng tu thường phản
tỉnh.
Trong hai khóa lễ sáng tối, khóa sáng là để chúng ta phát
nguyện giống như ‘đại nguyện của đức Phật A Di
Đà’, Ngài phát bốn mươi tám đại nguyện độ chúng
sanh th́ chúng ta cũng phát bốn mươi tám nguyện
độ chúng sanh. Khóa tối niệm phẩm ba mươi hai
đến phẩm ba mươi bảy, đây là ‘giữ giới niệm
Phật’. Đoạn kinh này đặc biệt dùng để răn dạy
chúng sanh đời mạt pháp, nghiệp chướng tập khí
của chúng ta quá nặng, khi khởi tâm động niệm
phạm lỗi quá nhiều, đức Phật đă kể ra tất cả
[lỗi lầm] trong đoạn kinh này. Sau khi niệm xong
chúng ta phải phản tỉnh coi ḿnh có phạm những
lỗi này không, nếu có th́ phải mau sửa đổi! Nếu
không có th́ phải tự nhắc nhở đừng bao giờ phạm.
Cho nên phẩm ba mươi hai đến phẩm ba mươi bảy là
giới phẩm, nội dung là giải thích rơ về ngũ giới
và thập thiện, vô cùng trân
quư!
f. Kinh cứu mạng
trong thời Mạt pháp – Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng
Chí Nhạo Kinh.
Nhưng thói hư tật xấu của chúng ta thực sự rất
nhiều. Đây là lư do người niệm Phật th́ nhiều
nhưng người văng sanh được rất ít, chúng ta phải
t́m ra nguyên nhân của vấn đề này. Tại sao người
niệm Phật chẳng thể văng sanh, vẫn c̣n phải đọa
ba đường ác, nguyên nhân rốt cuộc là ở chỗ nào?
Tại sao công phu niệm Phật của chúng ta chẳng
đắc lực? Tại sao hàng phục phiền năo tập khí của
ḿnh chẳng được?
V́ những
vấn đề này nên chúng tôi mới giảng ‘kinh Phát
Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo’. Tôi đă giảng bộ
kinh này ba lần, tại Mỹ, Đài Loan, và Tân Gia
Ba, giảng tại Tân Gia Ba tường tận nhất v́ có đủ
thời gian. Bộ băng thâu âm này đă được đồng tu
chép ra giấy đợi tôi coi xong, sửa đổi chút đỉnh
rồi sẽ in thành sách. Bộ kinh này là đức Thế Tôn đặc biệt
dạy cho người hiện nay, giảng cho chúng ta biết
những lỗi lầm ǵ mà ḿnh dễ phạm, chỉ cần chúng
ta phạm một lỗi trong đó th́ niệm Phật chẳng
được văng sanh. Nếu lỗi nào cũng phạm th́ quá
nghiêm trọng rồi. Thế nên lúc tôi giảng kinh đặc
biệt đă nói rơ kinh này là ‘kinh cứu mạng’ trong
thời mạt pháp, chúng ta nhất định phải hết ḷng
học hỏi.
Thường thường chúng ta phạm lỗi nhưng chẳng
biết, sau khi Phật nói ra, phân tích rơ th́
chúng ta mới biết. Tuy là giảng kinh nhưng trong
đó có rất nhiều ư nghĩa mà trên giảng đài tôi chẳng tiện nói
ra, nên tôi chỉ nói sơ sơ những ǵ phải nói mà
thôi, chẳng thể nói rơ, nói rơ th́ sẽ đụng chạm
người khác, hy vọng mọi người lắng ḷng thể hội,
tự cứu ḿnh rất quan trọng. Nếu chúng ta có thể
cứu ḿnh th́ mới có thể giúp người khác, mới có
thể hoằng dương Phật pháp, gánh vác sự nghiệp kế
thừa Như Lai, phát triển sự nghiệp đại pháp. Đệ
tử xuất gia phải như vậy, đệ tử tại gia cũng
chẳng ngoại lệ.
Phật pháp
là sự nghiệp to lớn của tứ chúng đồng tu, tôi đă
nói nhiều lần rồi. Chúng ta hy vọng đạo tràng
hưng vượng, trong đạo tràng có ba loại người,
thứ nhất là những người có năng lực, có năng
khiếu, có hứng thú học giảng kinh; thứ nh́ là
người có hứng thú học dùng pháp khí, học nghi
thức, chủ tŕ Niệm Phật Đường lănh chúng tu
hành; thứ ba là số c̣n lại, hai công việc kể
trên đều chẳng làm được th́ làm công việc nội
hộ, tức là làm công việc hành chánh, làm công
việc hộ tŕ đạo tràng. Ba loại người này hợp tác
với nhau th́ đạo tràng này sẽ hưng vượng. Phật
pháp mới có thể hoằng dương khắp thế giới, làm
lợi ích cho xă hội đại chúng, vô lượng công đức
phải nhờ có ba nhóm người này hợp tác với
nhau.
g.
Khuyến tín, Khuyến nguyện. Tán thán lẫn
nhau.
Đến lúc giảng kinh buổi tối, pháp sư ở Niệm Phật
Đường phải khuyên mọi người nghe giảng kinh,
không thể nói: ‘Niệm Phật là đủ rồi, nghe giảng có ích ǵ?’
Câu này tuy chẳng sai nhưng là dùng để nói với
người như thế nào? Là để nói với những người thượng căn, trí
óc lanh lợi, v́ họ đều đă thông đạt hết rồi.
Ngoài ra c̣n dùng để nói với những người đầy đủ
thiện căn, phước đức, nhân duyên, v́ họ chẳng có
hoài nghi, công phu chẳng xen tạp, như vậy th́
được! Chỉ có hai loại người này được, nhưng hai
hạng người này rất hiếm có, nhiều lắm là chỉ có
một, hai người trong số một vạn người. Người
thường đều có căn tánh bậc trung, người căn tánh
bậc trung chẳng đủ tín tâm, nguyện tâm. Làm thế
nào tăng thêm tín tâm và nguyện tâm của họ? Bằng
cách nghe pháp. Thế nên nghe giảng kinh rất quan
trọng. Bạn hăy coi lúc đức Phật Thích Ca c̣n tại
thế, mỗi ngày trong suốt bốn mươi chín năm đều
giảng kinh, thuyết pháp, đức Phật Thích Ca chẳng
hề đả Phật thất, Thiền thất. Quư vị tra hết Đại
tạng kinh cũng chẳng t́m
ra!
Tại
sao đức Phật Thích Ca chẳng đề cập đến sự việc
trong ‘Hành Môn’? V́ chỉ cần bạn có đầy đủ tín,
đầy đủ nguyện, th́ tự ḿnh sẽ hành, đâu cần
người ta dạy? Thế nên sự cống hiến của cả đời
đức Phật là ‘Khuyến tín, khuyến nguyện’, nếu bạn
có tín, có nguyện th́ tự nhiên sẽ làm theo. Cho
nên nhất định phải khuyên người nghe pháp th́
mới chẳng phụ ḷng đức Phật Thích Ca đă thuyết
pháp suốt bốn mươi chín
năm.
Pháp
sư trong giảng đường nhất định phải khuyên thính
chúng đến Niệm Phật Đường niệm Phật. Tại sao
vậy? Chỉ nghe giảng kinh, nghe xong chẳng làm,
chẳng niệm Phật th́ không có ích lợi, chẳng thể
văng sanh. Đây là phải khen ngợi lẫn nhau, cổ
đức nói: 'Nếu muốn Phật pháp hưng vượng th́ chỉ
có cách Tăng khen ngợi Tăng'. Người xuất gia
khen ngợi, tán thán lẫn nhau th́ Phật pháp sẽ
hưng thịnh. Không những chúng ta khen ngợi người
của tông phái ḿnh, chúng ta cũng phải tán thán
người thuộc tông phái khác, tôi đă nói đạo lư
này rất nhiều lần rồi. Chúng ta phải có tâm
lượng xinh đẹp này, phải có sự nhận thức này, vô
lượng pháp môn đều là do Phật dạy, nếu bạn nói:
‘Pháp môn của tôi mới tốt, pháp môn kia chẳng
tốt’ th́ tôi hỏi có phải bạn đă phỉ báng Phật
chăng? Báng Phật là tội ǵ? Là tội đọa địa ngục
A Tỳ đấy! Nếu bạn nói: tôi niệm Phật rất tốt
[th́ tại sao lại đọa được?] Bạn niệm được rất
tốt là chuyện khác, tội báng Phật này bạn phải
gánh chịu; huống chi bạn đă phạm một giới nặng,
phạm Bồ Tát giới -- tự tán hủy tha -- tự tán
thán ḿnh và hủy báng người khác. Trong Du Già
Bồ Tát Giới Bổn, giới tự tán hủy tha (khen ḿnh
chê người)là giới nặng nhất, là sẽ đọa địa ngục
A Tỳ đấy. Bao nhiêu người tạo tội nghiệp này mà
chẳng biết! Tương lai đọa lạc th́ quá oan uổng!
Phạm Vơng kinh Giới Bổn chẳng liệt kê tội này
vào những tội nặng mà liệt vào hạng thứ nh́ [tức
thuộc bốn mươi tám giới khinh]. Trong Du Già Sư
Địa Luận Bồ Tát Giới Bổn, tội này là tội thứ
nhất -- chẳng được tự tán hủy tha. Thế nên chúng
ta phải tôn trọng, phải tán thán các pháp môn
khác!
Năm
1977 tôi giảng kinh ở Hương Cảng. Pháp sư Thánh
Nhất đến nghe tôi giảng suốt ba ngày. Lúc đó tôi
vốn chẳng quen biết thầy, sau khi ra về, thầy
khuyến khích tín đồ của thầy đến nghe tôi giảng
kinh; việc này rất hiếm có! Thầy là người học
thiền, tôi là người niệm Phật, [thầy] chẳng có
sự phân biệt môn hộ, rất đáng được tán thán!
Thầy c̣n mời tôi đến thiền đường của thầy để
giảng khai thị. Tôi đến chùa Bảo Liên trên núi
Đại Dự, lúc đó thầy c̣n trẻ tuổi, trong thiền
đường có hơn bốn mươi mấy người tham thiền, mỗi
ngày đều tọa hương, thầy mời tôi đến giảng khai
thị. Tôi không thể nói: ‘Học thiền không tốt,
niệm Phật mới tốt’. Thế nên tôi đến đó tán thán
thiền, hên là tôi cũng có chút đỉnh ‘khẩu đầu
thiền’, vẫn có thể ứng phó được. Hồi trước tôi
đă giảng ‘Lục Tổ Đàn Kinh’, ‘Vĩnh Gia Thiền Tông
Tập’, ‘Chứng Đạo Ca’, Tín Tâm Minh của Tam Tổ,
giáo nghĩa của Thiền Tông tôi đă giảng chẳng ít
cho nên cũng có chút đỉnh ‘khẩu đầu thiền’ nói
ra khuyến khích, tán thán họ. Tán thán Thánh
Nhất pháp sư, tán thán đạo tràng, tán thán đại
chúng; Tăng tán thán Tăng làm cho họ có thêm
ḷng tin đối với pháp môn này, càng tôn kính
pháp sư của họ, chúng ta phải giúp
họ.
Tôi
học phương pháp này ở đâu? Là do Chương Gia đại
sư dạy cho tôi; sau này tôi cũng thấy sự tán
thán lẫn nhau trong kinh Hoa Nghiêm. Thế nên từ
đó tôi và Thánh Nhất pháp sư trở thành bạn thân.
Tôi cũng là bạn cũ của pháp sư Diễn Bồi ở Tân
Gia Ba, thầy tu theo Di Lặc Tịnh Độ, tôi tu Di
Đà Tịnh Độ, chẳng giống nhau! Tôi đến Tây phương
Cực Lạc thế giới, thầy đến Đâu Suất Nội Viện.
Lúc thầy mời tôi thuyết giảng tôi chẳng thể nói:
‘Di Lặc Tịnh Độ tuy gần nhưng chẳng dễ đến!’,
không thể nói như vậy. Tôi không thể nào tán
thán ḿnh, không thể hủy báng thầy. Thầy ở tại
đó đă dạy học hơn hai mươi mấy năm, rất nhiều
người đều theo thầy học Di Lặc Tịnh Độ, chúng ta
chẳng thể phá hoại người khác. Cổ đức có nói:
'Thà chịu khuấy động nước trong ngàn sông nhưng
chẳng nên động tâm của người tu đạo’ (Ninh động
thiên giang thuỷ, bất động đạo nhân tâm). Thế
nên tôi đến đó tán thán Di Lặc Bồ Tát, tán thán
Di Lặc Tịnh Độ, một chữ về Di Đà Tịnh Độ cũng
chẳng nhắc đến, đây là lễ phép, là việc chúng ta
phải làm.
Khi đến một đạo tràng nào đó lại phê b́nh đạo
tràng, tự tán dương pháp môn mà ḿnh tu học, th́
đó là ngu si! Vừa nghe bạn liền biết người này
ngay cả thường thức, lễ tiết thông thường cũng
chẳng hiểu. Nhưng hiện nay người như vậy rất
nhiều, ngược lại người thông suốt, hiểu rơ th́
quá ít. [Nghe tôi] tán thán Thiền Tông, trên
đường từ núi Đại Dự ra về có đồng tu hỏi:
‘Thưa
Pháp sư, thiền hay như vậy tại sao thầy chẳng tu
thiền? Tại sao thầy lại niệm
Phật?’.
Tôi trả lời: ‘Căn cơ của tôi rất thấp! Thiền là
dành cho người thượng thượng căn, tôi là người
hạ hạ căn, chỉ niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh
Độ’.
Tôi
nói như vậy là lời nói chân thật. Chúng ta phải
học chư Phật, Bồ Tát ‘phải thường nâng cao người
khác, khiêm nhường hạ ḿnh xuống, tuyệt đối sẽ
có lợi ích – [lợi ích] là phá trừ ngă chấp, phá
trừ ngă
mạn’.
‘Ngă chấp và ngă mạn’ là những thứ làm người
tu hành như chúng ta mất mạng, là chất độc nguy
hiểm nhất’, Phật
dạy chúng ta dùng phương pháp này để phá trừ --
bất luận ở đâu chúng ta cũng phải hạ thấp ḿnh
xuống, luôn luôn nghĩ ḿnh chẳng bằng ai hết,
người nào cũng giỏi hơn ḿnh nhiều. Đây là sự
thật! Người nào cũng có sở trường của họ, tôi
chẳng sánh bằng. Nếu làm được như vậy th́ tâm
ḿnh sẽ yên ổn, tự nhiên sẽ hàng phục được thói
quen cống cao, ngă mạn, sẽ giúp rất nhiều cho
‘giải, hành’ của ḿnh.
h. Niệm niệm v́ Phật pháp, v́
chúng sanh.
Hy vọng các bạn đồng tu cùng nhau nỗ lực hết
ḷng học tập, đặc biệt là công việc nghiên cứu,
thâm nhập giáo lư, việc này hết sức quan trọng,
không thể sơ suất bỏ qua, phải tận tâm tận lực
để làm. Đặc biệt quư vị ở đây thiệt đúng là nhân
duyên hết sức tốt đẹp, cả đời người rất khó kiếm
được, đừng để quang âm ṃn mỏi, thời gian luống
trôi. Cùng nhau nỗ lực học tập không những có
thể làm gương mẫu cho đồng tu học Phật, cũng làm
tấm gương tốt cho xă hội đại chúng. Làm cho xă
hội đại chúng nh́n thấy người học Phật đều rất
hiền lương, giữ ǵn phép tắc, tuân giữ luật
pháp, các bạn sẽ được xă hội đại chúng tôn
trọng. Họ tôn trọng bạn tức là tôn trọng Phật
pháp, mến mộ bạn tức là mến mộ Phật pháp; Phật
pháp tự nhiên ở địa phương này, xă hội, quốc gia
này có thể phát triển, đây là công đức lớn lao
của các
bạn.
Nếu
chúng ta học Phật mà ngôn hạnh đều chẳng đúng
như pháp, xă hội mất cảm t́nh đối với chúng ta,
như vậy chẳng phải chỉ hại cá nhân của bạn mà
thôi, bạn đă tiêu hủy hết thảy tiền đồ của Phật
pháp. Người ta vừa nghe bạn là Phật giáo đồ --
Phật giáo đồ chẳng giữ luật lệ, Phật giáo đồ lộn
xộn -- như vậy có được không? [Nếu vậy] bạn đă
phá hoại h́nh tướng của Phật pháp. Thế nên chúng
ta học Phật phải làm gương mẫu cho xă hội đại
chúng, nhất định phải tuân giữ luật pháp. Hiện
nay việc mà người ta rất khó giữ là ‘tham lam
tiền tài’. V́ tham tài nên t́m đủ mọi cách trốn
thuế; chuyện này chẳng đúng như pháp, việc này
tuyệt đối là sai lầm. Quốc gia Úc này đang phải
trả nợ, kinh tế quốc gia rất khó khăn, chúng ta
đóng thuế là việc đương nhiên nên làm. Người học
Phật phải tu hạnh từ thiện, thường thường từ bi
cứu trợ, quốc gia này có khó khăn mà bạn không
giúp đỡ th́ chẳng nên. Trong kinh Phật dạy đệ tử
của Phật tuyệt đối chẳng trốn thuế, nếu bạn trốn
thuế th́ bạn đă vi phạm lời giáo huấn của
Phật.
Huống chi bạn học Phật, tương lai sẽ thành Phật,
pháp duyên độ chúng sanh của bạn phải rộng, phải
thịnh. Muốn pháp duyên hưng vượng th́ phải kết
duyên; hôm nay bạn đóng thuế là có duyên với
quốc gia này, kết duyên với quốc gia này; tại
sao chúng ta chẳng làm chuyện tốt này? Bạn có
duyên với chúng sanh, có duyên với khu vực, quốc
gia này th́ tương lai khi bạn thành Phật, làm Bồ
Tát bạn sẽ đến chỗ này dạy dỗ chúng sanh, pháp
duyên của bạn sẽ thù thắng! Thế nên niệm niệm
phải đừng nghĩ cho ḿnh, niệm niệm phải v́ xă
hội, v́ chúng sanh tức là v́ Phật pháp. Học Phật
phải bắt đầu từ đây, chi tiết quá nhiều nói
chẳng hết, hy vọng mọi người có thể nghe một
hiểu mười.
Ngày mai tôi sẽ nói sơ lược với quư vị về cương
lănh tu học của Tịnh Tông: Tam Phước, Lục Ḥa,
Tam Học, Lục Độ, Thập Nguyện. V́ thời gian rất
ngắn nên chỉ có thể giới thiệu đơn giản; lúc
trước tôi có giảng kỹ về Tịnh Nghiệp Tam Phước,
chúng ta nên nghe nhiều về đề tài này để biết rơ
ḿnh phải làm những ǵ trong đời sống hằng ngày.
Xin cám ơn quư
vị.
Dịch theo
bản in của Tịnh Tông Học Hội Los Angeles, tháng
03 năm 2001
[ Back
]
|