|
TỊNH NGHIỆP TAM PHƯỚC
Pháp Sư :
HT. Tịnh Không
Giảng
Tại Tịnh Tông Học Hội Úc
Châu năm 1997
Chư vị pháp sư, chư vị đại
đức đồng
tu:
Thời
gian trôi đi quá nhanh, hôm nay đă là ngày họp
mặt cuối cùng trong chuyến đi Úc Châu lần này,
hai ngày trước thực sự chúng tôi nói chưa hết
lời và cũng nói chưa hết những điều muốn căn
dặn, nhắc nhở; trong khoảng thời gian ngắn nội
dung của buổi nói chuyện chẳng nhiều, hy vọng
các bạn lắng ḷng thể hội, đi t́m cầu trong kinh
giáo. Mỗi chữ mỗi câu trong kinh Phật đều chứa
đựng vô lượng nghĩa, tùy theo tri kiến và kiến
giải của chúng sanh, lợi ích của mỗi người có
sâu cạn, rộng hẹp chẳng đồng. Nếu chúng ta thành
tâm đi t́m cầu, thể hội, phụng hành th́ mọi
người sẽ đạt được lợi ích thù thắng, đây là sự
gia tŕ của Tam Bảo cho chúng ta, người thế tục
thường nói là Phật, Bồ Tát pḥ hộ cho chúng ta,
là có ư nghĩa như vậy. Do đây có thể biết trong
Phật pháp chẳng có mê tín; lư luận, phương pháp
dạy chúng ta tu học như thế
nào.
a. Tịnh nghiệp chánh nhân của ba đời
chư Phật.
Sự
tu học Tịnh Tông, chúng tôi đặc biệt tuyển chọn
những lời khai thị trong kinh điển của Tịnh Tông
và tóm tắt thành năm khoa mục (Tam Phước, Lục
Ḥa, Tam Học, Lục Độ, Thập Nguyện) để làm nguyên
tắc cho sinh hoạt, việc làm, xử sự, đăi người,
tiếp vật trong suốt cuộc đời chúng ta. Chúng ta
phải tuân theo những nguyên tắc này th́ mới xứng
đáng làm đệ tử của Thế Tôn, làm học tṛ của đức
Phật A Di Đà. Khoa mục thứ nhất là ‘Tịnh Nghiệp
Tam Phước’ dạy trong kinh Quán Vô Lượng Thọ
Phật, v́ thời gian không đủ nên tôi chẳng thể
nói rơ, trong hội trường có một bộ băng cassette
ghi bài giảng lúc trước [các bạn có thể nghe
thêm]. Tam Phước hết sức quan trọng, trong phần
cuối của đoạn kinh này đức Thế Tôn đặc biệt nhấn
mạnh ba điều này là tịnh nghiệp chánh nhân của
ba đời chư
Phật.
Tầm
vóc của câu này hết sức quan trọng, ba đời chư
Phật là Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật tương
lai; những người tu hành thành Phật trong quá
khứ, hiện tại và tương lai chẳng biết bao nhiêu
mà tính! Dĩ nhiên họ tu hành thành Phật chẳng
phải chỉ dùng một phương pháp duy nhất v́ có vô
lượng pháp môn. Trong kinh Đại thừa thường nói:
'Pháp môn b́nh đẳng, chẳng có cao thấp', pháp
môn nào cũng có thể thành Phật, nhưng dựa trên
căn tánh của chúng sanh mà nói th́ sẽ khác nhau
– có người lợi căn, có người độn căn. Có pháp
môn khế cơ, có pháp môn chẳng khế cơ; khế cơ th́
thích hợp cho chúng ta tu học, chẳng khế cơ
nghĩa là đối với
đời sống hiện tại có nhiều chỗ chẳng thuận tiện.
Khế cơ th́ chúng ta tu học rất thuận lợi, rất dễ
dàng, nếu chẳng khế cơ th́ chúng ta cảm thấy rất
khó khăn, hễ cảm thấy khó khăn th́ chúng ta nên
bỏ và lựa chọn pháp môn nào thích hợp với ḿnh.
Việc này cũng giống như lựa chọn khoa hệ trong
trường học, khoa hệ nào mà chúng ta rất thích và
cũng có năng lực học theo th́ dễ rồi. Nếu lựa
chọn một khoa hệ chẳng hợp với ư thích của ḿnh
th́ học theo sẽ rất khó khăn. Cho nên vô lượng
pháp môn của Phật pháp giống như khoa hệ trong
trường học, đều để cho ḿnh tùy ư lựa chọn. Điều
kiện của sự lựa chọn là phải thích hợp với tŕnh
độ của ḿnh, ư thích của ḿnh, đời sống của
ḿnh, chẳng gây trở ngại cho đời sống và công ăn
việc làm của ḿnh, không những chẳng trở ngại mà
c̣n trợ giúp thêm th́ tu học theo sẽ rất dễ
dàng. Đây là những điều kiện chúng ta cần biết
rơ khi lựa chọn pháp
môn.
Đức
Phật dạy ba điều trong Tam phước là tịnh nghiệp
chánh nhân của hết thảy chư Phật, nói một cách
khác bất luận bạn tu học theo khoa hệ nào th́ ba
điều này là lớp chính ḿnh phải học; trong vô
lượng pháp môn ba điều này là khóa học mọi người
nhất định phải tu học, hết sức quan trọng. Giống
như xây một căn nhà, chẳng kể bạn xây theo kiểu
nào th́ đây là nền móng, nhất định phải xây nền
móng vững chắc, ổn định trước th́ căn nhà này
mới được hoàn hảo, chúng ta phải đặc biệt coi
trọng việc này.
b. Phật pháp là hiếu đạo
và sư đạo
Điều thứ nhất: ‘Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư
trưởng, từ tâm chẳng sát hại sanh vật, tu thập
thiện nghiệp’. Chúng ta nhất định phải làm cho
được điều này, nếu chúng ta thực sự làm được th́
chúng ta học Phật, nền móng để thành Phật đă
được xây dựng. Giả sử bạn chẳng làm được th́
Phật pháp mà bạn nghiên cứu sẽ trở thành những
ǵ người thế gian nói: Phật học – học Phật như
nghiên cứu một môn học, việc này đối với đời
sống, tu tŕ, thậm chí liễu sanh tử, vượt thoát
tam giới chẳng có liên quan chi hết! V́ vậy phải
hết ḷng làm cho bằng được. Phật pháp là hiếu
đạo, trong Giới kinh của Đại thừa giảng rất rơ,
từ hiếu thuận cha mẹ mở rộng đến hiếu thuận sư
trưởng, hiếu thuận hết thảy chúng sanh, phải có
tâm lượng như vậy. Thế nên chữ hiếu này có thể
nói đă bao gồm hết thảy toàn bộ Phật pháp. Hiếu
dưỡng cha mẹ, ‘hiếu’ là giác ngộ, tức là tự tánh
giác, giác ngộ xong rồi biểu hiện trong hành vi
sanh hoạt tức là
‘dưỡng’.
Mọi người đều biết văn tự Trung Quốc là một hệ
thống kư hiệu có trí huệ cao độ, khi chúng ta
nh́n phù hiệu này th́ liền hiểu rơ, việc này
thiệt rất phi thường. Kết cấu của văn tự Trung
Quốc có sáu nguyên tắc (lục thư), chữ hiếu là
viết theo nguyên tắc ‘hội ư’ – nh́n phù hiệu này
liền có thể hiểu được ư nghĩa trong đó. Phía
trên chữ Hiếu là chữ Lăo, phía dưới là chữ Tử
(con), hai chữ này ghép lại thành chữ Hiếu, ư
nghĩa của nó rất rơ ràng. Lăo là đời trước, đời trước c̣n có đời
trước nữa, quá khứ vô thỉ; Tử (con) là đời sau, đời sau c̣n
có thêm đời sau nữa, vị lai vô chung, vô thỉ vô
chung là một cái toàn thể, đây gọi là hiếu.
Người phương tây nói về ‘đại cấu’ (sự ngăn cách
giữa các thời đại), nếu có sự ngăn cách th́ chữ
hiếu này chẳng c̣n nữa. Người Âu tây thường hỏi
tôi: ‘Người Trung Quốc quư vị, tổ tông cả mấy
ngàn năm trước chưa hề gặp qua thế th́ tại sao
vào dịp tết, dịp lễ phải đi cúng họ?’. Đó là
hiếu đạo. Bạn nghĩ thử coi: tổ tông từ ngàn năm
về trước ḿnh c̣n kỷ niệm họ, vẫn chẳng quên họ,
cha mẹ hiện giờ làm sao có thể chẳng làm tṛn
đạo hiếu cho được? Thầy giáo thời xưa ḿnh c̣n
tôn trọng th́ đối với người thầy dạy ḿnh hiện
giờ làm sao chẳng tôn kính cho được? Sự giáo học
của nhà Nho và nhà Phật đều có căn bản từ điểm
này, đây là nền tảng. Cho nên phải hiểu chữ hiếu
này tức là Phật pháp, đặc biệt là trong kinh
điển Đại thừa gọi là ‘chân như pháp tánh’, tận
hư không, khắp pháp giới, phù hiệu này được dùng
để tượng trưng cho cả cái chỉnh thể này. Nếu
chúng ta có sự nhận thức như vậy th́ mới thực sự
thể hội được chữ
hiếu.
Sau
đó làm thế nào để thực hiện chữ ‘hiếu’ trong đời
sống sinh hoạt của ḿnh, trên phương diện làm
người, xử sự, đó tức là ‘dưỡng’; dưỡng là phụng
dưỡng, từ nghĩa hẹp mà nói tức là dưỡng thân của
cha mẹ. Cha mẹ sanh chúng ta, ân đức dưỡng dục
này rất lớn; khi cha mẹ lớn tuổi và về hưu,
chúng ta có nghĩa vụ săn sóc cho họ cũng giống
như lúc ḿnh c̣n nhỏ cha mẹ lo lắng, chăm sóc
cho ḿnh, chúng ta phải báo đáp, báo đền, đây là
một chuyện hết sức tự nhiên. Đây là dưỡng thân
thể của cha mẹ, [làm được việc này] có kể là
đă làm tṛn đạo
hiếu chưa? Chưa tṛn. Quư vị phải biết trong
loài cầm thú con quạ cũng biết dưỡng thân của
cha mẹ; quạ con biết đút đồ ăn cho quạ già, nó
cũng biết nuôi dưỡng cha mẹ vậy! Nếu người chẳng
biết nuôi cha mẹ ḿnh th́ cả cầm thú cũng chẳng
bằng! Thế nên dưỡng thân của cha mẹ cũng chưa
làm tṛn đạo hiếu. Cha mẹ hy vọng con cái như
thế nào? Chúng ta có làm thỏa măn nguyện vọng
của cha mẹ chăng, việc này rất quan
trọng!
Thời xưa có sự dạy dỗ của cổ thánh tiên hiền,
cha mẹ không kỳ vọng con cái thăng quan phát
tài, chẳng giống với quan niệm của người thời
nay, đều hy vọng con cái có thể làm thánh làm
hiền, có đạo đức, có học vấn, có cống hiến đối
với xă hội đại chúng. Thế nên lập công, lập đức,
lập ngôn là làm rạng danh cha mẹ, làm cho cha mẹ
hănh diện, mới được xă hội đại chúng tôn kính.
Chúng ta đă làm tṛn được chưa? Có phụ ḷng cha
mẹ kỳ vọng nơi ḿnh hay
không?
Sau
khi học Phật th́ kỳ vọng của cha mẹ sẽ khác lúc
trước, làm thánh làm hiền vẫn chưa đủ, c̣n phải
làm ǵ? Làm Bồ Tát, làm Phật! Nếu bạn làm Bồ Tát
th́ họ là cha mẹ của Bồ Tát; nếu bạn thành Phật
th́ họ làm cha mẹ của Phật; làm cha mẹ của thánh
hiền và làm cha mẹ của Phật, Bồ Tát là hai
chuyện khác nhau. Nếu chúng ta làm Phật, Bồ Tát
chẳng nổi th́ chữ hiếu này chưa đạt đến viên
măn, vẫn c̣n khiếm khuyết, phải biết chuyện này.
Người như thế nào mới làm tṛn chữ hiếu? Thành
Phật th́ chữ hiếu viên măn nhất. Đẳng Giác Bồ
Tát c̣n thua một bậc, họ c̣n một phẩm Sanh Tướng
vô minh chưa phá th́ đạo hiếu của họ cũng chưa
viên măn; từ đây có thể biết Tam Phước là cơ sở
chân thực.
Nếu bạn thực sự đă học Phật, khi bạn khởi tâm
động niệm, ngôn ngữ tạo tác liền lập tức phải
nghĩ đến ‘hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư
trưởng’. Thầy giáo và cha mẹ kỳ vọng chúng ta
những ǵ? Chúng ta đă làm được hay chưa? Trong
kinh thường nói: ‘Phật, Bồ Tát là tấm gương tốt
nhất cho hết thảy chúng sanh trong chín pháp
giới.’ Trong xă hội này chúng ta có thể làm
gương mẫu, làm người dẫn đầu cho xă hội đại
chúng hay không? Tư tưởng, lời nói, hành động
của chúng ta có ảnh hưởng ǵ đối với xă hội đại
chúng? Nếu là ảnh hưởng xấu th́ tuyệt đối đừng
làm. Nếu chẳng thâm nhập kinh điển Đại thừa th́
bạn không biết ‘hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư
trưởng’ trong đời sống phải bằt đầu từ đâu.
Chúng ta nêu ra một thí dụ đơn giản: trong nhà
có nhiều anh chị em, làm con nếu anh em chẳng
ḥa hợp th́ cha mẹ phải lo lắng, buồn rầu, như
vậy tức là bất hiếu! Con cái trưởng thành ai
cũng thành gia lập nghiệp, cưới vợ sanh con, chị
em dâu bất ḥa, cha mẹ phải bận tâm, đó cũng là
bất hiếu! Lúc c̣n nhỏ đi học chẳng siêng năng
làm cha mẹ phải bận tâm là bất hiếu! Trong
trường không nghe lời thầy, mỗi ngày đều đánh
lộn, phá phách cũng là bất
hiếu!
Thế
nên chư vị nghĩ xem, chữ hiếu này bao trùm hết
thảy Phật pháp, hết thảy pháp của Thế Tôn nói
suốt bốn mươi chín năm chỉ là để giảng rơ chữ hiếu mà thôi.
Khi chúng ta khởi tâm động niệm, xử sự, đăi
người, tiếp vật đều phải làm theo những lời đức
Phật dạy trong kinh điển. Phật dạy chúng ta làm
thế nào, chúng ta nhất định phải làm cho bằng
được; những ǵ Phật chẳng cho chúng ta làm th́
chúng ta tuyệt đối không làm, được vậy th́ bạn
mới làm tṛn đạo hiếu, mới kể là thực sự làm
được ‘phụng sự sư trưởng’. Sư trưởng chẳng dạy
bạn mỗi ngày phải cung kính họ, cúng dường họ;
chẳng phải vậy, bạn phải hết ḷng làm theo lời
dạy của sư trưởng. Thế nên Phật pháp là hiếu đạo
và sư đạo: thầy dạy bạn phải làm sao để tṛn đạo
hiếu, cha mẹ dạy bạn phụng tŕ thầy giáo như thế
nào, sự giáo dục của hai bên hỗ trợ lẫn nhau th́
bạn mới thành tựu, đây là cội gốc của căn bản.
Học Phật phải bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ Tịnh
nghiệp Tam
phước.
Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện dạy rơ về hiếu
đạo, trong nhà Phật kinh này thường được xưng là
‘Hiếu Kinh’. Lúc mỗi đạo tràng mới thành lập, bộ
kinh đầu tiên tôi giảng nhất định phải là kinh
Địa Tạng. Khi chúng ta có một miếng đất th́ mới
có thể phát triển, mới có thể làm việc. Đất đai
có rồi nhưng quan trọng hơn vẫn là tâm địa, dùng
lời nói hiện nay tức là xây dựng tâm lư, kinh
Địa Tạng giúp chúng ta xây dựng tâm lư. Từ mảnh
đất này liên tưởng đến tâm địa của ḿnh, tâm địa
phải chân thành, thanh tịnh, b́nh đẳng, từ bi.
Cả bộ kinh Địa Tạng thực ra là giảng bốn câu
này: ‘Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ
tâm chẳng sát hại, tu thập thiện nghiệp’, các
bạn hăy coi
kỹ.
Phật
giáo Đại thừa ở Trung Quốc rất có đạo lư, là trí
huệ cao độ, dùng bốn đại Bồ Tát để tiêu biểu và
tượng trưng cho sự tu học Phật pháp. Vị thứ nhất
là Địa Tạng Bồ Tát, thứ hai là Quán Thế Âm Bồ
Tát; Quán Thế Âm Bồ Tát tượng trưng cho đạo hiếu
mở rộng ra tức là đại từ đại bi, phát huy đạo hiếu đến có
thể hiếu thuận hết thảy chúng sanh. Nếu lúc
chúng ta giao thiệp với người khác vẫn c̣n tự tư
tự lợi, vẫn làm một số việc lợi ḿnh, hại người,
tức là chẳng hiếu, là chẳng kính trọng thầy
giáo! Như vậy th́ chúng ta đâu có học Phật?
Người học Phật đối với ai cũng đều chân thành,
người nào gạt gẫm ḿnh, ḿnh đối với họ vẫn phải
chân thành, được vậy mới đáng gọi là người học
Phật.
Trong số những pháp sư thế hệ trước, có một thời
gian tôi có dịp tiếp xúc và hợp tác với Đạo An
lăo pháp sư. Thầy mở lớp Phật học Đại Chuyên và
mời tôi làm tổng chủ giảng, chúng tôi hợp tác
với nhau hết ba, bốn năm. Thầy làm cho tôi khâm
phục, thầy chẳng có tâm riêng tư, chẳng có đố
kỵ, việc này rất hiếm và quư báu! Lúc tôi giảng,
có khoảng chừng hơn bốn trăm học sinh đến nghe;
lúc lăo pháp sư giảng th́ chỉ c̣n từ ba đến bốn
mươi học sinh. T́nh trạng này rất khó coi, thầy
chẳng phiền ḷng nhưng tôi cảm thấy rất khó
chịu. Lớp của tôi được xếp vào buổi sáng, lớp
của thầy buổi chiều; học sinh buổi sáng học
xong, ăn xong th́ đều ra về, buổi chiều chẳng
c̣n bao nhiêu người đến lớp của thầy. Thế nên
tôi đề nghị: ‘Chúng ta thay đổi lớp học ngược
lại xem sao, thầy dạy lớp buổi sáng, tôi dạy lớp
buổi chiều’. Sau khi thay đổi th́ lớp buổi sáng
của thầy học tṛ chẳng chịu đến, lớp buổi chiều
th́ học sinh lại đến đầy chỗ ngồi, thiệt là
chẳng có cách nào khác! Tuy vậy nhưng lăo pháp
sư trước sau cũng chẳng phiền hà ǵ hết, có thể
làm được như vậy rất khó, chẳng dễ
đâu!
Có
một hôm tôi đi thăm thầy, lúc đó có một người từ
pḥng của thầy đi ra. Thầy hỏi tôi: ‘Người đó
[vừa bước ra], thầy có gặp
chăng?’
Tôi nói: ‘Gặp rồi, vừa đi
khỏi’.
Thầy nói: ‘Hôm nay ổng cũng đến gạt tôi’. Ông đó
rất thường gạt tiền của thầy, hôm nay cũng lại
gạt tiền.
Tôi nói: ‘Thế th́ thầy có cho ổng hay
không?’
‘Tôi đưa
rồi’.
Thiệt là phi thường! Người đến gạt lăo pháp sư
cứ nghĩ rằng lăo pháp sư chẳng biết ḿnh bị gạt,
đâu ngờ là lăo pháp sư đă biết rơ ràng. Biết rơ
họ gạt ḿnh mà vẫn để cho họ gạt; thiệt là phi
thường! Trong những lăo pháp sư đời trước tôi
chỉ gặp được một người như thầy, tôi rất khâm
phục, thầy chẳng hồ đồ, chẳng mê hoặc điên đảo
chi cả, đây là việc chúng ta phải nên học tập.
Thầy đă làm một gương tốt cho chúng
ta.
Điều
thứ hai trong Tam
Phước:
‘Thọ tŕ Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm
oai nghi’.
Từ đây có thể biết điều kiện cơ bản của ‘Thọ tŕ
Tam Quy’ tức là phước thứ nhất làm xong th́ mới
có tư cách tiếp nhận sự dạy dỗ của Phật. Tại sao
ngày nay Phật pháp suy thoái như vậy? Là v́ mọi
người thọ tŕ Tam Quy nhưng điều thứ nhất [nói
phía trước] chẳng làm được nên thọ Tam Quy đều
là giả, chẳng phải thật – trên h́nh thức thọ Tam
Quy, nhưng trên thực tế th́ chẳng thọ. Hỏi bạn
thọ Tam Quy rồi, quy từ đâu? Chẳng biết. Hỏi bạn
y những ǵ? Cũng chẳng biết. Thọ tŕ một cách hồ
đồ như vậy là sai lầm! Tôi đă giảng ‘Tam Quy’ kỹ
càng ở Tân Gia Ba, h́nh như năm ngoái đă giảng
thêm một lần ở tại bờ biển Hoàng Kim, có lưu lại
băng thâu âm, băng thâu h́nh. Hai lần diễn giảng
này đă được chép lại thành một cuốn sách nhỏ, đă
in ở Đài Loan, chư vị muốn thọ Tam Quy nhất định
phải nghe kỹ hai lần giảng này; sau đó chúng ta
ở trước mặt Phật, Bồ Tát làm nghi thức đơn giản
nhưng long trọng, mời Tam Bảo chứng minh cho
chúng ta; chúng ta thực sự phát nguyện quy y Tam
Bảo.
c. Tam Quy trong
Tịnh Tông: A Di Đà Phật, kinh Vô Lượng Thọ, Bồ
Tát Quán Âm và Thế Chí.
Quy y Tam Bảo nghĩa là từ hôm nay trở đi tôi
phát nguyện chánh thức làm một học tṛ của đức
Phật, tôn Phật làm thầy. Bạn phát nguyện tôn
Phật làm thầy, chúng sanh trong chín pháp giới
kể cả những thiên thần nh́n thấy bạn đều tôn
kính bạn. Bạn là học tṛ của Phật, chẳng phải là
người thường, đặc biệt nếu bạn là học tṛ của A
Di Đà Phật th́ càng tôn quư hơn, hết thảy chư
Phật Như Lai đều đặc biệt tiếp đăi bạn, là nể
Phật A Di Đà đấy.
Nhưng bạn phải thiệt là học tṛ của A Di Đà Phật
mới được, nếu là giả mạo th́ bạn chẳng đáng một
xu. Tuy Phật, Bồ Tát chẳng trách bạn nhưng thần
hộ pháp sẽ khiến bạn bị rắc rối. Thần hộ pháp là
cảnh sát, là người chấp hành pháp luật, họ đối
với bạn chẳng khách sáo ǵ cả, nếu bạn giả mạo
làm đệ tử Phật th́ bạn đă phạm pháp
rồi.
Tôi
đặc biệt kết hợp sự quy y của đồng tu chúng ta
với giáo giới của Tịnh Tông. Chúng ta quy y Phật
th́ tôn A Di Đà Phật làm thầy, quy y Pháp th́
lấy kinh Vô Lượng Thọ làm nền tảng, đây là kinh
số một của Tịnh Tông. Những lời dạy của đức Phật
trong kinh chúng ta phải hiểu rơ, nhận thức, nhớ
nằm ḷng, và phải thực hiện những lời này trong
đời sống. Chúng ta hy vọng cách dụng tâm của
ḿnh giống như đức Phật A Di Đà; chúng ta phát
nguyện cũng phải giống nguyện của đức Phật A Di
Đà, mỗi nguyện trong bốn mươi tám lời nguyện của
đức Phật A Di Đà đều nhằm đem lại lợi ích cho chúng
sanh, đều chẳng v́ ḿnh. Đức Phật A Di Đà dạy
chúng ta phải sửa đổi hết thảy tập khí phiền năo
từ vô lượng kiếp đến nay. Một đoạn rất dài từ
phẩm ba mươi hai đến phẩm ba mươi bảy [trong
kinh Vô Lượng Thọ] dạy về vấn đề này. Trong đó
là những lời giải thích hết sức cụ thể của ngũ
giới và thập thiện, chúng ta phải biết làm thế
nào y giáo phụng hành, làm theo lời dạy của
Phật; thực sự nương tựa th́ sẽ được lợi ích!
Tăng bảo th́ chúng ta học theo Quán Thế Âm Bồ
Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát -- Bồ Tát Tăng. Hai vị
đại Bồ Tát này tượng trưng cho những ǵ?
Quán Thế
Âm Bồ Tát đại từ đại bi, nói theo hiện nay th́
từ bi nghĩa là quan tâm, thương mến, và giúp đỡ,
trong đó hoàn toàn chẳng có điều kiện ǵ hết th́
gọi là đại. Đối
với hết thảy người, hết thảy chúng sanh, chúng
ta phải quan tâm, thương mến họ. Khi họ gặp khó
khăn th́ phải giúp đỡ họ, đây tức là Quán Âm.
Nếu bạn thường giữ tâm niệm này để đối người,
tiếp vật th́ bạn tức là Quán Thế Âm Bồ
Tát.
Đại
Thế Chí Bồ Tát tượng trưng cho trí huệ cao độ;
tuyệt đối chẳng dùng t́nh cảm để xử sự, đăi
người, tiếp vật, dùng lư trí mà chẳng dùng cảm
t́nh tức là Đại Thế Chí Bồ Tát. Đại từ đại bi
lấy trí huệ làm cơ sở, chẳng dùng cảm t́nh. Dùng
cảm t́nh th́ có thể có nhiều rắc rối nên phải
dùng lư trí để phán đoán. Ư nghĩa của việc quy y
Tam Bảo là như vậy, đây mới thiệt là chỗ quay
về, nương tựa của chúng ta. Cho nên Tam Bảo
trong Tịnh Tông được thể hiện qua ‘A Di Đà Phật,
kinh Vô Lượng Thọ, Quán Âm và Thế Chí Bồ Tát’.
Nếu phàm phu chúng ta chẳng có nơi nương tựa th́
sẽ cảm thấy trống rỗng, thiếu thốn; khi bạn hiểu
được những đạo lư và phương pháp này th́ bạn đă
kiếm được chỗ nương tựa. Từ mê hoặc, điên đảo,
sai lầm quay lại nương tựa vào Tam Bảo th́ bạn
mới thực sự quy y.
d. Giữ phép tắc, làm
gương mẫu cho chúng sanh. Học chịu thiệt tḥi,
không v́ cá nhân ḿnh.
‘Đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi’. Dùng
cách nói hiện nay th́ hai câu này nghĩa là ‘giữ
ǵn phép tắc’; không những phải giữ phép tắc mà
c̣n phải làm gương mẫu cho xă hội đại chúng.
Chúng ta không được làm trái ngược lời dạy của
đức Phật, phải tuân theo. Hiến chương, luật pháp
của quốc gia, phong tục tập quán ở địa phương
chúng ta đều phải tuân giữ; được vậy mới có thể
ḥa đồng với đại chúng, mới có thể cảm hóa hết
thảy chúng sanh. Cho nên lúc chúng ta khởi tâm
động niệm, hết thảy các hành động phải thường
suy nghĩ coi có thể làm gương mẫu cho xă hội đại
chúng hay
không.
Hôm
qua tôi nêu lên một thí dụ: ngày nay tâm tham
của người ta rất nặng, bất luận làm ngành nghề
nào cũng đều kiếm đủ mọi cách để đóng thuế ít
hơn. Đây có phải là việc chúng ta nên làm hay
không? Không phải. Chúng ta là đệ tử Phật, phải giữ phép tắc,
chúng ta có nghĩa vụ phải đóng thuế, nếu t́m đủ
mọi cách, t́m lỗ hổng của pháp luật để đóng thuế
ít một chút th́ chúng ta chẳng c̣n là đệ tử Phật nữa, chúng
ta không tuân giữ luật pháp. Trong đời sống hằng
ngày chúng ta có thể tùy tiện khạc nhổ bừa băi
trên đường phố hay không? Có thể tùy tiện xả rác
hay chăng? Nếu chúng ta làm vậy th́ có thể làm
gương mẫu cho xă hội đại chúng hay không? Nếu
bạn có những sự cảnh giác như vậy th́ đó tức là
quy y, bạn đă quay lại, bạn đă giác ngộ -- những
hành động không tốt này sẽ ảnh hưởng đến xă hội,
chúng ta nhất quyết chẳng
làm.
Chúng
ta chân thành với người, tuyệt đối chẳng lừa gạt
bất cứ người nào, khi chúng ta bị thiệt tḥi, bị
gạt gẫm cũng chẳng so đo, giống như Đạo An lăo
ḥa thượng biết rơ bị người gạt nhưng vẫn để cho
họ gạt, và chẳng nói một lời, trong ḷng ḿnh
tâm an lư đắc. Tại sao người đó gạt ḿnh mà
chẳng gạt người khác? Bạn hăy suy nghĩ đạo lư
này. Nếu họ gạt ḿnh và ḿnh có năng lực cho
người đó th́ ḿnh hăy bố thí cho họ, làm một
việc thiện. Ngay trong cảnh giới, trong hoàn
cảnh này mài dũa hết tham, sân, si, mạn, nghi.
Nếu bạn chẳng có những cảnh giới này th́ bạn tu
cái ǵ? Đây tức là tu hành, đây tức là công phu!
Rơ ràng minh bạch, là trí huệ đấy! Tu hành phải
tu ở đâu? Tu ngay tại chỗ này. Một chút thiệt
tḥi cũng chẳng chịu làm th́ bạn tu hành cái ǵ?
Một chút thua thiệt cũng chẳng chịu, nói thực ra
là bạn có phân biệt, chấp trước quá cứng chắc.
Nếu không thể phá trừ những thứ này th́ bất luận
tu học pháp môn nào, tu được giỏi cách mấy, nói
với các bạn biết đó đều là tu thế gian pháp, đều
vẫn kẹt trong lục đạo luân
hồi.
e. Giác là Phật pháp, mê không là Phật
pháp.
Đại thừa Phật pháp đặc biệt trong Tông Môn,
thường thường dùng câu: ‘Pháp nào là Phật pháp?’
để thẩm vấn người sơ học. Các bạn nghĩ thử coi,
pháp nào là Phật pháp? Và hỏi ngược lại: ‘Pháp
nào chẳng là Phật pháp?’ Sự khác biệt giữa Phật
pháp và chẳng phải Phật pháp ở đâu, bạn phải
hiểu rơ. Giác ngộ rồi th́ hết thảy pháp đều là
Phật pháp; chưa giác ngộ th́ hết thảy pháp đều
chẳng là Phật pháp. Khi bạn chưa giác ngộ, vẫn
c̣n mê hoặc điên đảo, hỏi bạn thêm lần nữa:
‘pháp nào là Phật pháp?’ Chẳng pháp nào là Phật
pháp cả. Kinh Đại Phương Quảng Hoa Nghiêm cũng
chẳng phải là Phật pháp. Một ngày bạn niệm mười
vạn câu Phật hiệu, th́ như lời Liên Tŕ, Ngẫu
Ích đại sư nói cho dù công phu niệm Phật của bạn
có giỏi hơn nữa, niệm đến mức ‘gió thổi chẳng
động, mưa rơi chẳng thấm’, sau đó phê b́nh bạn:
‘hét bể cổ họng cũng uổng công’. Tại sao vậy?
Chẳng thể văng sanh, vẫn kẹt trong lục đạo luân
hồi. V́ vậy nếu chẳng giác ngộ, một ngày niệm
mười vạn tiếng Phật hiệu cũng chẳng là Phật
pháp, quư vị phải hiểu đạo lư
này.
Phật
pháp thay đổi quan niệm, cách suy nghĩ của chúng
ta. Khi khởi tâm động niệm đều nghĩ cho ḿnh,
như vậy là sai lầm, đó chẳng là Phật pháp; khởi
tâm động niệm đều nghĩ đến hết thảy chúng sanh,
nghĩ đến sự an toàn của cả xă hội th́ hết thảy
pháp đều là Phật pháp. Tôi thường nói những việc
mà bạn làm hằng ngày như uống nước, mặc áo, ăn
cơm chẳng có thứ nào không là Phật pháp. Bạn
giác ngộ chưa? Người giác ngộ sẽ v́ hết thảy
chúng sanh, người mê chỉ v́ cá nhân ḿnh, mê và
ngộ khác nhau tại chỗ này. Lúc khởi tâm động
niệm c̣n v́ ḿnh th́ không được. Tại sao không
được? Phật nói: 'Hết thảy chúng sanh vốn thành
Phật'. Tại sao bây giờ bạn biến thành chúng
sanh? Tại sao bây giờ bạn c̣n trong lục đạo luân
hồi? Phật dạy chúng ta: lục đạo là do chấp trước
hiện thành; thập pháp giới là do phân biệt hiện
thành. Nói cách khác nếu bạn có thể phá trừ chấp
trước, lục đạo sẽ chẳng c̣n nữa, bạn sẽ vượt ra
khỏi tam giới; nếu bạn phá trừ phân biệt, bạn sẽ
vượt thoát thập pháp giới và đến Nhất Chân pháp giới. Nhất
Chân pháp giới là Hoa Tạng thế giới trong kinh
Hoa Nghiêm, là cảnh giới của Tỳ Lô Giá Na Phật.
(Tây phương Cực Lạc thế giới cũng là Nhất Chân
pháp giới). V́ vậy khi khởi tâm động niệm mà c̣n
một cái ‘TA’ th́ ngă chấp của bạn làm sao có thể
phá trừ
được?
‘Cách phá ngă chấp’ trong Đại thừa cao minh hơn
Tiểu thừa. Trong pháp Đại thừa Phật dạy chúng ta
khi khởi tâm động niệm đều v́ chúng sanh, đừng
nghĩ cho cá nhân ḿnh, lâu dần biến thành thói
quen, niệm niệm đều v́ chúng sanh, đem ích lợi
cho chúng sanh, v́ chúng sanh tạo phước, quên
mất ḿnh. Phương pháp này đích thật là rất tốt,
chẳng nghĩ đến ḿnh, chỉ nghĩ cho người khác.
Dần dần không hay không biết th́ ngă chấp sẽ
biến mất hết. Nói một cách khác không hay không
biết bạn bèn vượt thoát tam giới, lục đạo.
Phương pháp này vô cùng kỳ diệu! Thêm phần bạn
nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ th́ làm sao
chẳng nhanh chóng được? Thành Phật rất nhanh
chóng! Thành Phật tức là thành tựu trí huệ, đức
năng viên măn, nhất định phải hiểu đạo lư này,
nhất định phải hiểu phương pháp. Hiểu đạo lư
rồi, biết phương pháp rồi, vấn đề sau đó là ḿnh
phải nỗ lực thực hành. Đây đích thật là con
đường thành Phật nhanh chóng
vậy!
Nếu
bạn hỏi: ‘Trong xă hội ngày nay làm theo cách
này th́ chỗ nào tôi cũng chịu thiệt tḥi, bị gạt
rồi sao? Người ta ai cũng v́ ḿnh, nhưng tôi lại
v́ họ, họ lại chẳng chịu v́ tôi, làm sao tôi
phải làm việc khờ dại này!’ Nếu bạn nghĩ như vậy
th́ bạn mới thiệt là ngu si, chẳng phải người
khác ngu; nếu bạn chịu làm th́ bạn sẽ được đại
tự tại! Bạn thực sự có thể đạt được những quả
báo mà Phật nói trong kinh. Phải tin Phật, phải
mạnh dạn làm, tôi nói những lời này với mọi
người khẳng định chắc chắn như đinh đóng cột,
chẳng có một tơ hào hoài nghi ǵ hết. Tại sao
vậy? V́ tôi đă làm được rồi. Những ǵ Phật nói
trong kinh, những ǵ thầy tôi dạy cho tôi, trong
ṿng mấy chục năm nay những ǵ tôi làm bây giờ
đă có kết quả, hiện nay tôi đạt được những ǵ?
Được đại tự tại. Tôi thường nói: ‘Trên thế giới
này tôi sung sướng
nhất’.
Nếu
bạn hỏi: ‘Sung sướng ở chỗ
nào?’
‘Trong tâm tôi chẳng có lo lắng, âu sầu, phiền
năo, th́ làm sao chẳng sung sướng, chẳng tự tại
được? Trong tâm của các bạn có lo âu, nhớ nhung,
phiền năo th́ dù bạn có nhiều tiền, có địa vị
cao, bạn cũng chẳng tự tại. Bạn sinh sống rất
khổ sở, tôi sinh sống rất thong dong, rất vui
sướng, rất tự tại’. Cho nên những ǵ đức Phật
nói trong kinh câu nào cũng chân thật, chẳng có
câu nào giả dối, tại sao bạn chẳng chịu làm? Tại
sao lại hoài nghi? Chẳng chịu làm là v́ chẳng
giác. Dùng một thuật ngữ trong Phật pháp [th́
đây] là nghiệp chướng sâu nặng! Nghiệp chướng
nặng phải tự ḿnh tiêu trừ, người khác chẳng có
cách chi tiêu trừ dùm bạn, Phật, Bồ Tát cũng
chẳng có cách ǵ hết. Phật, Bồ Tát chỉ có thể
nói rơ những lư luận và phương pháp này cho bạn
biết, bạn phải tự ḿnh giải quyết vấn đề của
bạn.
f. Tin sâu nhân quả -- Niệm Phật là
nhân, thành Phật là quả.
Từ
Tam Quy nâng cao đến phước thứ ba tức là cơ sở
tu học của Đại thừa Bồ Tát: ‘Phát Bồ Đề tâm, đọc
tụng Đại thừa, tin sâu nhân quả, khuyến tấn hành
giả’.
Bồ
Tát Đại thừa chẳng những tự độ ḿnh mà c̣n giúp
đỡ người khác, cho nên ‘khuyến tấn hành giả’
nghĩa là chủ động giúp đỡ người khác. Tin sâu
nhân quả nói ở đây chẳng phải là nhân quả thông
thường. 'Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả’
đặc biệt nhấn mạnh trên nhân quả ‘niệm Phật
thành Phật'. Chúng ta có thể t́m được rất nhiều
chứng minh trong các kinh điển Đại thừa, kinh
Hoa Nghiêm là thí dụ rơ ràng nhất cho việc niệm
Phật thành Phật. Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Lăng Già
cũng chẳng ngoại lệ, quư vị hăy quán sát kỹ
càng. Hết thảy kinh Đại thừa đều nói niệm Phật
thành Phật, đây là cơ sở học Phật của chúng ta!
Chúng ta phải dụng công từ đây, bắt đầu học từ
đây.
g. Năm khoa mục của Tịnh Tông : Tam
Phước, Lục Ḥa, Tam Học, Lục Độ, Thập
Nguyện.
Hiện nay chúng ta chưa thành Phật, chưa thành Bồ
Tát, chưa văng sanh, thân thể này vẫn c̣n trụ
trên thế gian, mỗi ngày phải tiếp xúc với đại
chúng, chúng ta dùng thái độ ǵ để đối phó với
những chuyện hiện thực trong xă hội, Phật dạy
chúng ta sáu nguyên tắc gọi là ‘Lục Ḥa Kính’.
Lần này cư sĩ Lâm đem vài bộ [liễn, ghi chép]
Lục Ḥa Kính ở Đài Loan về đây, hy vọng đem đóng
khung [treo lên] để chúng ta thường nh́n thấy và
cảnh giác ḿnh. ‘Kiến ḥa đồng giải, Giới ḥa
đồng tu’. Nói theo hiện nay ‘kiến ḥa đồng giải’
tức là ‘xây dựng kiến thức chung’, chúng ta có
chung nhận thức, chung lư tưởng, mục tiêu th́ có
thể sinh hoạt chung với nhau, ḥa đồng khi tiếp
xúc lẫn nhau, đối xử ḥa mục với nhau; ‘Giới ḥa
đồng tu’ nghĩa là tuân giữ luật pháp; nhà có quy
tắc trong nhà, nước có pháp luật quốc gia, đạo
tràng có quy củ của đạo tràng, mọi người đều
phải tuân theo. ‘Thân ḥa đồng trụ, khẩu ḥa vô
tránh, ư ḥa đồng duyệt, lợi ḥa đồng quân’
[thân ḥa đồng trụ: cùng nhau làm việc, sanh
hoạt ḥa đồng; khẩu ḥa vô tránh: chẳng tranh
chấp, căi cọ; ư ḥa đồng duyệt: cùng chung chí
hướng; lợi ḥa đồng quân: cùng chia xẻ tài vật
đồng đều với nhau]. Phật dạy chúng ta ‘Lục ḥa
kính’, chúng ta phải tuân theo sáu nguyên tắc
này khi tiếp xúc, sinh hoạt với đại chúng trong
xă hội.
Tam Phước là cơ sở tu học của mỗi người. Lục Ḥa
Kính là nguyên tắc căn bản khi chúng ta tiếp xúc
với đại chúng. Nếu chúng ta có thể làm được th́
trên thế giới này bất luận bạn ở quốc gia nào,
địa phương nào, bất luận trong xă hội nào, bạn
sẽ chẳng thiệt tḥi ǵ hết, đi đâu cũng được mọi
người tôn kính, hoan nghinh, lợi ích này thiệt
là chẳng thể nghĩ bàn! Phải dốc sức thực hành,
làm hết ḷng; từ cơ sở này không ngừng tiến lên,
nâng cao cảnh giới của ḿnh, bạn nhất định phải
tuân theo Tam Học, Lục Độ, Thập Nguyện. Tam Học
tức là Giới, Định, Huệ. Trong đề kinh ‘Thanh
Tịnh B́nh Đẳng Giác’ của kinh Vô Lượng Thọ,
Thanh tịnh là Giới Học, B́nh đẳng là Định Học,
Giác là Huệ Học. Tam Học đầy đủ trong đề kinh
này; Chẳng những Tam Học đầy đủ, Tam Bảo cũng
đầy đủ, Thanh tịnh là Tăng Bảo, B́nh đẳng là
Pháp Bảo, Giác là Phật Bảo. Từ đây có thể biết
kinh Vô Lượng Thọ thiệt là chẳng thể nghĩ bàn,
hy vọng các vị đồng tu hết ḷng nỗ lực, đời này
chúng ta sẽ chẳng luống uổng, đây là nhân duyên
khó gặp từ vô lượng kiếp đến nay, đời này gặp
được th́ chúng ta phải trân trọng, nắm chắc,
nhất định sẽ thành tựu. Lời tôi nói đến đây đă
hết.
Dịch theo
bản in của Tịnh Tông Học Hội Los Angeles, tháng
03 năm 2001
[ Back
]
|