Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, ḷng từ bi không giết hại, tu thập thiện nghiệp.
Thọ tŕ tam quy, giữ vẹn các giới, chẳng phạm oai
nghi.
Phát Bồ-đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh đại thừa, khuyến tấn người tu hành.
Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật
gọi là Tịnh Nghiệp Tam Phước, ba thứ tịnh nghiệp
này là Tam Thế Chư Phật Tịnh Nghiệp Chánh Nhân,
câu này vô cùng quan trọng, khiến cho chúng ta
hiểu rơ ba
đời tất cả chư Phật tu hành chứng quả, đều phải
y theo Tam Phước làm nền tảng, cũng như chúng ta
xây cất nhà lầu, bất luận là xây cao bao nhiêu
tầng, đều phải đắp nền móng. Tịnh Nghiệp Tam
Phước là nền móng, là nền tảng cộng đồng của
Phật pháp, nhất định là phải từ trên nền tảng
này xây dựng, mới có thể thành tựu tất cả Phật
pháp, điều này vô cùng quan
trọng.
Phước báo nhân
thiên :
Hiếu
dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, ḷng từ bi
không giết hại, tu thập thiện
nghiệp.
Hiếu dưỡng cha mẹ : Chữ
hiếu này thuộc về hội ư, chúng ta phải thể hội ư
nghĩa của chữ này, trên là chữ Lăo, dưới là chữ
Tử, tức là bảo với chúng ta rằng, đời trước và
đời sau là một thể, là một chẳng phải hai … Hay
nói cách khác, toàn cả vũ trụ là một chữ Hiếu,
tận hư không biến pháp giới là một chữ Hiếu,
chẳng những chúng ta nuôi dưỡng cái thân của cha
mẹ, c̣n phải nuôi dưỡng cái tâm của cha mẹ, nuôi
dưỡng cái chí của cha mẹ. Trong Giới Kinh nói
:“Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là
mẹ ta”. Đem cái tâm hiếu thuận cha mẹ phát dương
quang đại, tận hư không biến pháp giới, tức là
Hiếu Đạo.
Phụng thờ sư trưởng :
Phật pháp là sư đạo, lấy hiếu đạo làm nền tảng,
không có hiếu đạo th́ không có sư đạo. Cho nên
hiếu thuận cha mẹ cũng phải tôn kính thầy. Hiếu
kính là tánh đức, chỉ có tánh đức mới có thể
khai phát tự tánh. Đây là điều căn bản vô cùng
quan trọng. Người biết hiếu thuận cha mẹ th́
biết tôn kính sư trưởng. Phật là vị thầy sớm
nhất của chúng ta, Ngài chỉ dạy chúng ta phải
tôn kính sư trưởng. Chúng ta tôn thờ tượng Phật,
Bồ-tát, và thờ Tổ Tiên, khi nh́n thấy h́nh tượng
của Phật, Bồ-tát, th́ chúng ta nghĩ đến hiếu
kính, hiếu thân tôn sư.
Ḷng từ bi không
giết hại : Từ bi là tánh đức, là một
khoa mục vô cùng quan trọng, ḷng hiếu kính mở
rộng tức là từ bi, có ḷng từ bi th́ không sát
sanh, cái dụng ư này rất sâu. Trong tất cả ác
nghiệp, sát nghiệp là nặng nhất. Tại sao ? V́
tất cả chúng sanh có mạng sống, không một ai mà
không trân quư cái mạng sống của ḿnh, không có
một ai mà không tham sống sợ chết. Cho nên chúng
ta không thể sát sanh, sát sanh là bất kính với
Phật, là bất hiếu với cha mẹ, bởi v́ Phật dạy
chúng ta phải giữ giới căn bản, giới thứ nhất là
không sát sanh, nếu chúng ta c̣n sát sanh, th́
làm trái nghịch lời dạy của Phật, tức là không
tôn kính sư trưởng, không hiếu thuận cha mẹ. Sát
hại chúng sanh, chẳng những mất đi ḷng từ bi mà
c̣n mất đi ḷng hiếu kính nữa.
Tu thập thiện
nghiệp :
Thập thiện nghiệp là tiêu chuẩn thiện pháp của
thế gian. Phật bảo với chúng ta rằng, phát tâm
tu thập thiện nghiệp, th́ tuyệt đối không đọa
tam ác đạo, thượng phẩm thập thiện có thể sanh
lên cơi Trời, nếu có tu thêm thiền định và tứ vô
lượng tâm, tức là Từ Bi Hỷ Xả, th́ có thể sanh
lên cơi Trời Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Phật quy
nạp thập thiện nghiệp thành ba đại loại, tức là
Thân, Khẩu, Ư.
* Thân nghiệp có ba
: không
sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, đây là
đối với người chưa xuất gia mà nói, nếu là người
xuất gia th́ không được dâm dục, phải đem ḷng
tham ái đoạn cho được sạch sẽ rốt ráo. Trộm cắp
tức không cho mà lấy, lậu thuế cũng là trộm cắp,
trộm cắp của nhà nước, cái nghiệp này rất nặng.
Cho nên người chân chánh học Phật, nhất định
phải tuân thủ pháp luật của nhà nước. Không phạm
giới sát sanh, không phạm giới trộm cắp, không
phạm giới tà dâm, th́ gọi là thân nghiệp thanh
tịnh.
* Khẩu nghiệp có bốn
: Một là
vọng ngữ, tức là nói láo, nói lời lừa gạt người
khác, nói không thành thật. Hai là lưỡng thiệt,
tức là hai lưỡi, khiêu khích thị phi, nói lời
thêm bớt, khiến cho hai người bất ḥa với nhau.
Ba là ác khẩu, tức là nói lời hung dữ, ác độc,
những lời thô lỗ làm cho người nghe cảm thấy khó
chịu. Bốn là ỷ ngữ, là hoa ngôn xảo ngữ, nói lời
thêu dệt, nói được rất hay, khiến cho người nghe
bị quyến rũ, nhưng dụng ư bất thiện … Nếu ĺa
khỏi bốn loại khẩu ác nghiệp, th́ khẩu nghiệp
thanh tịnh.
* Ư nghiệp có ba :
Tham, Sân,
Si. Tham là tham ái, bao gồm keo bẩn, thường nói
là sân tham, dục vọng không có thỏa măn, thí
mạng đi t́m cầu, hy vọng đạt được thỏa măn, đây
là ḷng tham, một khi đă đạt được, th́ không
chịu buông xả, không chịu bố thí giúp đỡ cho
người khác, đây là một chướng ngại lớn đối với
người tu học. V́ vậy Phật chỉ dạy cho chúng ta
phương pháp bố thí để đối trị ḷng tham. Kế đến
là sân, tức là sân hận, tham không được th́ sanh
ḷng sân hận, ḷng sân hận là phiền năo rất lớn,
cho nên Tham Sân Si là tam độc phiền năo. Ḷng
tham là nghiệp nhân của ngạ quỷ. Ḷng sân hận là
nghiệp nhân của địa ngục. Ngu si là nghiệp nhân
của súc sanh. Cái ǵ gọi là ngu si ? Tức là
chẳng có trí huệ, không phân biệt được
tội–phước, thiện–ác, tà–chánh, v.v… Tam độc
phiền năo là chướng ngại minh tâm kiến tánh rất
nghiêm trọng, chúng ta tu học Phật pháp phải tu
từ căn bản, căn bản là tâm phải đoạn trừ Tham
Sân Si th́ chân tánh mới hiện
ra.
Phước báo nhị thừa : Thọ
tŕ tam quy, giữ vẹn các giới, chẳng phạm oai
nghi.
Thọ tŕ tam quy :
trước tiên nhập Phật môn th́ phải lạy Thầy cầu
truyền thọ Tam quy, là một việc rất quan trọng,
cũng là chánh thức lạy Đức Thích Ca Mâu Ni Phật
làm Thầy, tự nguyện một đời y theo lời dạy bảo
của Thầy mà tu học, thật sự tu hành, được Thầy
truyền thọ tổng cương lĩnh và nguyên tắc, phương
pháp tu học, gọi là truyền thọ Tam Quy Y. Tam
Quy Y là Quy Y Phật, Quy Y Pháp, Quy Y Tăng. Nếu
từ trên ư nghĩa mà nói, tức là Quy Y Giác,
Quy Y Chánh, Quy Y Tịnh. Phật là Giác,
Phật ư nghĩa là Giác-ngộ. Pháp là Chánh, Pháp là
Chánh Tri Chánh Kiến. Tăng là Tịnh, sáu căn
thanh tịnh, một hạt bụi không nhiễm. Cho nên cái
y cứ chủ yếu tu hành của chúng ta, là y theo tự
tánh Giác, tự tánh Chánh, tự tánh Tịnh, gọi là
tự tánh Tam Bảo.
*
Quy Y Phật : Cái
ǵ gọi là Quy Y ? Quy là hồi đầu, Y là nương
tựa. Phật chỉ dạy cho chúng ta, phải từ mê hoặc
điên đảo hồi đầu, nương tựa tự tánh Giác, tự
tánh vốn là Giác, Quy Y Phật không phải Phật bên
ngoài, mà là Quy Y tự tánh Phật. Đây là tự tánh
Phật Bảo. Trong Tịnh Tông nói, tự tánh Di Đà duy
tâm Tịnh Độ, cho nên Quy Y tự tánh Phật, tức là
Quy Y tự tánh Giác, Giác mà không mê mới là chân
chánh Quy Y Phật.
*
Quy Y Pháp : Tức
là cách nghĩ, cách nh́n, cách làm của chúng ta
đối với vũ trụ nhân sanh hoàn toàn cùng với chân
tượng sự thật phù hợp, tư tưởng chính xác, kiến
giải chính xác, tại trong Kinh Phật gọi là Chánh
Tri Chánh Kiến, hoặc là Phật Tri Phật Kiến, đây
là tự tánh Pháp Bảo, không phải bên ngoài đến,
Phật dạy chúng ta từ cách nghĩ cách nh́n cách
làm sai lầm hồi đầu trở lại, nương theo Chánh
Tri Chánh Kiến của tự tánh, gọi là Quy Y
Pháp.
*
Quy Y Tăng :
Tăng là ư nghĩa thanh tịnh, sáu căn thanh tịnh,
sáu căn là mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ư, tiếp xúc
cảnh giới sáu trần bên ngoài, sáu trần là
sắc-thanh-hương-vị-xúc-pháp. Người phàm phu khi
sáu căn tiếp xúc sáu trần th́ bị ô nhiễm, khởi
lên ḷng tham, ḷng tham là ô nhiễm, chúng ta
phải từ tất cả ô nhiễm hồi đầu trở lại, nương
theo tâm thanh tịnh của ḿnh, đây là tự tánh
Tăng Bảo, tức là Quy Y Tăng.
Tam
Quy Y, tổng kết mà nói, Quy Y Phật tức là Giác
mà không mê. Quy Y Pháp tức là Chánh mà không
tà. Quy Y Tăng tức là Tịnh mà không nhiễm. Ngoài
ra, c̣n có trụ tŕ Tam Bảo, trụ tŕ Tam Bảo tức
là tượng Phật, kinh điển, người xuất gia. Trụ
tŕ Tam Bảo đối với chúng ta có sự lợi ích công
đức rất lớn.
Giữ vẹn các giới,
chẳng phạm oai nghi : Các giới tức là có rất
nhiều giới điều, quan trọng nhất là ngũ giới,
ngũ giới là căn bản đại giới của nhà Phật. Xuất
gia Sa Di và Sa-Di Ni phải giữ 10 giới, Tỳ-Kheo
phải giữ 250 giới, Tỳ-Kheo Ni phải giữ 348 giới.
Thật ra giới điều chỉ có phía trước 17 điều, tức
là 4 giới trọng và 13 giới tăng tàn, đây thuộc
về giới, những giới điều khác th́ thuộc về oai
nghi. Oai nghi là ǵ ? Oai nghi là lễ phép, lễ
tiết, tức là trong cuộc sống hằng ngày xử thế,
đối người, tiếp vật, phải tuân thủ quy củ …
Trong ngũ giới điều thứ nhất không sát sanh, đều
thứ hai không trộm cắp, điều thứ ba không tà
dâm, điều thứ tư không nói dối, điều thứ năm
không uống rượu, bốn điều phía trước là tánh
tội, bất luận có thọ giới hay không thọ giới, hễ
phạm đều là có tội, những người có thọ giới đă
phạm th́ gọi là phá giới. Chỉ riêng điều thứ năm
không được uống rượu, người không thọ th́ không
phạm tội. Chúng ta phải hiểu rơ giới điều, th́
mới có thể tŕ giới. Mỗi một giới điều cũng có
Khai, Giá, Tŕ, Phạm. Ở dưới trường hợp nào là
Khai giới, không phải Phạm giới, ở dưới trường
hợp nào Tŕ giới, không thể Giá giới … Giới luật
là hành tŕ của Phật, không có giới luật th́
không có Phật pháp.
Phước báo đại thừa : Phát
Bồ-đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh đại
thừa, khuyến tấn người tu hành.
Phát Bồ-đề tâm
: Cái ǵ
gọi là Bồ-đề tâm ? Bồ-đề là tiếng phạn, dịch là
Giác-ngộ, Bồ-đề tâm tức là cái tâm thật sự giác
ngộ. Giác ngộ cái ǵ ? Giác ngộ đời người quá
khổ, thường nói là tam khổ, bát khổ … Sau khi
giác ngộ, nhất định phải y theo phương pháp của
Phật dạy tu hành, th́ tự nhiên ĺa khổ được vui,
ra khỏi tam giới, văng sanh Tịnh độ, mới thật sự
là phát Bồ-đề tâm.
Tin sâu nhân quả
: Cái
phước báo thứ ba này là Bồ Tát sở tu, cái nhân
quả này không phải nhân quả thông thường, chúng
ta cũng hiểu, thiện có thiện báo, ác có ác báo,
thiện nhân thiện quả, ác nhân ác quả. Phật
khuyên Bồ-Tát tin sâu nhân quả, Phật trong Kinh
Hoa Nghiêm cũng có nói :“Thập địa Bồ Tát thủy
chung không rời niệm Phật, từ Sơ Địa cho đến
Đẳng Giác, 11 ngôi vị thứ”. Họ tu cái ǵ ? Họ tu
pháp môn niệm Phật, th́ ra chỗ này nói nhân quả
là chỉ cho niệm Phật là nhân, thành Phật là quả.
Cho nên Phật ở chỗ này khuyên Bồ Tát tin sâu
nhân quả, tức là niệm Phật là nhân, thành Phật
là quả.
Đọc tụng kinh đại
thừa :
Đây là Bồ Tát thiện, Bồ Tát học Phật, không thể
một ngày không thấy Phật, không thể một ngày
không đọc tụng kinh đại thừa, nên biết, đọc kinh
không phải là đọc cho Phật nghe. Kinh là do Phật
nói, Phật đâu có cần chúng ta đọc cho Ngài nghe,
chúng ta đọc kinh là tiếp nhận lời dạy bảo của
Phật, để đánh thức chính ḿnh, dạy cho chúng ta
khi khởi tâm động niệm, xử thế, đối người, tiếp
vật, không làm trái nghịch lời của Phật dạy. Khi
hiểu rơ phương pháp và mục đích của việc đọc
tụng kinh điển, th́ phải y theo cương lĩnh mà tu
học, mới có thể đạt được công đức lợi ích của
Phật pháp thù thắng.
Khuyến tấn người tu hành
: Tức là
phải khuyên mọi người nên học Phật, giúp đỡ mọi
người tu hành tinh tấn, khuyên mọi người niệm
Phật cầu sanh Tịnh độ, đây là hạnh Bồ
Tát.
II. LỤC
H̉A KÍNH
Kiến ḥa đồng giải, Giới ḥa đồng tu, Thân ḥa
đồng trụ , Khẩu ḥa vô tranh, Ư ḥa
đồng duyệt, Lợi ḥa đồng quân.
Kiến ḥa đồng giải
: Tức là
xây dựng cùng ư thức chung, ở trong một đoàn
thể, chúng ta đối với phương pháp và lư luận của
sự tu học, nhất định phải có cùng chung một kiến
giải, đây là nền tảng cộng tu của đại
chúng.
Giới ḥa đồng tu
: Mọi
người khi đă cùng ở chung với nhau tu học, th́
phải lập ra một quy củ, nếu không có quy củ th́
là sẽ loạn, không có trật tự, dĩ nhiên là có một
quy ước cùng ở chung với nhau, nhất định
bao gồm giới căn bản của Phật đă chế định, mọi
người nhất định phải tuân thủ.
Thân ḥa đồng trụ
: Tức là
mọi người cùng ở chung một nơi tu hành, xây dựng
đạo tràng là thành tựu cho mỗi một phật tử, mục
đích là ở chỗ này, tuyệt đối không phải trốn
tránh trách nhiệm xă hội, mà vào trong Phật môn
t́m đường sống (ẩn dương nương Phật). Nếu có cái
quan niệm này th́ là hoàn toàn sai lầm. Mọi
người sinh hoạt trong đạo tràng đều phải b́nh
đẳng như nhau.
Khẩu ḥa vô tranh
: Đây là
nói mọi người cùng ở chung với nhau không có
tranh luận, thật sự có thể dụng công tâm hướng
theo đạo, mọi người ở chung với nhau, rất dễ
dàng tạo khẩu nghiệp, cho nên người xưa thường
nói : “Bệnh từ miệng mà vào, họa từ miệng mà
ra”. Cổ đức th́ dạy chúng ta :“Nói ít một câu,
niệm thêm Phật hiệu”.
Ư ḥa đồng duyệt
: Đây
tức thường hay nói Pháp Hỷ Sung Măn, chúng ta
học Phật, bất luận tu học pháp môn nào, sự thành
tựu kém cơi nhất, tức là được hoan hỷ, giả như
học Phật, mà không đạt được pháp hỷ sung măn,
tức là phương pháp đă dùng sai, phải tự ḿnh
kiểm thảo t́m ra khuyết điểm, mọi người cùng
nhau tu hành, người người đều được pháp hỷ,
người người đều được thành
tựu.
Lợi ḥa đồng quân
: Đây là
nói mọi người cùng ở chung một nơi tu hành, cuộc
sống vật chất là b́nh đẳng, tài nguyên của đạo
tràng, vào thời xưa, một phần là do nhà vua hộ
tŕ, tức là do nhà nước xây dựng thập phương đạo
tràng, kế đến là những vị đại phú trưởng giả
quyên góp ủng hộ, đạo tràng xây cất xong, th́
thỉnh những vị cao tăng đại đức đến làm trụ tŕ,
tu hành, giáo hóa chúng sanh, cho nên bất luận
là nhà nước cúng dường, hoặc là đại chúng ở địa
phương cúng dường vật chất, phàm là ai ở trong
ngôi đạo tràng này, đều được hưởng thụ nhất loạt
b́nh đẳng.
III.
TAM HỌC
Tam Học là : Giới, Định, Huệ.
Cái ǵ gọi là Giới, Định,
Huệ ? Những chúng sanh tạo thập ác nghiệp, th́
Phật dùng Giới học để đối trị. Giới học là thuốc
để đối trị ác nghiệp.
Tâm
của chúng sanh tán loạn, không được định, không
được thanh tịnh, th́ Phật dùng Định học để đối
trị. Định học là đối trị tâm tán
loạn.
Chúng sanh ngu si, không
biết tà chánh, thiện ác, phải quấy, đúng sai,
lợi hại, th́ Phật dùng Huệ học để đối trị. Huệ
học là đối trị ngu si.
Nói
tóm lại, chúng sanh tạo ác, tán loạn, ngu si,
th́ Phật dùng Giới, Định, Huệ để đối
trị.
IV. LỤC ĐỘ
Lục
Độ là : Bố Thí, Tŕ Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn,
Thiền Định, Trí Huệ.
Bố Thí :
Bố thí
có ba loại, tức là Tài thí, Pháp thí, Vô úy thí.
Tài thí th́ được giàu có. Pháp thí th́ được
thông minh trí huệ. Vô úy thí th́ được khỏe mạnh
sống lâu. Cho nên muốn được giàu có, thông minh
trí huệ, khỏe mạnh sống lâu, nhất định phải phát
tâm tu tài thí, pháp thí và vô úy
thí.
Tŕ Giới
: Tŕ
giới tức là thủ pháp, tất cả vạn sự vạn vật thế
gian và xuất thế gian, bất luận lớn nhỏ, cũng có
phép tắc của nó, nhất định phải thuận theo phép
tắc, th́ mới có thể làm được cứu cánh viên măn.
Trong Lục Độ, Tŕ giới là bảo chúng ta lúc b́nh
thường phải giữ phép tắc, không chỉ là thọ tŕ
ngũ giới hoặc thập giới, là giới căn bản, mà là
bảo chúng ta ở trong gia đ́nh phải có quy củ,
cha con, vợ chồng, anh em, đây là luân thường,
phải có thứ tự lớn nhỏ, không được đảo lộn. Tại
trong Phật đường cũng vậy, phải theo thứ tự tu
học, trước tiên phải phát đại tâm, đại tâm tức
là tâm nguyện phải độ tất cả chúng sanh, sau đó
đoạn phiền năo, đoạn tập khí, kế đến học pháp
môn, sau cùng viên thành Phật
đạo.
Nhẫn Nhục :
Nhẫn
nhục tức là nhẫn nại, bất luận làm sự việc ǵ,
cũng phải có tâm nhẫn nại, nếu không có tâm nhẫn
nại, làm bất cứ việc ǵ cũng không thể thành
tựu, tâm nhẫn nại là một điều kiện vô cùng quan
trọng. Đức Thế Tôn tại trong Kinh Kim Cang nói
về Bồ Tát tu Lục độ, đặc biệt nhấn mạnh Bố Thí
và Nhẫn nhục, hai điều này là then chốt của sự
tu hành thành công hay thất
bại.
Tinh Tấn :
Tinh là
chuyên tinh, chuyên nhất, Tấn là tiến bộ, do đây
có thể biết, Phật pháp không phải bảo thủ, cũng
không phải rớt lại phía sau, Phật pháp là ngày
ngày đều cầu tiến bộ … Trong vô lượng pháp môn,
nhất định phải nhất môn thâm nhập, mới có thể
thành tựu, học một môn khi đă thành tựu rồi, th́
hiểu hết tất cả những môn khác. Cho nên nói một
thông tất cả điều thông, như pháp môn niệm Phật
phải chuyên tu ... Bất luận là pháp thế gian
hoặc xuất thế gian, nếu muốn trong đời này được
thành tựu, nhất định phải biết tinh tấn, bất
luận là Niệm Phật, Tham Thiền, Tŕ Chú hoặc là
nghiên cứu giáo lư, cũng phải biết tuân thủ cái
nguyên tắc này. Nếu như tự ḿnh phát tâm tu học,
và cũng muốn giúp đỡ cho người khác, tốt nhất
trong một đời chỉ học một bộ kinh, chuyên giảng
một bộ kinh, đây mới là chuyên tinh. Phật, Bồ
Tát dạy cho chúng ta : tu học phải nhất môn thâm
nhập, th́ gọi là tinh tấn, công đức lợi ích của
tinh tấn vô lượng vô biên.
Thiền Định
: Thiền
định là bao gồm cả thiền định của thế gian và
xuất thế gian, thiền định thế gian là nói
Tứ-thiền, Bát-định, nếu như tu thành, th́ tương
lai sanh lên cơi sắc giới, vô sắc giới. Thiền
định xuất thế gian có Đại-thừa và Tiểu-thừa, Chư
Phật Như Lai tu thiền định, chúng ta gọi là
Thượng Thượng Thiền Định xuất thế gian, cái then
chốt tu học toàn cả Phật pháp là ở nơi Định.
Không phải chỉ có Thiền tông mới tu Thiền định,
c̣n những tông phái khác không tu Thiền định.
Như Niệm Phật mà nói, mục đích niệm Phật là phải
đạt đến nhất tâm bất loạn, nhất tâm bất loạn tức
là Thiền định. Giáo hạ tu chỉ quán, chỉ quán
cũng là Thiền định. Trong Mật tông tu tam mật
tương ứng, tương ứng tức là Thiền định. Do đây
có thể biết, mỗi một tông phái, pháp môn, tuy
dùng danh từ khác nhau, nhưng thật ra cũng là tu
Định.
Trí Huệ :
Trí Huệ
tiếng Phạn gọi là Bát-Nhă, Trí Huệ Bát-Nhă là
ứng dụng trong cuộc sống hằng ngày đối với tất
cả pháp đều đă hiểu rơ, thông đạt, mà không chấp
trước tất cả pháp, tận tâm tận lực đi giúp đỡ
người khác. V́ sao phải đi giúp đỡ cho người
khác ? V́ Chư Phật, Bồ Tát hiểu được tận hư
không biến pháp giới, tất cả chúng sanh đều cùng
với ḿnh đồng một thể, đă là đồng một thể, cho
nên giúp đỡ tất cả chúng sanh không cần nói điều
kiện, gọi là Đồng-Thể Đại-Bi, Vô-Duyên
Đại-Từ.
Nói tóm lại, từ-bi ban
phát tất cả cho chúng sanh, th́ gọi là Bố Thí.
Làm tất cả việc đều có phương pháp, đều có thứ
tự, th́ gọi là Tŕ Giới. Có tâm nhẫn nại, có
nghị lực, gọi là Nhẫn Nhục. Chuyên tinh không
giải đăi, nhất môn thâm nhập, gọi là Tinh Tấn.
Trong tâm có thể làm chủ được, không bị ngoại
cảnh lay động, gọi là Thiền Định. Đối với tất cả
vạn sự, vạn vật, đều thấu triệt, rơ ràng, minh
bạch, gọi là Trí Huệ Bát Nhă.
V. THẬP
ĐẠI NGUYỆN VƯƠNG CỦA PHỔ HIỀN BỒ
TÁT
Lễ kính Chư Phật,
Xưng tán
Như-Lai, Quảng tu cúng
dường, Sám
hối
nghiệp
chướng, Tùy
hỷ công đức,
Thỉnh
chuyển pháp luân,
Thỉnh
Phật
trụ thế, Thường tùy
Phật
học,
Hằng
thuận chúng
sanh, Phổ giai hồi
hướng.
Thập Đại Nguyện Vương của
Phổ Hiền Bồ Tát là ở trong Kinh Hoa Nghiêm, đây
là pháp môn thành Phật, là pháp môn
Lư Nhất Tâm
Bất
Loạn , là cảnh giới của pháp
thân đại sĩ, đặc sắc của hạnh Phổ Hiền, tức là
tâm lượng quảng đại như hư không pháp giới vậy.
Cho nên thập nguyện của Bồ-Tát Phổ Hiền, nguyện
nguyện đều cứu cánh viên măn.
Lễ kính Chư Phật
: Hai
chữ Chư-Phật này, Phật tại trong Kinh Hoa-Nghiêm
bảo với chúng ta rằng : T́nh và Vô T́nh, đồng
viên chủng trí. Đây tức là Chư Phật. T́nh là chỉ
cho tất cả hữu t́nh chúng sanh, tức là tất cả
động vật. Vô T́nh là thực vật và khoáng vật. Cho
nên Chư Phật là bao gồm sở hữu tất cả, đem cái
tâm cung kính của chúng ta đối với Phật, chuyển
qua đối với tất cả chúng sanh, đây tức là tâm
Phổ Hiền. Tâm cung kính của Phổ Hiền là chân
thật, chúng ta cung kính Chư Phật như thế nào,
th́ cung kính tất cả chúng sanh như thế đó, sự
cung kính hoàn toàn như nhau. Tại v́ sao ? V́
tất cả chúng sanh vốn tự thành Phật, nếu đắc tội
với một chúng sanh nào th́ đắc tội với Phật, tức
là đối với Phật bất kính, v́ vậy đối với tất cả
chúng sanh phải cung kính, đây là hạnh Phổ Hiền.
Hạnh Phổ Hiền viên măn nhất, Phương pháp tu hành
thù thắng nhất !
Xưng tán Như-Lai
: Câu
thứ nhất Lễ kính Chư Phật, v́ sao câu thứ hai
xưng tán Như-Lai, không gọi là xưng tán Chư Phật
? Cái dụng ư này rất sâu. Lễ kính Chư-Phật là từ trên h́nh tượng mà
nói, từ trên tướng mà nói nhất loạt phải cung
kính, nh́n thấy người thiện cung kính, nh́n thấy
người ác cũng phải cung kính, không phân biệt
thiện ác, không phân biệt tà chánh, cung kính
chánh pháp, cũng cung kính tà pháp.
Xưng tán
Như-Lai là từ trên tánh mà nói,
cái khác biệt ở chỗ này, thiện th́ chúng ta xưng
tán họ, không thiện th́ chúng ta không xưng tán
họ, chỉ cung kính mà không xưng tán, chỗ khác
biệt ở tại đây.
Quảng tu cúng
dường :
Đặc sắc của hạnh Phổ Hiền, là tâm lượng quảng
đại như hư không pháp giới, tại trong Phật pháp
đại thừa là tánh đức viên măn khởi dụng … Cho
nên tánh đức của Phổ Hiền Bồ Tát khởi dụng là
viên măn, nguyện nguyện đều là tận hư không biến
pháp giới … Ngoài cúng dường Phật, cúng dường
một Đức Phật tức là cúng dường tất cả Chư Phật,
mà c̣n cúng dường tất cả những chúng sanh chưa
thành Phật, tức T́nh và Vô T́nh, cho nên một là
tất cả, tất cả là một, đây là phương pháp tu học
của Bồ Tát, cũng tức là cảnh giới của Hoa
Nghiêm.
Sám hối nghiệp
chướng :
Tất cả chúng sanh đều có nghiệp chướng, khi khởi
tâm động niệm th́ là tạo nghiệp, nhất định sanh
ra chướng ngại. Chướng cái ǵ ? Là chướng bản
tánh của chúng ta, trong bản tánh chân tâm của
chúng ta, có vô lượng trí huệ, có vô lượng đức
năng, hiện tại trí huệ, đức năng, thần thông v́
sao không thể khởi tác dụng ? V́ có nghiệp
chướng, tu hành khó thành tựu, nếu muốn nghiệp
chướng sám trừ, chỉ cần thật sự phát nguyện sửa
lỗi, chí thành niệm câu : Nam Mô A Di Đà Phật,
cầu sanh Tịnh độ, th́ nghiệp chướng sẽ tiêu
trừ. Pháp sư Từ Vân có nói :“Tất cả
kinh chú khó mà tiêu nghiệp chướng, chỉ có một
câu Nam Mô A Di Đà Phật này mới có thể tiêu
nghiệp chướng”. Đây là sự thật ! Muốn sám hối
nghiệp chướng, chỉ có niệm Phật mới là chân thật
sám hối. Chân thật niệm Phật th́ mới tiêu trừ
tất cả tội chướng.
Tùy hỷ công đức
: Là đối
trị cái phiền năo nặng nhất của người phàm phu,
đó là cái tâm ganh ghét, cái tâm ganh ghét là
sẵn có khi sanh ra, có cái tâm ganh ghét này,
đối với sự tu học là một chướng ngại rất lớn.
Cho nên Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta phải tu tùy
hỷ công đức, chẳng những không ganh ghét người,
mà c̣n tùy hỷ, khi nh́n thấy người làm việc
thiện, làm việc tốt, th́ sanh ḷng vui theo, tận
tâm tận lực đi giúp đỡ cho họ được thành tựu.
Nhà nho nói :“Thành nhân chi mỹ, thành nhân chi
thiện”. Nên biết thành tựu cho người khác, tức
là thành tựu cho ḿnh, cái phương pháp tùy hỷ
công đức này rất thù thắng.
Thỉnh chuyển pháp
luân :
Chúng ta là đệ tử Phật, chịu sự giáo dục của
Phật, đạt được sự lợi ích chân thật, chúng ta
phải dùng phương pháp ǵ để báo ơn Phật ? Nên
biết tâm nguyện của Phật, là hy vọng tất cả
chúng sanh có thể nghe được chánh pháp, y theo
Phật pháp tu học, sớm được viên thành Phật đạo.
Cho nên muốn thật sự báo ơn Phật, phải Thỉnh
chuyển pháp luân, dùng lời hiện nay mà nói, tức
là lễ thỉnh Pháp sư đại đức đến giảng kinh
thuyết pháp, hoằng pháp lợi sanh, đây là phước
đức rất lớn, người đứng ra lễ thỉnh Pháp sư đến
giảng kinh thuyết pháp, cái phước báo này rất
lớn.
Thỉnh Phật trụ thế
: Thỉnh
chuyển pháp luân mục đích chủ yếu là tuyên
truyền Phật giáo, đem giáo pháp của Phật giới
thiệu rộng răi cho mọi người. Trong đời này của
chúng ta muốn tu học có được thật sự thành tựu,
Thỉnh chuyển pháp luân vẫn chưa đủ … Cho nên
nhất định phải Thỉnh Phật trụ thế, tức là phải
lễ thỉnh vị Thầy có đức hạnh đến thường trú lâu
dài, để chỉ dẫn cho chúng ta, chúng ta có thời
gian lâu dài tiếp nhận huân tu, th́ mới có thể
thành tựu. Mọi người nếu muốn thành tựu, nhất
định phải thỉnh Phật trụ thế, nay Phật đă diệt
độ, nhưng c̣n đệ tử của Phật, bất luận là xuất
gia hay cư sĩ tại gia, chỉ cần họ có tu, có học,
có đức hạnh, có thể làm cái gương tốt cho chúng
ta, có thể hướng dẫn cho chúng ta tu học, th́
phải lễ thỉnh họ đến địa phương này thường trú,
hoằng pháp lợi sanh, khiến cho địa phương này
được họ chỉ dạy trường kỳ tu tập, như vậy mới có
thể thật sự thành tựu. Cho nên muốn được thành
tựu, th́ nhất định phải thật sự phát tâm Thỉnh
Phật trụ thế.
Thường tùy Phật
học :
Phật c̣n tại thế th́ nương theo Phật tu học,
Phật là tấm gương tốt nhất của chúng ta, là mô
phạm của chúng ta, nay Phật không c̣n tại thế,
nhưng kinh điển của Phật vẫn c̣n ở thế gian,
chúng ta nương theo kinh điển mà tu hành, cũng
là Thường tùy Phật học, đây là tiêu chuẩn tu học
Phật pháp cao nhất.
Hằng thuận chúng
sanh :
Đây là phải đối với pháp giới tất cả hữu t́nh
chúng sanh, nhất định phải Thuận. Thuận là vô
cùng khó làm, không dễ ǵ làm nổi, cho nên người
Trung Hoa nói Hiếu, tiếp theo là Thuận, tức là
Hiếu Thuận, nếu không Thuận th́ không có Hiếu,
học Phật là hết ḷng Đại Hiếu. Hằng thuận chúng
sanh phải quán sát cơ duyên, khuyên nhủ chỉ dạy
cho chúng sanh đoạn ác tu thiện, giúp cho họ phá
mê khai ngộ, th́ nhất định phải biết thời tiết
nhân duyên, đến lúc nào th́ ta phải làm, mới hợp
với thời tiết nhân duyên, th́ thu hoạch được
hiệu quả viên măn, cho nên phải có trí huệ,
thiện xảo phương tiện, mới có thể Hằng thuận
chúng sanh.
Phổ giai hồi hướng
: Tức là
đem tất cả công đức học tập tu hành của chúng
ta, toàn bộ hồi hướng cho pháp giới tất cả chúng
sanh, hồi hướng cho họ chứng Bồ-đề, hồi hướng
cho họ thành Phật đạo, mở rộng tâm lượng của
ḿnh, cùng với tận hư không biến pháp giới thành
một thể, đạt đến cảnh giới này mới là chân chánh
cứu cánh đại viên măn.
Nói tóm lại, chúng ta y
cứ kinh điển tu học Tịnh Tông, tức là y theo
Tịnh Độ Ngũ Kinh Nhất Luận, trong kinh luận chỉ
dạy phương pháp tu hành, có năm điều khoa mục :
Tam Phước, Lục Ḥa Kính, Tam Học, Lục Độ, Thập
Đại Nguyện Vương của Phổ Hiền Bồ Tát. Phương
pháp vô cùng đơn giản, vô cùng dễ hiểu, một tí
cũng không phức tạp, chúng ta một đời tuân theo
cái nguyên tắc này mà tu học, đồng thời nhất tâm
niệm Phật cầu sanh Tây-phương Cực-Lạc th́ nhất
định sẽ được văng sanh !
NAM MÔ
A DI ĐÀ PHẬT !
Phật-giáo tuyệt nhiên
không phải là tôn giáo, mà là một giáo dục chí
thiện viên măn, hơn nữa nó cũng không quá cao cả
để người quỳ lạy, mà là đối với đời sống của tôi
và bạn kết hợp với nhau một cách chặt
chẽ.
Tôi xem thấy các vị đồng
tu nêu ra một số vấn đề có liên quan tu học, lợi
dụng thời gian này, tôi sẽ nói rơ những việc
thiết yếu với các vị :
1. Vấn đề
thứ nhất : cũng là vấn đề mà rất
nhiều người quan tâm. Họ nói :“Chúng tôi thường
thấy rất nhiều h́nh tượng Phật, Bồ-Tát thờ cúng
trong các chùa hoặc trong gia đ́nh để mọi người
chấp tay quỳ lạy. Vấn đề muốn hỏi là, cúng h́nh
tượng Phật, Bồ-Tát và ư nghĩa của việc lạy Phật,
Bồ-Tát rốt cuộc như thế nào? Lạy Phật và lạy
Thần có ǵ khác biệt ? Chúng ta phải dùng tâm
trạng như thế nào để lạy Phật, Bồ-Tát và lạy
Thần linh mới là đúng
?”
Tôi nghĩ, vấn đề này là
một vấn đề nghiêm túc, bởi v́ mê tín chỉ mang
đến cho xă hội ảnh hưởng phụ. Kính Trời, kính
Thần là tập tục mấy ngh́n năm ở Trung Hoa, có
tác dụng lớn đối với giáo dục xă hội, nhất định
không phải là mê tín, việc này chúng ta cần phải
phân biệt cho rơ ràng. Phật-pháp là sư đạo,
không phải thần đạo, cho nên Phật-giáo là giáo
dục chứ không phải là tôn giáo. Phật-giáo mấy
ngàn năm trước đă biết được nghệ-thuật-hóa
giáo-dục, do đó thấy trong Tự Viện Am đường h́nh
tượng của Phật, Bồ-Tát, có tượng đất, tượng vẽ,
h́nh h́nh sắc sắc, đa dạng chủng loại. Mấy năm
qua ở Đài Loan, có rất nhiều đạo tràng lạy Vạn
Phật Danh Kinh. Trong bộ Kinh này, Phật đă giảng
cho chúng ta nghe hơn một ngàn hai trăm danh
hiệu, không nói đến danh hiệu của chư Phật,
Bồ-Tát. Những danh hiệu đó đều là đức năng nơi
tự tánh của mỗi chúng sanh vốn đầy đủ. Ví dụ
danh hiệu của Thích-Ca Mâu-Ni Phật, âm tiếng
Phạn dịch ra, “Thích Ca” là nhân-từ, dịch là
năng-nhẫn, “Mâu Ni” dịch là tịch-diệt, chính là
ư thanh-tịnh. Do đây mà biết, nhân-từ cùng
thanh-tịnh là đức năng trong tự tánh của chúng
ta vốn đầy đủ. Cái đức năng này, nhất định phải
dùng danh hiệu để làm cho nó rơ ràng hơn. Chúng
ta nghe danh hiệu th́ khi đối nhân xử thế tiếp
vật phải nhân-từ; đối với chính ḿnh phải
thanh-tịnh, dùng tâm thanh tịnh đối đăi chính
ḿnh, dùng tâm từ bi đối đăi với người khác. Cho
nên khi nghe danh hiệu hoặc nh́n thấy h́nh tượng
Phật Thích Ca Mâu Ni, chúng ta liền được nhắc
nhở ư niệm này, đó là giáo học, là nghệ thuật
biểu thị mọi lúc mọi nơi, nhắc nhở tánh đức
chúng ta phải không ngừng lưu xuất ra
ngoài.
Danh hiệu của Bồ-tát biểu
thị tu đức, cũng chính là Phật, Bồ-Tát. Đức năng
chúng ta vốn đầy đủ, nhưng hiện tại chúng ta bị
mê, tuyệt nhiên không phải mất đi mà chỉ bị mê.
Khi mê, tánh đức của tự tánh không hiển hiện,
chẳng hạn bản tánh của chúng ta là đại từ đại
bi, hiện tại chúng ta đối với người với vật, một
chút tâm từ bi cũng không có; tự tánh của chúng
ta vốn thanh tịnh, hiện tại một ngày từ sớm đến
tối vọng tưởng lung tung, vọng niệm không ngừng,
mang đến biết bao phiền năo, v́ chúng ta đă đánh
mất đi tánh đức của chính ḿnh, bị mê muội. Nhất
định phải dựa vào tu hành mới có thể hồi phục,
do đó Bồ-tát đại biểu tu đức.
Tánh và tu không hai, tu
đức cũng vô lượng vô biên, bởi v́ chúng ta mê đă
quá sâu, do đó phương pháp lư luận của tu đức
cũng không cùng tận. Bồ-tát đại biểu tu đức,
Phật đại biểu tánh đức, cho nên danh hiệu h́nh
tượng chư Phật, Bồ-Tát đều có tác dụng nhắc nhở
chúng ta tánh tu. Chúng ta cúng h́nh tượng Phật,
Bồ-Tát với mục đích chính như
vậy.
Ngày trước trong lúc
giảng dạy, tôi thường hay nói rơ với đại chúng,
đệ tử Phật cúng dường h́nh tượng Phật, Bồ-Tát
không ngoài hai ư. Ư thứ nhất là kỷ niệm, Phật
là đạo-sư ban đầu của chúng ta, chúng ta tiếp
nhận giáo dục của ngài, đạt được công đức lợi
ích thù thắng từ giáo học này th́ đối với vị
đạo-sư sáng lập, chúng ta luôn cảm ân, mỗi niệm
không quên. Đây thuộc về ư kỷ niệm, gọi là trở
về nguồn cội. Ư thứ hai là học tập với Ngài,
thấy người hiền mà noi theo. Chúng ta nh́n thấy
h́nh tượng phải học theo Ngài. Nghe được danh
hiệu, cũng phải học Ngài. Chúng ta cúng dường
h́nh tượng Phật, Bồ-Tát cần có tâm trạng này.
Cho nên sự cúng dường nhất định không phải là mê
tín.
Chúng ta cúng dường
Bồ-tát Địa-Tạng, Bồ-tát Địa-Tạng đại biểu hiếu
kính “hiếu thân tôn sư”. Nh́n thấy “Địa” là tâm
địa, “Tạng” là bảo tạng, Mỗi chúng sanh chúng
ta, tâm địa đều đầy đủ vô lượng trí tuệ, vô
lượng đức năng, đó là ư nghĩa của “Địa-Tạng”. Do
đó thờ cúng h́nh tượng Phật, Bồ-Tát phải khai mở
Tâm Địa Bảo Tạng Tự Tánh của chúng ta. Dùng
phương pháp ǵ để khai mở ? Dùng giáo dục, mà
căn bản của giáo học chính là “hiếu thân tôn
sư”, cho nên Kinh Địa-Tạng là Hiếu Kinh của Phật
môn.
Học Phật bắt đầu từ đâu ?
Từ Địa-Tạng mà học, đây là ư nghĩa cúng dường
Bồ-tát Địa-Tạng. Tuyệt nhiên không thể nói :“Tôi
cúng dường Bồ-tát Địa-Tạng, mỗi ngày lạy ngài,
ngày ngày cúng dường ngài. Ngài sẽ đến bảo hộ
tôi”, đó là mê tín, tánh đức của bạn vĩnh viễn
không xuất hiện. Chúng ta phải học tập Bồ-tát
Địa-Tạng, học lư luận trong Kinh Địa-Tạng đă
dạy. Phải hiểu tường tận lư luận và phương pháp,
phải thiết thực làm cho được những phương pháp
đó, có như vậy mới là Bồ-tát Địa-Tạng, chân thật
gia tŕ chúng ta, chân thật bảo hộ chúng ta. Nếu
chúng ta không hiểu được ư này, không y theo
phương pháp mà làm, chỉ mê tín, th́ một tí lợi
ích cũng không có được. Không những không có
được, trái lại c̣n có lỗi do đem Phật, Bồ-Tát
xem thành thần linh để cúng vái, để hối lộ đút
lót, nịnh hót nhờ họ, cho rằng họ có thể bảo hộ
ḿnh; đem Phật, Bồ-Tát xem thành tham quan, ô
lại để đối đăi. Bạn nghĩ xem, tâm trạng này
chính là tội ác, việc này chúng ta không thể
không thông hiểu, nhất định không được sai lầm,
v́ sai một li, đi một ngàn
dặm.
Việc bái lạy Thiên-địa,
quỷ-thần trong lễ xưa của Trung Hoa đều có. Đây
là phép tu kính, chúng ta đối với thiên-thần,
quỷ-thần không hề cầu mong thứ ǵ, nhưng v́ sao
phải bái lạy ? Chúng ta nên tôn trọng họ, cung
kính họ. Chữ “kính” này là tánh đức. Làm thế nào
để bồi dưỡng tánh đức, làm thế nào mở rộng tánh
đức? Đối với Thiên-địa quỷ-thần, sự cung kính
của chúng ta phải thật tâm, cung kính với tất cả
mọi người, mọi việc, mọi vật, vậy mới đúng. Cho
nên thời xưa, cúng bái Thiên-địa quỷ-thần, ư
nghĩa thiết thực đều thuộc về giáo học, tuyệt
đối không có mong cầu ǵ với quỷ-thần. Có mong
cầu với quỷ-thần là quan niệm sai lầm, không có
trong ư nghĩa của cúng bái vào thời
xưa.
2. Vấn đề
thứ hai : Thường thấy
có rất nhiều người mua hoa tươi trái cây đồ cúng
ở tự viện hoặc ở gia đ́nh để cúng dường Phật,
Bồ-Tát, đồng thời cũng đốt hương, đốt đèn sáp,
đều cầu Phật, Bồ-Tát bảo hộ b́nh an khỏe mạnh,
thăng quan phát tài. Vậy dụng ư đúng nghĩa là ǵ
? Có phải Phật, Bồ-Tát cần dùng những thứ này
chăng ?
Xin nói với các vị, Phật,
Bồ-Tát nhất định không cần những thứ này, vậy ư
nghĩa chân thật của những thứ này là ǵ? Vẫn là
ở giáo học. Nếu dùng lời hiện đại mà nói, tất cả
những thứ cúng dường này chính là công cụ giáo
học, để khi chúng ta tiếp xúc liền có thể thức
tỉnh. Ví dụ khi ở trước tượng Phật, ư nghĩa của
tượng Phật mọi người đều biết, cúng Phật đại
biểu tánh đức của tự tánh, Bồ-tát đại biểu tu
đức, thông thường chúng ta cúng một vị Phật, hai
vị Bồ-tát, bởi v́ tánh đức chỉ có một, không có
hai, tu đức th́ nhiều phương diện. Nhiều phương
diện đem gom lại, không ngoài hai loại lớn : Tri
và Hành, nhà Phật gọi là giải hành, gồm giải môn
và hành môn, cho nên dùng hai vị đại Bồ-tát làm
đại biểu, việc này tiên sinh Vương Dương Minh
gọi là “Tri hành hợp nhất”, thực tế mà nói đều
từ trong khai thị của Phật pháp mà có được những
linh cảm này.
Giải môn, ví dụ phần đông
chúng ta thường cúng Thích-Ca Mâu-Ni Phật và
Bồ-tát Phổ-Hiền, Bồ-tát Văn-Thù. Phật biểu thị
tánh đức, Văn-Thù, Phổ-Hiền biểu thị tu đức.
Văn-Thù biểu thị giải môn, ngài đại biểu trí
tuệ. Phổ-Hiền biểu thị hành môn, ngài đại biểu
thực hành. Do đó hai vị Bồ-tát này đại biểu cho
tất cả.
Đồng tu tịnh độ, phần
nhiều thờ Tây Phương Tam Thánh. Phật th́ thờ
Phật A-Di-Đà. Ư nghĩa của danh hiệu này là vô
lượng giác, “A” ư nghĩa là “Vô”, “Di Đà” ư nghĩa
là “Lượng”, “Phật” là “Giác-ngộ”. Tất cả mọi
người, mọi việc, mọi vật, tận hư không khắp pháp
giới đều phải giác-ngộ, đây là tánh đức cứu-cánh
viên-măn. Bồ-tát biểu thị tu đức gồm Quan-Âm,
Thế-Chí. Bồ-tát Quan-Âm biểu thị thực hành, đại
biểu “hành”, Bồ-tát Thế-Chí biểu thị trí tuệ,
đại biểu “giải”, cho nên vẫn là vừa hành vừa
giải. Thế nhưng Pháp môn Tịnh độ lại để “hành”
phía trước, “giải” ở phía sau, đây là điểm không
giống nhau trong cúng dường tượng Phật. Chúng ta
chú trọng thực hành, nên đem để ở phía trước.
Hiểu rơ ư này, chúng ta sẽ không đến nỗi sanh ra
quan niệm sai lầm.
Cúng hoa trước tượng
Phật, hoa đại biểu nhân. Thế xuất thế gian pháp
đều không rời nhân quả, Phật thường nói trong
các Kinh Đại-thừa “vạn pháp giai không, nhân quả
bất không”, nhân quả là sự chuyển biến của vạn
pháp. Nhân sẽ biến thành quả, quả sẽ biến thành
nhân, nhân quả thay đổi lẫn nhau, tiếp nối không
ngừng, ám chỉ sự thay đổi vô cùng vô tận, do đó
nói “nhân quả bất không”. Do v́ nở hoa trước kết
quả sau, hoa là nhân, sau đó là quả, nên cúng
hoa là đại biểu tu nhân, hoa tốt th́ chúng ta
nghĩ quả nhất định sẽ tốt. Thấy hoa, ta liền
phải nghĩ đến việc tu nhân thiện, tương lai mới
có thể được quả báo tốt. Hoa biểu thị ư
này.
Cúng quả, quả biểu thị
quả báo, là cái chúng ta mong cầu. Hoa xinh đẹp,
nhắc nhở chúng ta phải tu. Trong Phật pháp
Đại-thừa, hoa đại biểu lục độ, “bố thí, tŕ
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ”,
gọi là hoa lục độ, sau đó mới có thể đạt được
quả báo viên măn. Hoa cúng trước Phật biểu thị ư
này, cũng như học sinh trên lớp học hiểu được
hoa biểu thị nhân hành, nhưng sau khi rời khỏi
Phật điện, chúng ta ra ngoài nh́n thấy hoa, có
c̣n nghĩ đến ư này không ? Đều phải có khái niệm
như vậy. Hiểu Phật pháp, chỉ cần nh́n thấy hoa,
liền nhắc nhở chính ḿnh tu nhân thiện, phải tu
nhân tốt. Thậm chí quần áo mặc trên người, khi
in lên những hoa văn, nh́n thấy hoa liền biết
chính ḿnh phải tu hành. Giờ giờ khắc khắc, nhắc
nhở chính ḿnh tu nhân thiện mới có thể được quả
tốt. Đây là ư nghĩa của việc cúng dường hoa tươi
trái cây.
C̣n cúng dường thực phẩm,
thực tế mà nói không ư nghĩa, không quan trọng.
Thực phẩm chỉ biểu thị chút ḷng thành của ḿnh.
Chúng ta cần thực phẩm ngon, chúng ta cũng đem
thực phẩm ngon cúng dường Phật, Bồ-Tát, đây là ư
kỷ niệm, cũng là ư tượng
trưng.
Đốt hương, hương đại biểu
tín hương, là một loại tín hiệu, việc này thời
xưa ứng dụng rất phổ biến. Nếu các vị đi du lịch
đến Trung Hoa Đại Lục th́ nên đến tham quan
Trường Thành. Mỗi đoạn Trường Thành có một phong
hỏa đài dùng để truyền tín hiệu. Phong hỏa đài
cũng giống như cái bếp ḷ, thời xưa việc truyền
tín hiệu rất khó, người ta mới nghĩ cách dùng
phong hỏa đài, đốt lửa hun khói. Mật độ của khói
không giống b́nh thường, gió không dễ thổi tan,
do đó khói được giữ lâu, ở nơi rất xa có thể
nh́n thấy và nhận biết nơi đó báo hiệu có biến
cố xảy ra. Chúng ta dùng cách biểu đạt đốt hương
phát tín hiệu đến chư Phật, Bồ-Tát, để cảm ứng
được thông nhau. Thế nhưng hàm ư chân thật,
chúng ta thường nói :“Giới định chân hương, ngũ
phần pháp thân”, ư này rất sâu. Đốt hương nhắc
nhở bạn học nhiều, chúng ta nh́n thấy khói
hương, ngửi được mùi hương, liền nghĩ chính ḿnh
phải tu giới, định, huệ. Cho nên đốt hương đại
biểu “giới định chân hương”, đại biểu “ngũ phần
pháp thân”, ngũ phần pháp thân gồm giới, định,
huệ, giải thoát, giải thoát tri
kiến.
Đèn tượng trưng cho trí
tuệ quang minh. Thời xưa dùng đèn dầu, đèn cầy,
ư này càng rơ ràng. Đèn dầu chân thật đốt cháy
chính ḿnh để soi sáng người khác, đèn cầy lại
càng đặc biệt rơ ràng hơn. Chúng ta phải cầu trí
tuệ, có thể xả ḿnh v́ người; lấy trí tuệ, kỹ
năng của chính ḿnh phục vụ xă hội, giúp đỡ tất
cả chúng sanh mà không cầu báo đáp, đây là lời
Phật dạy. Cho nên đốt hương, đèn cầy đều là biểu
pháp, nếu chân thật làm đúng như vậy, tự nhiên
liền được b́nh an, khỏe mạnh, sống lâu, cho đến
thăng quan phát tài. Đó là do trong mạng của bạn
đă có theo mối quan hệ nhân quả. C̣n trong mạng
không có th́ Phật, Bồ-Tát cũng không ban
được.
Nếu trong mạng của bạn
không có tiền tài, Phật, Bồ-Tát có thể giúp bạn
phát tài, trong mạng của bạn không có quan vị,
Phật, Bồ-Tát ban cho quan cao, th́ định luật
nhân quả đă bị đánh đổ, làm ǵ có đạo lư này.
Chư Phật, Bồ-Tát trí tuệ có lớn hơn, năng lực có
mạnh hơn cũng không cách nào thay đổi được tí ǵ
nhân quả. Thế gian pháp xây dựng trên nền tảng
của nhân quả, Phật pháp cũng xây dựng trên nền
tảng của nhân quả, chúng ta phải hiểu tường tận.
Kinh Pháp Hoa, Nhất Thừa Nhân quả, Kinh Hoa
Nghiêm, Ngũ Châu Nhân quả, bạn xem tất cả Kinh
luận đều không ĺa định luật nhân quả. Phật,
Bồ-Tát có thể giúp chúng ta phát tài không ? Có
thể ! V́ Phật, Bồ-Tát dạy chúng ta lư luận phát
tài, dạy chúng ta phương pháp tu học phát tài.
Chúng ta hiểu rơ lư luận, y theo phương pháp này
mà tu học, th́ tự nhiên đạt được. Không thể nói
Phật, Bồ-Tát dạy cho bạn, bạn liền trực tiếp
phát tài, mà bạn – chính ḿnh – phải làm.
Ví dụ bạn muốn ăn dưa, Phật, Bồ-Tát dạy bạn làm
thế nào để trồng dưa, làm thế nào chọn hạt
giống, làm thế nào để vun xới đất, bón phân cho
cây tươi tốt, mau phát triển, bạn làm theo th́
tương lai nhất định có thu họach tốt. Không thể
nói bạn cầu dưa th́ Phật, Bồ-Tát liền mang dưa
đến cho bạn, không hề có như vậy, đó là mê tín
!
Cho đến cầu b́nh an, cầu
khỏe mạnh, Phật cũng dạy bảo chúng ta làm thế
nào mới có thể chân thật đạt tự tại, hạnh phúc,
mỹ măn, trong đó đă bao hàm b́nh an, khỏe mạnh,
sống lâu. Phật dạy chúng ta tất cả phải thuận
theo tự nhiên, “tự tại tùy duyên”. Ví dụ người
hiện đại nói “hoàn cảnh sinh thái”, mọi người
đều biết trên địa cầu này không luận động vật,
thực vật đều hỗ tương lẫn nhau tồn tại, nếu một
phương diện nào đó bị phá hoại, nhất định ảnh
hưởng đến thứ khác. Hoàn cảnh sinh hoạt tự nhiên
của chúng ta đang bị phá hoại nghiêm trọng,
không chỉ động vật mà thực vật cũng không c̣n
hoàn cảnh để sinh tồn. Có một số thực vật động
vật đă bị tiệt chủng, đây đều do hoàn cảnh sinh
thái không cân bằng. Trên con người chúng ta,
nhục thể là một bộ phận sinh lư, c̣n một bộ phận
nữa là tinh thần, cũng giống như đại tự nhiên
không hề khác nhau. Nếu bạn thuận với đại tự
nhiên th́ bạn nhất định sẽ khỏe mạnh sống lâu,
bạn sẽ trải qua đời sống an vui. Nhưng nếu trái
với tự nhiên, bạn phá hoại sinh thái tự nhiên,
th́ bạn sẽ đau khổ bệnh tật cho đến bị một số
tai nạn không thể tránh khỏi.
Phật tâm chúng ta vốn
thanh tịnh, tâm rỗng không. Thế nhưng bạn lại
không t́m ra, cho nên Phật pháp dùng bánh xe để
biểu thị. Bánh xe tṛn biểu thị tâm phải tṛn
đầy, nhưng sự tṛn đầy của tâm là bất khả đắc.
Bạn nói đến một điểm th́ cái điểm này đă biến
thành diện tích, cho nên điểm chỉ là một khái
niệm trừu tượng. Tâm viên là một điểm, nhất định
có, do đó Phật bảo chúng ta tâm phải thanh tịnh
v́ tâm chính là tâm viên, là trung tâm vũ trụ,
cũng là một trung tâm sinh mạng con người. Tâm
tuy nhất định nhưng có cái không thể chứa được,
trong tâm nếu ôm chứa một thứ ǵ th́ tâm liền bị
hư. Trong tâm bạn có vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, có lo lắng, dính mắc th́ tâm đă hư, bạn
đă trái với nguyên tắc của tự nhiên. C̣n nếu bạn
buông bỏ tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, lo lắng, dính mắc, tâm của bạn liền hồi
phục b́nh thường, đây gọi là tùy thuận phép tắc
tự nhiên, do đó tâm phải thanh tịnh, nhất định
không có thứ ǵ.
Thân th́ sao ? Thân phải
hoạt động, thân là một ṿng tṛn, ṿng là động,
nếu không động th́ hư. Thân phải động, tâm phải
tịnh, đây là đạo dưỡng thân, cũng là chân đế
dưỡng thân. Thế nhưng hiện tại đặc biệt là người
giàu có th́ hoàn toàn trái với đạo này. Bạn xem,
tâm phải thanh tịnh, phải vô nhất vật. Lục-tổ
thiền-tông nói “Bổn lai vô nhất vật”, ư nói cái
tâm chân thật của chính ḿnh xưa nay vốn là
thanh tịnh, không dính mắc với vật nào hết. Chỉ
v́ chạy theo vọng tưởng, phân biệt, chấp trước
mà quên cái tâm chân thật của chính ḿnh ! … Vậy
thân cần phải động, bạn muốn sống th́ phải động,
không động không thể sống. Nhưng nhiều người
không muốn động thân, lại cứ động tâm. Thế là,
thân tâm họ làm sao tránh khỏi bệnh tật. Bệnh
tật từ đây mà ra !
Trong Phật pháp có một
phương pháp tu hành là lạy Phật. Mỗi ngày lạy
mấy trăm lạy thậm chí mấy ngàn lạy. Người lạy
nhiều nhất đến ba ngàn lạy. Khi lạy Phật, thân
đang vận động, tất cả bộ phận đều vận động là
dưỡng thân. Ngoài việc lạy Phật ra, lao động
cũng là dưỡng thân. Tâm thanh tịnh, không vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, không lo lắng,
dính mắc, tự nhiên con người hạnh phúc khỏe mạnh
sống lâu. Cho nên Phật pháp giảng đạo lư, dạy
bạn những phương pháp này đều phù hợp với chân
tướng sự thật, tương ưng với hoàn cảnh sinh thái
tự nhiên, bạn mới có thể chân thật đạt khỏe mạnh
sống lâu, cho đến phước báu khác. Mỗi người đều
có thể đạt đến hạnh phúc mỹ măn bất luận giàu có
hay bần tiện. Giàu có hay bần tiện là do tu đức.
Tiền của từ bố thí tài mà ra. Bố-thí tài là
nhân, được tiền của là quả báo. Bạn tu nhân nhất
định được quả báo. Nếu đời quá khứ hoặc hiện tại
không tu nhân, bạn muốn phát tài cũng không thể.
Hăy đọc qua Liễu Phàm Tứ Huấn sẽ hiểu, chân thật
là “Một bữa ăn, một ngụm nước đều do tiền
định”.
Trong mạng đă có, dù bỏ
cũng không mất; trong mạng không có, dù cầu cũng
không được. Phật, Bồ-Tát, Thiên-địa quỷ-thần
cũng không cách ǵ. Bạn cầu Phật, Bồ-Tát, cầu
quỷ-thần, cầu phát tài, quả nhiên liền phát tài,
thành thật mà nói đó là trong mạng của bạn đă
sẵn có, vừa khéo ngay lúc này gặp được cơ duyên,
chứ không phải Phật, Bồ-Tát linh hiển. Nếu quả
thật Phật, Bồ-Tát quỷ-thần có linh th́ một trăm
người cầu phát tài, một trăm người đều phát tài,
mới gọi là linh. Một trăm người cầu, mà chín
mươi chín người phát tài, c̣n một người chưa th́
vẫn không linh. Cho nên đầu óc chúng ta phải
b́nh lặng, không để bị người lừa gạt, càng không
nên bị quỷ-thần lừa gạt. Bị người lừa gạt c̣n có
thể tha thứ, nhưng bị quỷ-thần lừa gạt là một
việc không thể tha thứ. Phải có lư tánh, có
trí-tuệ mà quán sát, chúng ta mới có thể đạt
được lợi ích chân thật !
Tóm lại, cúng dường Phật,
Bồ-Tát những đồ cúng đều là biểu pháp, tuyệt đối
không phải v́ các ngài cần, mà nhờ vào những thứ
này, mỗi giờ mỗi khắc nhắc nhở chính ḿnh, để
sáu căn của ḿnh tiếp xúc với cảnh giới sáu trần
niệm niệm đều có thể đạt được giác không mê,
chánh không tà, tịnh không nhiễm. Chẳng hạn gia
đ́nh nghèo khó, không có khả năng mua sắm đồ
cúng, vậy chúng ta ở trước mặt tượng Phật, cúng
dường đơn giản nhất một ly nước. Đây là vật cúng
quan trọng nhất trong các đồ cúng, nước biểu thị
cái ǵ ? Nước biểu thị cho tâm, nước trong sạch
biểu thị tâm thanh tịnh. Nước không nổi sóng là
b́nh, biểu thị b́nh đẳng. Cúng dường một ly
nước, nh́n thấy nước nghĩ ngay đến thanh tịnh
b́nh đẳng, đây là đồ cúng vô cùng quan trọng.
Bạn có thể không cần thắp hương, không đốt đèn
nến, cũng không cần hương hoa trái cây cúng
dường, nhưng không thể không cúng một ly nước v́
nó đại biểu tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng. Nh́n
thấy nước liền nghĩ ngay đến chính ḿnh, trong
tất cả cảnh duyên, hoàn cảnh nhân sự, hoàn cảnh
vật chất, phải biết thanh tịnh b́nh đẳng. Tâm
thanh tịnh b́nh đẳng là tâm Phật, cũng chính là
chân tâm.
3. Vấn đề
thứ ba : cũng là một
hiện tượng phổ thông hiện tại. Họ nói :“Người
thông thường trước khi chính thức cúng dường
h́nh tượng Phật, Bồ-Tát đều phải cử hành nghi
thức khai quang điểm nhăn. Ư nghĩa của khai
quang là ǵ ? Có cần thiết hay không ? Khi khai
quang th́ tượng Phật liền linh; không khai quang
th́ tượng Phật không linh, rốt cuộc người như
thế nào mới đủ tư cách để khai quang cho h́nh
tượng Phật, Bồ-Tát ?
Vấn đề này, ngày trước
khi tôi giảng kinh cũng đă nhiều lần nhắc đến.
Thông thường khai quang đều hướng đến h́nh thức
mê tín, làm cho ư nghĩa của sự khai quang hoàn
toàn bị sai lệch. Thực tế, việc khai quang rất
quan trọng, ư nghĩa chân thật của nó là nói rơ ư
cúng dường một h́nh tượng Phật, Bồ-Tát ở đâu.
Việc này cũng giống như h́nh tượng một vĩ nhân ở
thế gian, chúng ta xây dựng xong th́ cử hành một
đại lễ khai mạc. Ngay trong đại lễ, nhất định
phải thuyết minh rơ cho đại chúng, nói rơ nhân
vật đó khi c̣n ở đời, sự nghiệp vĩ đại của họ,
họ có cống hiến đối với đại chúng trong xă hội,
có cống hiến cho quốc gia dân tộc. Phải giảng
giải rơ ràng, tường tận để xă hội đại chúng thấy
được h́nh tượng liền khởi tâm niệm muốn làm
theo, đây chính là ư nghĩa khai quang của
Phật-giáo. Ví dụ chúng ta cúng dường Bồ-tát Quán
Thế Âm, làm xong h́nh tượng Bồ-tát Quán Thế Âm,
chúng ta phải thờ cúng, cúng dường lễ lạy. Khi
thờ cúng, chúng ta nhất định phải nói rơ với đại
chúng, v́ sao chúng ta cúng dường Bồ-tát Quán
Thế Âm, ư nghĩa của việc cúng dường Bồ-tát Quán
Thế Âm là ǵ ? Vậy nhờ vào tôn tượng mà khai mở
ánh sáng tự tánh của chính ḿnh. Cho nên không
phải người đến khai quang cho Phật, Bồ-Tát mà
nhờ vào h́nh tượng của Phật, Bồ-Tát để khai
quang cho chúng ta.
Nếu như nói :“Phải mời
một vị Pháp-sư đến khai quang cho tượng Bồ-tát
Quán Thế Âm này th́ Ngài mới linh, không khai
quang th́ Ngài không linh”, rất nhiều người cũng
t́m đến tôi nhờ khai quang cho Phật, Bồ-Tát. Tôi
liền thành thật nói với họ :“Bạn không cần cúng
dường Phật, Bồ-Tát”. Họ hỏi v́ sao ? Tôi trả lời
:“Tôi bảo họ linh th́ họ linh, bảo họ không linh
th́ họ không được linh, vậy th́ tôi linh hơn họ,
bạn cúng dường tôi là tốt rồi, cúng dường họ làm
ǵ ?”. Bạn thử nghĩ xem có đúng không, đây gọi
là mê tín. Nếu tôi làm bộ làm tịch họa họa vẽ vẽ
cho họ th́ họ liền linh, các vị thử nghĩ xem, há
chẳng phải tôi c̣n linh hơn họ hay sao ? Ngay
đến điểm này mà nghĩ không thông, vậy th́ ngu si
mê muội của bạn đă lên đến tột cùng, người đầu
óc b́nh lặng thông minh, vừa nh́n là hiểu rơ mọi
việc, liền thông suốt chân tướng sự thật. Khai
quang cho Phật, Bồ-Tát hiển linh là lừa gạt
chúng sanh.
Khai quang là nêu rơ ư
nghĩa mà vị Phật, Bồ-Tát này biểu thị. Ví dụ
cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm, đại biểu của
Bồ-tát Quán Thế Âm là đại từ đại bi cứu độ tất
cả chúng sanh. Chúng ta cúng dường Bồ-tát Quán
Thế Âm phải nên học theo loại bi nguyện đại từ
đại bi cứu khổ cứu nạn của Phật, Bồ-Tát. Do đó
khi nh́n thấy h́nh tượng của Bồ-tát Quán Thế Âm,
nghe đến danh hiệu Ngài, th́ tâm đại từ bi của
chúng ta được khai mở. Chúng ta đối với tất cả
mọi người, mọi việc, mọi vật, phải dùng đại
từ-bi chân thật thương yêu quan tâm giúp
đỡ.
Từ danh hiệu và h́nh
tượng Phật, Bồ-Tát, chúng ta được khai mở ánh
sáng từ bi trong tự tánh, đây gọi là khai quang,
ư nghĩa như vậy, nhất định không nên hiểu sai,
trở thành mê tín. Mê không thể giải quyết vấn
đề, chỉ có trí tuệ mới có thể giải quyết được,
việc này người học Phật không thể không
biết.
Người như thế nào mới có
tư cách khai quang cho tượng Phật ? Người đối
với kinh luận của Phật, Bồ-Tát, khởi nguồn lịch
sử, ư nghĩa mà các Ngài biểu đạt đều có thể
thông suốt tường tận, v́ mọi người giải thích rơ
ràng, giảng nói minh bạch. Tuyệt đối không ở
trên h́nh thức. Mỗi h́nh thức đều có ư nghĩa
giáo dục rất sâu, đều phải đem nó giảng giải rơ
ràng, tường tận, mới không đến nỗi đi vào mê
tín, xem Phật, Bồ-Tát thành quỷ-thần để tôn thờ,
sùng bái, mong cầu ban phước. Đó là quan niệm
sai lầm.
4. Vấn đề
thứ tư : Họ nói thời nay trên toàn
thế giới, mật tông tương đối thịnh hành. Thế
nhưng có vài việc khiến mọi người lo lắng, đó là
quán đảnh. Ư nghĩa của việc quán đảnh là thế nào
? Tiếp nhận quán đảnh có thể tiêu trừ nghiệp
chướng hay không ? Thượng sư mật tông dùng quán
đảnh để tiêu trừ nghiệp chướng cho mọi người ?
Và làm thế nào mới có thể mau tiêu trừ nghiệp
chướng ?
Quán đảnh có ư nghĩa quan
trọng mà chúng ta không thể không biết. Nếu quán
đảnh trên h́nh thức, rưới vài giọt nước lên đầu
bạn, nghiệp chướng của bạn liền được tiêu trừ,
bạn có thể tin được hay không
?
Trước tiên tôi muốn hỏi
bạn, nghiệp chướng là ǵ ? Bạn phải hiểu rơ ràng
về nghiệp. Nghiệp là tạo tác của bạn, đơn giản
mà nói, bạn đối với vũ trụ nhân sanh có cách
nghĩ sai lầm, có cái thấy sai lầm, cách nói sai
lầm, cách làm sai lầm, bạn ở ngay đó tạo tác gọi
là “nghiệp”. Những nghiệp này chướng ngại thanh
tịnh của bạn, chướng ngại tự tánh giác của bạn,
gọi là “nghiệp chướng”. Vậy thượng sư quán đảnh
cho bạn, nghiệp chướng của bạn có được tiêu trừ
hay không, bạn liền được tâm thanh tịnh hay
không ? Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của
bạn có thảy đều tiêu hết, bạn đối với vũ trụ
nhân sanh quá khứ, hiện tại, vị lai không ǵ
không biết, không ǵ không thể ? Được như thế
mới chân thật là nghiệp chướng được tiêu trừ.
Sau khi được quán đảnh, bạn thử quán sát xem,
vọng tưởng phân biệt chấp trước của bạn có phải
đă được tiêu trừ, hoặc giảm ít cũng là rất
tuyệt. C̣n nếu sau khi được quán đảnh, vọng
tưởng phân biệt chấp trước không hề giảm, thậm
chí c̣n tăng thêm, th́ do đây mà biết, hoàn toàn
không hề có hiệu quả.
Trong chú giải Kinh Vô
Lượng Thọ của lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đă nói rất
rơ ràng, minh bạch, bởi v́ bản thân ông là
thượng sư của mật tông nên lời ông nói chân
thật, không hề gạt người. “Quán” mang ư từ bi
gia tŕ, sự quan tâm, thương yêu, giúp đỡ bạn,
đây là ư nghĩa của việc quán đảnh. “Đảnh” là đại
pháp chí cao vô thượng, nói cách khác, đem đại
pháp chí cao vô thượng truyền thụ cho bạn, gọi
là “quán đảnh”. Không phải đem vài giọt nước
rưới lên đầu bạn là “Quán đảnh”, nếu quán đảnh
như vậy, buổi tối mỗi ngày bạn vào nhà tắm tắm
rửa, vậy th́ gọi là đại quán đảnh rồi, thoải mái
dường nào.
Không nên mê tín, đó chỉ
là biểu pháp của việc lấy nước cam lộ để quán
đảnh. Cam lộ đại biểu Phật pháp chí cao vô
thượng. Nếu mọi người hiểu được đạo lư này sẽ
biết được Kinh Vô Lượng Thọ là đại pháp chí cao
vô thượng trong tất cả kinh điển. Bạn đọc qua
một lượt từ đầu đến cuối Kinh Vô Lượng Thọ, tức
là không chỉ Phật A-Di-Đà quán đảnh một lần cho
bạn mà mười phương tất cả chư Phật vốn đều hoằng
dương pháp môn này, nên mười phương tất cả chư
Phật quán đảnh cho bạn mặc dù bạn không hề biết.
Đây là chân thật quán đảnh, không hề lừa gạt
bạn. Bạn không hiểu được đạo lư này mà cứ đi cầu
mật tông thượng sư rảy vài giọt nước lên đầu rồi
bạn liền cho rằng có thể tiêu nghiệp chướng,
thực tế nghiệp chướng không hề tiêu, mà c̣n
không ngừng tăng thêm, bởi v́ tâm bạn là tâm mê
hoặc, điên đảo; cách làm này của bạn là cách làm
sai lầm, chính bạn hoàn toàn không hề biết. Bạn
rơi vào con đường mê tín th́ làm sao có thể được
công đức lợi ích, làm sao bạn có thể tiêu nghiệp
chướng, việc này cần phải hiểu
rơ.
5. Vấn đề
thứ năm : Câu hỏi
“Trong xă hội hiện đại, mật tông, thiền tông đều
rất thịnh hành. Mật tông th́ nói ‘tức thân thành
Phật’, thiền tông lại nói ‘minh tâm kiến tánh,
kiến tánh thành Phật’, vậy rốt cuộc việc thành
Phật là như thế nào ?”
Chữ “Phật” là từ âm tiếng
Phạn Ấn-Độ mà dịch ra, kỳ thật chữ này có thể
đem dịch sang Trung văn, nhưng tại sao lại không
dịch ? V́ trong trung tâm dịch kinh thời xưa
quan niệm có năm loại không dịch. Từ này thuộc
về ḷng tôn kính nên không dịch. Chỉ có thể dịch
âm, ư nghĩa là trí tuệ, giác ngộ. Tuy nhiên hàm
ư trong danh từ “Phật” vượt ra ngoài lư giải của
chúng ta. Trí tuệ của ngài là trí tuệ viên măn,
giác ngộ của ngài là triệt để giác ngộ. Nói cách
khác, đối với cả vũ trụ nhân sinh, thậm chí đến
quá khứ vị lai, chân thật không ǵ không biết,
không ǵ không giác. Phải đạt đến cảnh giới như
vậy mới gọi là thành Phật.
Nếu các vị hiểu rơ hàm ư
của chữ Phật này th́ liền biết “tức thân thành
Phật” của mật tông có thể thành được hay không ?
Ngay trong đời hiện tại, hoặc trong thời gian tu
học ngắn ngủi của bạn, bạn có thể tường tận
thông suốt được chân tướng của vũ trụ nhân sinh
hay không ? Không hề tường tận là không thể
thành Phật ! Lời nói của thiền tông so với “tức
thân thành Phật” của mật tông, tôi cảm thấy ư
nói tiến bộ thêm một chút. V́ nó có điều kiện,
điều kiện là minh tâm kiến tánh, kiến tánh mới
thành Phật. Ai có thể đạt đến được minh tâm ? Do
đây mà biết, tâm chúng ta bị vô-minh che đậy,
hiện tại tâm này bị mê hoặc. Yêu cầu tu học của
thiền tông là phá trừ mê hoặc, hồi phục tự tánh.
Khi mê, Phật pháp gọi là “tâm”, khi giác ngộ th́
gọi là “tánh”. Các vị phải biết “tâm” cùng
“tánh” là một thể. Nếu tâm sáng suốt th́ gọi là
bổn tánh, nhà Phật gọi là “chân như”. Lúc nào
bạn đă kiến tánh, minh tâm th́ lúc đó gọi bạn là
Phật, bạn không c̣n là phàm phu nữa. Khác biệt
giữa phàm phu và Phật ở chỗ này. Phàm phu chúng
ta phải mặc áo ăn cơm, Phật, Bồ-Tát cũng mặc áo
ăn cơm; phàm phu chúng ta có công việc, Phật,
Bồ-Tát mỗi ngày cũng làm việc, trên sự tướng th́
không hề khác nhau, khác biệt chính là cảnh
giới. Họ có trí tuệ chân thật, chân thật không
ǵ không biết, không ǵ không thể. Nếu chúng ta
hiểu rơ th́ liền hiểu được hai câu nói
này.
Tuy trong kinh luận,
trong chú sớ của đại đức xưa có, nhưng trên thực
tế th́ tuyệt đối không phải người thông thường
có thể làm được. Nói đến “tức thân thành Phật”
của mật tông, trong Văn Sao của Ấn Quang Đại Sư
đă nói rất rơ ràng, chúng ta không cần phải bàn
nhiều. Trước khi lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ văng
sanh không lâu, tôi có gặp ông, ông cũng là
truyền nhân của mật tông, bản thân ông là Kim
Cang Thượng sư. Ông rất thành thật nói với tôi :
“Vào thời đại này, căn cơ để học mật đă không
c̣n nữa”, nói cách khác, học mật nếu muốn ngay
đời này thành tựu th́ không thể t́m ra. Mật tông
không thể thành tựu, thiền tông cũng rất khó
tương tự. Kinh Đại Tập, Phật nói : “Thời kỳ mạt
pháp chỉ có pháp môn Tịnh độ đới nghiệp văng
sanh”, pháp này dễ dàng thành tựu, hơn nữa c̣n
thành tựu ổn định. Chúng ta tuân theo lời giáo
huấn của Phật Thích-Ca Mâu-Ni chính là học sinh
tốt của Phật, chăm chỉ nỗ lực niệm Phật, y theo
ba kinh một luận của Tịnh độ mà tu tập, tương
lai nhất định có kết quả tốt
đẹp.
Từ xưa đến nay, niệm Phật
văng sanh đă có rất nhiều tướng lạ không thể
nghĩ bàn. Những người này biểu hiện rơ ràng để
chúng ta xem. Mật tông “tức thân thành Phật”,
chúng ta chưa hề thấy qua, cũng không hề nghe
nói. Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cũng không dám nói
ḿnh “tức thân thành Phật”. Lăo Pháp-sư Đàm Hư
sống đến hơn chín mươi tuổi mới văng sanh. Sinh
tiền ông nói với người rằng ông gặp qua rất
nhiều vị thiện tri thức của thiền tông, gặp qua
người có được thiền định, nhưng chưa gặp qua
người khai ngộ, cũng chính là người “minh tâm
kiến tánh”. Không những không thấy qua mà c̣n
không hề nghe nói. Do đây có thể biết, mật và
thiền rất khó, tuyệt đối không phải người thông
thường có thể thành tựu.
Đại sư tổ thứ sáu thiền
tông (Huệ-Năng) nói rất hay, đối tượng mà ngài
tiếp dẫn là người thượng thượng căn. Chúng ta tự
nghĩ xem ḿnh có căn khí thượng thượng căn hay
không ? Thế nào gọi là thượng thượng căn ? Phiền
năo nhẹ, trí tuệ lớn. Nói cách khác, vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước rất ít; sáu căn thông lợi,
mắt vừa thấy, tai vừa nghe, thân vừa tiếp xúc
liền thông đạt, liền thông suốt, hơn nữa không
có sai lầm. Căn tánh như vậy mới xem là người
thượng thượng căn, bạn mới có duyên phận tiếp
nhận tu học pháp môn này.
Điều kiện của mật tông
th́ cao hơn. Trong kinh đại-thừa, mật tông nói
“tức thân thành Phật”, lời nói này cũng không
phải giả, học Phật không học mật nhất định không
thể thành Phật, có thể thấy được mật rất quan
trọng. Mật không phải là bí mật, Phật pháp không
có bí mật. Phàm có bí mật, th́ đó không phải là
việc tốt, tại sao ? V́ không thể nói với người
th́ sao là việc tốt được ? Phật pháp nói cái mật
này là thâm mật, không phải thiển trí, không
phải người huệ ít mà có thể lănh ngộ, cho nên
gọi nó là mật. Vậy lúc nào mới có thể chính thức
bắt đầu học mật ? Pháp đại-thừa nói, khi thành
Bát-Địa Bồ-tát. Liệu bạn đang là Bồ-tát địa thứ
mấy? Bồ-tát Bát-Địa chính thức học mật v́ họ đă
chứng được bất động địa.
Thông thường chúng ta nói
tu hành thành Phật cần phải trải qua ba
A-tăng-kỳ kiếp, người hiện đại gọi con số này là
con số thiên văn, không phải tính từ hiện tại,
cũng không tính từ đời đời kiếp kiếp trong quá
khứ của chúng ta, mà tính từ ngày bạn phá được
nhất phẩm vô-minh, thấy một phần chân tánh. Rơ
ràng hơn, nếu bạn đoạn kiến tư phiền năo, siêu
việt sáu cơi luân hồi, chứng được quả A-La-Hán,
đă là rất tốt, vậy cũng không tính. Bạn có thể
tiến thêm một bước, phá trần sa vô-minh siêu
việt mười pháp giới, vẫn chưa tính. Cần phải
tiến thêm một bước nữa, phá nhất phẩm vô-minh,
chứng một phần pháp thân, lúc đó bắt đầu tính từ
ngày này, thực tế chính là bốn mươi mốt vị pháp
thân đại sĩ mà Kinh Hoa Nghiêm đă nói. Ba
A-tăng-kỳ kiếp là nói đối với họ, không phải nói
với chúng ta, chúng ta không có
phần.
Một A-tăng-kỳ kiếp tu măn
ba mươi ngôi thứ, thập trụ, thập hạnh, thập hồi
hướng, đây là Viên Giáo. A-tăng-kỳ kiếp thứ hai
tu măn bảy ngôi thứ, từ sơ địa đến thất địa.
A-tăng-kỳ kiếp thứ ba tu măn ba ngôi thứ, bát
địa, cửu địa, thập địa, càng lên cao, càng khó
khăn. Vậy Bồ-tát Bát-Địa, việc tu hành của họ đă
tiến vào thời kỳ đầu của ba A-tăng-kỳ kiếp, lúc
này họ mới chính thức học mật, làm ǵ có phần
của chúng ta. Không thể nói truyền cho bạn mấy
câu chú, ngày ngày tŕ chú, học vài thủ ấn th́
gọi là học mật. Đó chỉ là h́nh thức của mật,
không phải thật. Những thường thức này chúng ta
nhất định phải hiểu, về sau mới không sanh ra
quan niệm sai lầm.
6. Vấn đề
thứ sáu : Những năm
gần đây, trong lẫn ngoài nước, tôi thường nghe
các vị đồng tu nói : có một vị Pháp-sư, một vị
đại đức, một vị Lạt-Ma nào đó tự xưng họ chính
là Bồ-tát tái sanh, Phật tái sanh. Người ta đến
hỏi tôi rằng những lời nói này rốt cuộc là thật
hay giả ?
Thực tế họ đă hỏi sai
người, tôi làm sao biết được. Nếu tôi biết được
th́ chẳng phải tôi đă thành Phật rồi. Tôi chưa
thành Phật, làm sao tôi biết họ thành Phật; tôi
không phải là đại Bồ-tát tái sanh th́ làm sao
tôi biết họ là đại Bồ-tát tái sanh. Do đó, những
truyền thuyết này đă mê hoặc rất nhiều đồng tu
học Phật trong xă hội, đặc biệt là sơ học. Thậm
chí không chỉ sơ học, ngay đến lăo tu cũng bị họ
mê hoặc. Tuy không biết họ là thật hay giả,
nhưng trên Kinh Phật có thuyết minh, chư Phật,
Bồ-Tát ứng hóa ở thế gian này đích thực rất
nhiều. Khi chúng sanh có khổ nạn to lớn, chư
Phật, Bồ-Tát đại-từ đại-bi ứng hóa ở thế gian,
cùng ḥa ḿnh với tất cả đại chúng, không nhất
định dùng thân phận ǵ. Giống như trong Phổ Môn
Phẩm đă nói, Bồ-tát Quán-Thế-Âm hiện ba mươi hai
tướng, nên dùng thân ǵ để độ, ngài liền hiện ra
thân đó, nam nữ già trẻ, trong các nghề nghiệp
đều có Phật, Bồ-Tát hóa thân.
Thế nhưng có một nguyên
tắc, họ nhất định không để lộ ra thân phận, nếu
lộ ra thân phận, họ lập tức phải ra đi, không
thể lưu lại thế gian này ! Việc này chúng ta đă
xem thấy trong lịch sử, thân phận vừa lộ, mọi
người biết, họ liền ra đi, đó chính là thật. C̣n
nếu nói thân phận lộ ra mà họ vẫn không đi, th́
việc này trở nên kỳ lạ, không hề tương ưng với
kinh, do đó mà biết không phải thật. Không phải
thật chính là giả mạo Phật, Bồ-Tát lừa gạt chúng
sanh, thu danh vọng lợi dưỡng, tạo tội nghiệp.
Chúng ta hiểu những thường thức này th́ sẽ không
đến nỗi bị lừa !
Gần đây nhất, mọi người
mới biết Đại sư Ấn Quang là Bồ-tát Đại Thế-Chí
hóa thân tái sanh. Bạn xem hành nghiệp cả đời
Ngài cùng với người phổ thông phàm tục không hề
khác biệt. Thế nhưng xem việc tu hành của Ngài,
xem Ngài giáo hóa chúng sanh, đích thực rất
tương ưng với nguyên lư nguyên tắc trong Đại
Thế-Chí Bồ-tát Viên Thông Chương. Việc Ngài là
Bồ-tát Đại Thế-Chí tái sanh do một vị cư sĩ nói
trong sách Vĩnh Tư Tập. Trước khi Đại sư văng
sanh bốn năm, lúc đó vị cư sĩ này là một học
sinh sơ trung, chưa hề tiếp xúc Phật-giáo cũng
không tin Phật-giáo. Cô gặp qua một giấc mộng
thấy Bồ-tát Quán-Thế-Âm mặc áo trắng nói với cô
rằng : Bồ-tát Đại Thế-Chí đang giảng kinh thuyết
pháp tại Thượng Hải, khuyên cô đi nghe. Cô hỏi
:“Vị nào là Đại Thế-Chí Bồ-tát ?”. Ngài liền
nói: “Vị ấy là Pháp-sư Ấn Quang”. Sau đó cả nhà
đi gặp Pháp-sư Ấn Quang, đem sự việc nằm mộng
nh́n thấy được nói ra. Pháp-sư Ấn-Quang mắng cô
một trận v́ tội yêu ngôn hoặc chúng, về sau
không được phép nói nữa, nếu nói nữa th́ cô đừng
đến chỗ Ngài. Cô mất hồn không dám nói nữa. Bốn
năm sau, Ấn-Quang Đại sư văng sanh, cô mới đem
việc này công bố ra.
Cho nên chân thật là
người tái sanh nhất định sẽ không để bộc lộ thân
phận. Bộc lộ thân phận mà không đi, là có vấn
đề. Pháp-sư Ấn Quang một mực phủ nhận, làm ǵ có
việc tự ḿnh xưng là Phật, Bồ-Tát tái sanh.
Chúng ta phải cẩn thận để ứng
phó.
7. Vấn đề
thứ bảy : xă hội lưu
hành phổ biến tập tục cúng bái. Ở Đài-Loan,
phương Nam Trung-Hoa từ xưa thường chọn ngày
mùng một và mười lăm đi lễ chùa, mục đích cầu
phước, cầu khỏe mạnh sống lâu, thăng quan phát
tài. Có hiệu quả không ?
Những sự lư này, b́nh
thường trong lúc giảng kinh chúng tôi đều đă nói
qua nhiều lần. Xin nói với các vị, không có hiệu
quả. Tuyệt đối không phải bạn đi bái lạy th́
chân thật có thể tiêu tai được phước, làm ǵ dễ
đến vậy ? Chúng ta nhất định phải hiểu đạo lư
nhân quả. Tai nạn có nhân duyên của tai nạn,
phước đức có nhân duyên của phước đức. Trồng
nhân thiện nhất định được quả thiện, viễn ly tất
cả nhân ác th́ bạn sẽ không gặp phải tai nạn.
Nhân duyên quả báo là chân lư, chúng ta phải tin
tưởng.
Người thế gian, đặc biệt
là những quốc gia đang mở cửa, đời sống nhân dân
giàu có, khi giàu có th́ tăng thêm ḷng tham sân
si. Trước tiên là phải cầu sống lâu, cầu không
già, Tần Thủy Hoàng, Hán Vơ Đế thời xưa cầu sống
lâu không già, hiện tại nhân gian cũng đều đang
mong cầu sống lâu không già, nhưng có thể cầu
được hay không ? Tần Thủy Hoàng chết rồi, Hán Vơ
Đế cũng chết rồi, chúng ta phải tin tưởng sanh
ra th́ nhất định phải chết, ai có thể thoát được
cửa này.
Xă hội hiện tại xem
tướng, đoán mạng, xem phong thủy th́ làm ăn sẽ
đặc biệt hưng vượng. Tướng mạng phong thủy có
hay không ? Đích thực là có, tướng mạng là số,
phong thủy là hoàn cảnh cư trú. Người thông
thường không có sức định, không có trí tuệ, tâm
tùy cảnh chuyển, cho nên hoàn cảnh cư trú ảnh
hưởng tâm trạng của họ, vậy th́ hoàn cảnh cư trú
không thể không xem trọng, không thể không chọn
lựa. Nhưng tốt xấu của phong thủy th́ tuyệt
nhiên không hề nhất định, ông này ở đây th́ rất
tốt, ông kia ở đây lại chưa hẳn thích hợp. Do
đây mà biết, hoàn cảnh cư trú đều do nhân của
người mà khác nhau, nó không cố
định.
Ngạn ngữ có câu “Người
phước ở đất phước, đất phước người phước ở”, lời
nói này rất có đạo lư. Nếu bạn chân thật có
phước báu, phong thủy nơi bạn ở vốn dĩ không
tốt, nó tự nhiên sẽ đổi tốt, cảnh tùy tâm
chuyển, việc này Phật đă nói. Cảnh chính là
phong thủy, là hoàn cảnh cư trú, tùy theo tâm
chuyển. Chúng ta nương vào nguyên tắc này để xem
hoàn cảnh địa cầu của chúng ta hôm nay, đại hoàn
cảnh mà chúng ta đang cư trú. Tâm người hiện tại
tham-sân-si-mạn đang gia tăng tốc độ, làm cho
đại hoàn cảnh của chúng ta vốn dĩ tốt đẹp, nhưng
hiện tại đă bị tàn phá, đây không phải là phong
thủy tùy theo tâm chuyển hay sao ? Đại hoàn cảnh
mà như vậy, th́ hoàn cảnh nhỏ cũng không ngoại
lệ.
Kim Sơn Hoạt Phật là
Pháp-sư Diệu Thiện, chùa Kim Sơn Trấn Giang đầu
năm dân quốc, con người này khi c̣n ở đời, h́nh
tướng của ngài gần giống Tế Công Trưởng lăo thời
xưa, biểu hiện khùng khùng điên điên, nhưng lời
Ngài nói, việc Ngài làm, chân thật là sự nghiệp
Như Lai. Ngài đă từng có một đoạn nói đến việc
đoán mạng :“Tiên sinh đoán mạng, ngay đến mạng
của chính ḿnh cũng không biết th́ làm sao có
thể biết được mạng của người khác”. Họ làm nghề
xem tướng đoán mạng v́ muốn kiếm tiền sinh sống
th́ họ làm ǵ đoán đúng được. Đoán mạng chuẩn
xác chỉ có Phật Thích-Ca Mâu-Ni, ngài là bậc cao
minh đoán rất chuẩn. Ngài kết luận, không nên
tin tưởng mạng, phải tin tưởng nghiệp, v́ mạng
do nghiệp tạo. Không làm việc ác, mạng của bạn
liền sẽ tốt; c̣n bạn không ngừng tạo ác, vẫn hại
người lợi ḿnh mà c̣n mong mạng ḿnh tốt, làm ǵ
có đạo lư này ? Chúng tôi trong lúc giảng kinh
cũng thường hay nhắc nhở đồng tu, hại người nhất
định không thể lợi ḿnh. Chỉ cần bạn b́nh lặng
quan sát từ lịch sử đến xă hội hiện đại, phàm hễ
làm những việc hại người lợi ḿnh, đến sau cùng
đều thất bại thê thảm, Phật pháp gọi là “báo ứng
hiện đời”. C̣n quả báo đời sau th́ nhất định ở
ba đường khổ, c̣n ǵ khổ hơn ?
Pháp-sư Diệu Thiện nói
:“Chúng ta phải tin tưởng nghiệp, không cần lo
nghĩ đến vấn đề vận mạng”, không cần thiết phải
xem tướng đoán mạng cũng không cần phải xem
phong thủy ! Chúng ta cần phải ghi nhớ điều này
! Nếu trong hoàn cảnh cư trú này, bạn cảm
thấy rất tốt th́ đó chính là phong thủy tốt,
thích hợp với bạn. Bày trí giường đơn, bàn ghế
sao cho thích hợp, bạn cảm thấy thoải mái chính
là phong thủy tốt đối với bạn. Mời thầy xem
phong thủy rồi bày trí theo ư ông ta, như vậy
vận mạng của bạn đă bị người khác sắp xếp, khống
chế. Bạn sẽ thật tội nghiệp. Tuy bạn có tiền
của, có địa vị, có phú quư, nhưng bạn ngu si,
mặc t́nh cho người khác bỡn cợt. Đây là người
đáng thương mà Kinh Phật đă nói. Phật dạy người
phải đội trời đạp đất, dạy người tự làm chủ thể,
không nên nghe người sắp đặt. Những mê tín này
nhất định phải phá trừ.
8. Vấn đề
thứ tám : đại chúng
trong xă hội thường hiểu lầm và hoài nghi việc
niệm Phật cầu sanh thế giới Tây phương Cực-Lạc
!
Người niệm Phật đương
nhiên không hoài nghi đối với những ǵ Phật đă
nói. Phật dạy người không vọng ngữ, vọng ngữ là
đại giới của nhà Phật th́ Phật làm ǵ vọng ngữ.
Phật nói thế giới Tây phương Cực-Lạc nhất định
là chân thật. Hiện tại khoa học kỹ thuật phát
triển cũng phát hiện ra vô lượng tinh cầu trong
thái hư không. Hiện nay cũng thường nghe nói đến
người ngoài hành tinh, người ngoài thái không,
sự việc này càng ngày càng nhiều. Địa cầu của
chúng ta có người ở, lẽ nào tinh cầu khác không
có người ở. Thế giới Tây phương Cực-Lạc chẳng
phải là một tinh cầu khác hay sao, đều là việc
rất có thể. Đấy là chúng ta dùng khoa học cạn
cợt nhất để trắc nghiệm, nó nhất định không phải
giả. Nếu dùng khoa học kỹ thuật cao hơn để nói
sẽ làm chúng ta càng dễ dàng lư giải. Khoa học
gia chứng minh không gian là đa duy thứ, chúng
ta gọi không gian ba chiều, bốn chiều. Chúng ta
hiện đang ở trong không gian ba chiều, người ở
trong không gian bốn chiều được xem như thần
tiên. Khoa học gia chứng thực chí ít có đến mười
một chiều không gian, cách nói này rất thú vị,
rất giống trong Phật pháp nói về mười pháp giới.
Do đây mà biết, nhà Phật nói mười pháp giới thực
tế chính là không gian duy thứ không đồng nhau.
Duy thứ càng cao, hoàn cảnh sinh hoạt của cảnh
giới đó càng thù thắng, không gian sinh hoạt của
họ càng rộng lớn. Đến duy thứ cao nhất, cứu cánh
viên măn th́ không gian hoạt động của họ là tận
hư không khắp pháp giới, khoa học gia cũng phát
hiện ra.
V́ sao h́nh thành vấn đề
này, họ tuyệt nhiên không biết; làm thế nào đột
phá, họ cũng không biết. Nhưng Kinh Phật lại nói
rất thấu triệt, mười pháp giới h́nh thành do
vọng tưởng phân biệt chấp trước. Vậy làm thế nào
để đột phá ? Dùng công phu thiền định, đem không
gian trùng trùng vô hạn độ này đột phá, sau đó
bạn mới thấy được chân tướng của vũ trụ nhân
sanh, đó gọi là pháp giới nhất chân, tương ưng
với khoa học gia đă phát hiện.
9. Vấn đề
thứ chín : trong pháp
môn Tịnh độ, lại có người hỏi rằng :“Đại đức xưa
đă nói ‘sanh th́ nhất định sanh, đi th́ thật
không đi’, vậy rốt cuộc có văng sanh hay không
?”
Sanh th́ nhất định sanh,
đi th́ thật không đi, v́ sao thật không đi ? Bạn
tuyệt nhiên không hề rời khỏi pháp giới này!
Chúng ta có thể dùng ti vi làm thí dụ, màn h́nh
ti vi chỉ lớn như vầy, qua màn h́nh, bên này là
Đài Loan, bên kia là nước Mỹ, bạn thấy một người
mang hành lư lên máy bay đến nước Mỹ. Cảnh giới
nước Mỹ hiện ra trước mặt, nhất định anh ta đă
đi đến nước Mỹ, nhưng anh ta không hề rời khỏi
màn h́nh. Cũng vậy, kênh đài hiện tại của chúng
ta là thế giới Ta-bà, khi vừa chuyển kênh liền
đến cơi nước Phật A-Di-Đà ở thế giới Cực-Lạc,
nhưng thực ra vẫn ở b́nh diện này, vẫn trong
pháp giới này. Cho nên từ nhất chân pháp giới mà
nói, không có đến đi. Từ văng sanh mà nói,
chuyển đổi kênh là thật, mười pháp giới là mười
kênh không giống nhau. Tuy kênh đài không giống
nhau, nhưng đều trong pháp giới này, cũng đều
đang ở trong một màn h́nh, không hề rời khỏi.
Bạn từ thí dụ này mà thể hội. Bạn đối với chân
tướng sự thật ít nhiều có thể lư giải đôi chút,
sau đó mới biết ḿnh có muốn văng sanh Tịnh độ
hay không. Chỉ có sanh đến thế giới Tây phương
Cực-Lạc, chúng ta mới có thể đột phá được thời
không duy thứ vô hạn. Việc này khoa học gia măi
đến hôm nay vẫn không cách ǵ đột phá. Họ biết
nếu có thể tiến vào không gian bốn chiều, năm
chiều, liền có thể trở về quá khứ hay tiến vào
vị lai. Vậy th́ dục giới thiên, sắc giới thiên,
vô sắc giới thiên, duy thứ của họ không giống
với duy thứ chúng ta. Ở trong cảnh giới đó, họ
biết được quá khứ cũng biết được vị lai. Họ có
thể hóa thân ở đời quá khứ cũng có thể ứng thân
đến đời vị lai, thật được đại tự tại. Cho nên
trùng trùng cảnh giới mà Kinh Phật nói, dần dần
được khoa học hiện đại chứng thực. Tuy nhiên
khoa học không biết được lẽ đương nhiên của nó,
cũng không biết dùng phương pháp ǵ có thể đột
phá, có thể tiến vào cảnh giới này. Chỉ có Phật
pháp cao minh, hiểu rơ lẽ đương nhiên, cũng biết
dùng phương pháp ǵ để đột phá, chúng ta nhờ đó
liền khẳng định đối với thế giới Tây phương
Cực-Lạc. Vậy văng sanh thế giới Tây phương
Cực-Lạc có tiêu cực không ? Không tiêu cực ! Bạn
nói nó tiêu cực, nó trốn tránh hiện thực, là
hoàn toàn sai lầm, đây là thiên kiến. Phật đặc
biệt nói rơ Kinh Vô-Lượng-Thọ không phải Kinh
tiểu-thừa mà là Kinh đại-thừa. Không những
đại-thừa mà đại-thừa ngay trong đại-thừa,
nhất-thừa ngay trong nhất-thừa, là kinh điển cứu
cánh liễu nghĩa, nên mới được mười phương tất cả
chư Phật tán thán, tất cả chư Phật tuyên dương,
đây là chân tướng sự thật, làm ǵ trốn tránh
hiện thực.
Đến thế giới Tây phương
Cực-Lạc không phải đi hưởng thụ, nếu bạn vẫn c̣n
ư niệm hưởng lạc th́ cái vọng tưởng này khiến
bạn không thể đi. Điều kiện đi thế giới Tây
phương là “Tâm tịnh thời cơi nước tịnh”. Niệm
Phật là phương pháp cần phải đạt đến tiêu chuẩn
nhất định mới có thể văng sanh. Tiêu chuẩn là
tâm thanh tịnh, dùng phương pháp niệm Phật tu
tâm thanh tịnh mới có năng lực và tư cách văng
sanh Tịnh độ. Tâm không thanh tịnh, vọng tưởng
phân biệt chấp trước vẫn tồn tại, th́ mỗi ngày
bạn niệm mười vạn Phật hiệu cũng không ích ǵ,
người xưa nói “đau mồm rát họng chỉ uổng công”.
Cũng giống như người đọc sách, học tập rất dụng
công, báng mạng mà học, khi thi th́ không đạt
tiêu chuẩn, vậy có ích ǵ. Cho nên phải chú
trọng hiệu quả thực tế. Tiêu chuẩn Kinh Di-Đà là
“Nhất tâm bất loạn”, chúng ta dùng phương pháp
“Chấp tŕ danh hiệu” để đạt đến nhất tâm bất
loạn !
Sanh đến thế giới Tây
phương Cực-Lạc là cầu học, đến nơi đó để hoàn
thành học vị, để làm Phật, đồng nghĩa thành tựu
trí tuệ cứu cánh viên măn, học đến bản lĩnh đầy
người, không ǵ không biết, không ǵ không thể.
Sau đó bạn mới có thể ở hư không khắp pháp giới,
giúp đỡ tất cả chúng sanh khổ nạn, gọi là Phật
độ chúng sanh, giúp chúng sanh phá mê khai ngộ,
hiểu rơ chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Đây là
giá trị chân thật, nhất định phải niệm Phật cầu
sanh thế giới Cực-Lạc. Lời nói này tuyệt đối
không gạt người, là lời tâm huyết của tất cả chư
Phật hết mực chân thành khẩn thiết khuyên dạy
chúng ta. Phật không có yêu cầu ǵ, không cần
chúng ta phải cung kính Phật cũng không cần
chúng ta cúng dường, Phật vô điều kiện. Phàm hễ
giả dối lừa gạt người là họ luôn có mục đích,
luôn có ư đồ. Chư Phật, Bồ-Tát đối với tất cả
chúng sanh không có bất cứ ư đồ ǵ, cũng không
có bất cứ điều kiện ǵ, mỗi câu đều là lời chân
thật.
Phần 1 : Rộng Mở Tâm
Lượng
Trong việc tu học Phật
pháp, muốn tự nâng cao cảnh giới của chính ḿnh,
có rất nhiều phương pháp. « Mở rộng tâm
lượng » là một trong các phương pháp
đó.
Trong đại-thừa kinh điển,
chúng ta thấy các vị pháp thân đại sĩ, tức là
những người đă minh tâm kiến tánh, tâm lượng của
các Ngài rộng lớn như hư không, bao trùm cả pháp
giới, v́ thế, cái nh́n của các Ngài đối với tất
cả chúng sanh trong hư không và khắp pháp giới
đều b́nh đẳng. Thế nào là b́nh đẳng ? Vô
niệm là b́nh đẳng, c̣n có niệm là không b́nh
đẳng. Phật trụ vô niệm.
Trong Kinh Kim Cang có
câu : « Ưng vô sở trụ, sở trụ vô trụ »
. « Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm »,
vô trụ tất cả là Phật trụ, mà vô trụ là vô
niệm.
Chúng sanh trong chín
pháp giới c̣n có chỗ để trụ. Ví
như :
+ Chư Bồ-Tát
trụ ở cảnh giới Lục Độ.
+ Duyên-Giác
trụ ở Nhân Duyên.
+ Thanh-Văn
trụ ở Tứ Đế.
+ Ngạ-quỷ
trụ ở cảnh giới Tham.
+ Địa-ngục
trụ nơi Sân.
+ Súc-sinh
trụ ở cảnh Si Mê.
Tâm của tất cả chúng sanh
nầy đều c̣n chỗ để trụ, để dính mắc. Nói cách
khác là tâm của chúng ta như thế nào, th́ cảnh
giới của chúng ta như thế đó.
Phàm phu chúng ta muốn
trụ nơi cảnh giới vô trụ của Phật, là điều không
thể đạt được. Tuy nhiên, Phật thường dạy cho
chúng ta một phương pháp vô cùng thù thắng và
tiện lợi, để có thể dự vào cảnh giới vô trụ của
các ngài. Đó là Pháp môn niệm
Phật.
Bồ-Tát trụ ở nơi Lục
độ ; chúng ta trụ nơi Phật trụ. Như vậy
chúng ta được nâng cao hơn đẳng cấp của Bồ-tát,
thế nhưng, tiếng niệm Phật của chúng ta phải
tương ưng. Thế nào gọi là tương ưng ? Mỗi
một tiếng niệm Phật, chúng ta phải trải ḷng từ
bi của ḿnh đến với tất cả chúng sanh trong hư
không và lan rộng đến khắp pháp giới. Mỗi tiếng
niệm Phật đều v́ lợi ích chúng sanh, đều mang
ḷng ban vui cứu khổ đến cho mọi
loài.
Có người hỏi :
« Tiếng niệm Phật của chúng ta thực tế có
lan rộng đến hư không khắp pháp giới hay
không ? » Khẳng định là
có !
Trong Kinh Phật
nói : « Tướng không rời tâm, tâm không
rời tướng ». Cái chân tâm của chúng ta,
nguyên gốc của nó rộng khắp hư không, trùm khắp
pháp giới. Sở dĩ tiếng niệm Phật của chúng ta
không ḥa nhập vào với hư không, là v́ chúng ta
c̣n nhiều vọng tưởng, phân biệt và chấp trước
làm chướng ngại bản năng tự nhiên của ḿnh. Nếu
âm ba của tiếng niệm ḥa nhập với âm ba của tâm,
tức chân tâm lan rộng vào hư không, tiến sâu vào
khắp các pháp giới, cho dù chư Phật thuyết pháp
ở xa xôi, bất luận nơi nào, một khi tâm đă lắng
động, không c̣n chướng ngại chúng ta vẫn có thể
nghe được âm thanh lời pháp của các Ngài rơ
ràng, v́ tâm từ bi của các Ngài luôn trải rộng
đến cơi Ta-Bà này của chúng ta, cũng như chúng
sanh ở các pháp giới khác. Đây là sự thật, không
hề hư dối.
Vậy th́ âm ba của Phật có
thể rộng khắp, âm ba phàm phu của chúng ta cũng
có thể rộng khắp, cho nên mở rộng tâm lượng
trong pháp môn niệm Phật là một phương pháp rất
vi diệu, rất đặc biệt thù thắng, có thể khiến
phàm phu trong một kiếp được b́nh đẳng, được
thành Phật.
Người thật sự biết niệm
Phật, sự lợi ích, niềm an lạc mà họ đạt được,
phàm phu chúng ta không thể nào hiểu thấu, mà họ
cũng không thể giải thích rơ cho chúng ta, v́ có
giải thích, chúng ta cũng không hiểu. Giống như
ai uống nước, tự người đó biết nóng hay lạnh,
mùi vị ngọt đắng ra sao vậy. Nguyên tắc thuyết
pháp của chư Phật cũng thế ! Những điều
chúng sanh có thể hiểu được, các Ngài mới
nói ; nếu không hiểu được, tuyệt đối đều
không nói.
Tóm lại, công phu niệm
Phật có đắc lực hay không, chúng ta có thể thấy
biết qua cảnh giới tâm lượng và sắc tướng của
người đó.
Một khi công phu niệm
Phật đắc lực rồi, chắc chắn trên gương mặt của
chúng ta sẽ luôn tỏ ra niềm vui an lạc tự tại,
trong đạo Phật gọi là pháp hỷ sung
măn.
Chúng ta đọc kinh sách
thường nghe những người tu hành chứng quả A La
Hán, là hàng thánh đạt tới mức chánh định, thân
tâm an ổn, không c̣n thối chuyển. Tất cả những
người do công phu thiền định mà tâm không ô
nhiễm chuyện buồn lo, thân xa ĺa cảnh vui khổ
của thế gian, đều được chứng nhập vào cảnh giới
tam ma địa, tức là cảnh giới không c̣n sanh
diệt. Phàm phu chúng ta nếu c̣n một phẩm vô-minh
chưa dứt đoạn muốn chứng vào cảnh giới cao cấp
này, chỉ c̣n cách nương theo pháp môn tiện lợi
nhất, đó là niệm Phật cầu sanh Tịnh
độ.
Phần
2 : Pháp Môn Tha Lực
Chỉ cần sanh về thế giới
Tây phương Cực-Lạc, chúng ta sẽ chứng cảnh giới
tam ma địa. Tất cả cảnh bất sinh diệt này, sự
chứng đắc này thật ra hoàn toàn không phải do
công phu ở chính ḿnh, mà do một phần tha lực
của Đức Phật A-Di-Đà hỗ trợ, cho nên pháp môn
Tịnh độ c̣n gọi là pháp môn tha lực. Nói một
cách rơ hơn, tự lực là năng lực của chính ḿnh,
y theo lời dạy của chư Phật mà niệm Phật để có
thể hàng phục được những tập khí.
Một khi công phu niệm
Phật thành khối, nhờ sức gia tŕ của Phật
A-Di-Đà, sanh về thế giới Cực-Lạc, vào được cảnh
giới Tây phương gọi là tha
lực.
Pháp môn nhị lực này là
pháp môn duy nhất được chư Phật đề cập trong
Tịnh độ tông. Ngoài sự chứng nhập cảnh giới tam
ma địa, c̣n đạt nhất thiết Đà-La-Ni. Đà-La-Ni là
tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là tổng tŕ. Tổng là
hợp tất cả các pháp. Tŕ là giữ, làm theo tất cả
giáo lư của Phật. Nói theo danh từ hiện nay tổng
tŕ Đà-La-Ni là toàn bộ nguyên tắc dạy chúng ta
làm tất cả điều thiện, xa ĺa các điều
ác.
Hôm nay chúng ta cùng
nhau tụ về nơi này để niệm Phật, cũng có thể gọi
là thực hành môn tổng tŕ Đà-La-Ni, bởi v́ suốt
một ngày một đêm, chỉ duy nhất giữ câu
A-Di-Đà-Phật. Tất cả những vọng niệm, suy nghĩ
khác không c̣n nữa. Vọng niệm không c̣n, những
việc ác không thể xảy ra, như vậy là xa ĺa tất
cả ác. Một câu vạn đức hồng danh thiện pháp cao
tột của thế gian và xuất thế gian, chúng ta chấp
tŕ từng câu liên tiếp không ngừng, để tăng
trưởng thiện căn, đó là tất cả điều thiện.
Mỗi tuần 1 ngày đến niệm
Phật, niệm liên tiếp ba năm, công phu của chúng
ta đáng nể phục lắm. Khi có th́ giờ rổi rảnh,
mỗi ngày đều niệm Phật trong ṿng ba năm thôi,
chúng ta sẽ thành Phật ngay. Bao nhiêu nghiệp
tội trong bao nhiêu lượng kiếp đều dứt sạch.
Trong quyển Văng Sanh Truyện, những người niệm
Phật được văng sanh ngay trong kiếp hiện tại này
của chúng ta thật nhiều vô số kể. Người niệm
Phật văng sanh có nhiều h́nh thức : Có
người đứng, có người ngồi tự biết trước giờ ra
đi, không một chút bịnh hoạn, ra đi một cách vui
vẻ tự tại, đẹp đẽ trang nghiêm. Kết quả văng
sanh này đều do công phu niệm Phật chuyên
cần.
Phần
3 : Giải Trừ Nghiệp
Chướng
Pháp môn Tịnh độ, một
pháp môn hiển bày bốn chữ tiện lợi dễ dàng một
cách rơ rệt. Nếu quư vị không hiểu những lư luận
trong kinh, cũng không thành vấn đề, vẫn có thể
thành tựu. Nếu bảo không cần hiểu nghĩa lư trong
kinh, chỉ một ḷng thành tâm niệm Phật, mà có
thể thành tựu, vậy tôi vẫn phải giảng kinh
thuyết pháp nữa để làm chi ? Sở dĩ tôi vẫn
phải mỗi ngày thuyết giảng không ngừng, đem
những lời hay ư đẹp của đức Thế Tôn ra nói là v́
mong quư vị hiểu, mong quư vị giác ngộ, bởi v́
quư vị đây không đủ phước báo, suốt ngày vọng
tưởng, suy nghĩ lung tung. Vậy ai là người có đủ
phước báo ? Là những người thật thà chất
phác, suốt ngày chỉ ôm giữ một câu A-Di-Đà-Phật,
việc ǵ cũng không nghĩ tưởng. Do đó công phu
niệm Phật của quư vị có thể đến lúc không c̣n
vọng niệm, chỉ c̣n một câu A-Di-Đà-Phật, th́ lúc
đó tam tạng, mười hai bộ kinh điển mà Thế Tôn
suốt 49 năm thuyết pháp đều là dư thừa, quư vị
không cần đến đây nghe tôi giảng giải nữa.
Cho nên Phật độ chúng
sanh có hai hạng người dễ độ : Một là những
người thượng căn lợi trí. Vừa nghe qua liền
thông đạt, liễu ngộ dứt sạch vọng
niệm.
Hai là những người thật
thà ngu dốt, họ không cần t́m hiểu nhiều. Bảo họ
niệm Phật là họ cứ ngoan ngoăn, thật t́nh chấp
tŕ, không nghĩ tưởng điều ǵ ngoài niệm Phật.
C̣n loại Thứ ba là những người lưng chừng thích
khiêng vác ôm đồm, t́m hiểu suy nghĩ lung tung.
Quư vị biết không ? Chúng ta thuộc loại
người thứ ba này đó, loại người nhiều rắc
rối.
Cho nên đức Thế Tôn suốt
trong 49 năm khổ nhọc mỗi ngày không ngừng nói
pháp cũng v́ những người nhiều rắc rối như chúng
ta. Ngài phải đem pháp ly ác giảng nói tỉ mỉ ra
cho chúng ta, mong rằng sau khi quư vị đă hiểu
rơ rồi th́ phải biết buông xả. Trên thế gian
này, người biết buông xả, không có vọng niệm là
người có đại phước báo ; tuyệt đối không
phải có nhiều tiền tài, địa vị cao. Người có địa
vị tiền tài chỉ được hưởng thụ đời sống vật chất
độ vài ba năm, sau khi chết rồi sẽ ra sao ?
Tam đồ lục-đạo phải chịu luân hồi, như thế có
phải là phước đâu ? Nếu tâm không chút vọng
tưởng, suốt ngày chỉ câu A-Di-Đà-Phật, người này
chỉ vài năm sau là đă thành Phật được rồi. Hiểu
được như vậy th́ quư vị mới biết công đức niệm
Phật thật vô cùng thù thắng, không ǵ sánh bằng
!
Đức Thế Tôn sở dĩ phải
bày ra phương tiện nói ra ba thừa, chỉ v́ muốn
dẫn độ chúng sanh mà thôi. Mục đích duy nhất của
Ngài là mong cho chúng ta một đời có thể thành
Phật. Có người hoài nghi rằng :“Tôi rất ngu
si, chậm hiểu, nghiệp chướng lại sâu dày, có thể
thành Phật được không ?”. Trong kinh điển,
Phật thường nói :“Chỉ cần một câu danh hiệu
Phật có thể tiêu trừ 80 ức kiếp sanh tử trọng
tội !”. Chúng ta thử nghĩ xem : Suốt một
ngày một đêm ở niệm Phật đường, chúng ta đă niệm
được rất nhiều tiếng, vậy thử tính xem tội
chướng của chúng ta đă tiêu trừ được biết bao
nhiêu rồi. Điều này chắc thật không sai !
V́ lời Phật nói không hề hư dối, chắc chắn có
hiệu quả tốt, không thể nghĩ bàn. Thế nhưng, v́
sao nhiều người niệm Phật suốt một ngày đêm mà
nghiệp chướng vẫn c̣n đầy ? Bởi v́ nghiệp
chướng của người này quá nhiều. Do đó, công đức
niệm Phật một ngày đêm dù giúp họ tiêu trừ đi
rất nhiều, mà chưa dứt hẳn. Cho nên cần phải mỗi
ngày đều niệm Phật, mỗi ngày giảm bớt đi nghiệp
chướng. Phật dạy chúng ta rằng :“Năng lực
quan trọng nhất để giải trừ nghiệp chướng trong
lúc niệm Phật là không hoài nghi, không xen tạp,
không gián đoạn”. Với ba yếu tố này, năng lực
của không xen tạp mạnh nhứt. Nếu chúng ta giữ
được liên tục, không gián đoạn trong 3 năm, cho
dù nghiệp chướng sâu dày bao nhiêu của vô lượng
kiếp đều có thể giải trừ hết. Làm sao biết được
không c̣n nghiệp chướng ? Hăy nh́n lúc quư
vị văng sanh, có thể ra đi bằng cách ngồi hoặc
đứng rất là tự tại. Sau khi về cơi Tây phương
Cực-Lạc, không phải trụ ở cảnh giới phàm thánh
đồng cư, cũng không phải trụ ở tứ độ văng sanh
mà dự vào hạng thượng phẩm văng
sanh.
Câu danh hiệu Phật giải
trừ nghiệp chướng thật là bất khả tư ngh́. Cho
nên ngài Từ Vân Quán Đảnh Pháp-sư, trong lời chú
giải của bộ Kinh Vô Lượng Thọ nói :“Chúng
sanh nào từ vô lượng kiếp tạo tội, tạo nghiệp
cực ác, cực sâu dày, bao nhiêu kinh luận, tất cả
các sám pháp đều không thể sám trừ được, cuối
cùng vẫn c̣n một phương pháp để có thể cứu văn,
đó là phương pháp niệm Phật”. Cho thấy công đức
niệm Phật thật là to lớn, thù thắng vô cùng
!
Phần
4 : Pháp Môn Tịnh Độ
Trong kinh điển chỉ dạy
rất nhiều phương pháp để chúng ta đi vào, nhưng
không phải phương pháp nào cũng thích hợp với
chúng ta cả. Muốn tu học phải biết tự nhận rơ
căn tánh của ḿnh, tŕnh độ lư giải của ḿnh.
Nói theo danh từ hiện nay là tŕnh độ hiểu biết,
kèm theo khả năng trí nhớ, v́ hai yếu tố này có
quan hệ mật thiết với hoàn cảnh sống và việc làm
của chúng ta. Cho nên từ trong rất nhiều phương
pháp khác nhau, chúng ta phải chọn lấy một
phương pháp phù hợp nhất với điều kiện của ḿnh.
Có như vậy việc tu học mới mong đạt kết quả dễ
dàng.
Tuy nhiên chúng ta tự
ḿnh rất khó biết phải hạ thủ công phu từ đâu.
Làm cách nào để lựa chọn phương pháp ? Phật
nói đến 8 vạn 4 ngàn pháp môn (84.000), làm sao
biết được pháp môn nào là thích hợp ? Một
khi lựa chọn không đúng pháp môn, th́ chẳng
những dụng công nhiều mà kết quả lại ít, sự tu
học khó nhọc ở thế gian này cũng chẳng được một
phần công đức nào, điều này là
thật.
Chính bởi t́nh trạng như
vậy, cho nên đức Thế Tôn mới v́ chúng sanh thời
mạt pháp này chỉ bày ra một con đường. Đó là
Pháp môn Tịnh-độ. Pháp môn Tịnh độ cũng là pháp
môn của chư Phật giúp chúng ta lựa chọn, thế
nhưng pháp môn này cũng có rất nhiều phương pháp
tu học. Tất cả chư Phật đều nhất khẩu đồng thanh
chỉ dạy và giúp chúng ta lựa chọn phương pháp
tŕ danh niệm Phật.
Trong Kinh A Di Đà dạy
chúng ta tŕ danh niệm Phật. Kinh Vô Lượng Thọ
cũng dạy chúng ta tŕ danh niệm Phật. Trong Quán
Kinh nói nhiều hơn. Ngoài tŕ danh niệm Phật ra,
c̣n quán tưởng niệm Phật, quán tượng niệm Phật.
Như vậy chúng ta thấy rơ ràng trong ba bộ Kinh A
Di Đà, Vô Lượng Thọ và Quán Kinh, Phật đều
khuyên chúng ta giữ phương pháp chấp tŕ danh
hiệu Phật. Chính v́ thế chúng tôi lựa chọn và đề
xướng phương pháp này.
Qua phương pháp tŕ danh
niệm Phật, những người được lợi ích rất nhiều,
kết quả văng sanh vô số kể. Nếu theo phương pháp
này mà chân chính tu hành sẽ rất cận kề với Hoa
Nghiêm Tam Muội, lại hội đủ nguyên tắc hiện thực
Bách Thiên Tam Muội. Thật là một pháp môn không
thể nghĩ bàn, một pháp môn đơn giản, dễ dàng,
chắc chắn, mau chóng. Chỉ cần buông xả vạn
duyên, giữ chặt câu Phật hiệu & niệm
tới.
Một số người niệm Phật,
công phu không được đắc lực, v́ không buông xả
được vạn duyên, tự tạo cho ḿnh một chướng ngại
trầm trọng. Chướng ngại này, người khác không
thể nào giúp. Chư Phật, Bồ-Tát cũng không thể
giúp. Nhất quyết phải do chính bản thân ḿnh
chịu buông xả. Bất luận điều ǵ không nên chấp
giữ trong ḷng, chỉ giữ một câu Phật hiệu : Nam
mô A-Di-Đà-Phật. Trong tâm nương theo Phật mà
niệm Phật, hiện tiền, tương lai nhất định thành
Phật !
Phần
5 : Tự Hành Hóa Tha
Chư cổ đức thường
nói : « Phát Bồ-Đề tâm nhất hướng
chuyên niệm câu A-Di-Đà-Phật là một pháp môn vô
cùng thù thắng, mau chóng và chắc chắn ».
Mau chóng ở chỗ nào ? Trong Quán Kinh nói
thị tâm thị Phật, có nghĩa tâm này tức là Phật.
Thị tâm thị Phật, có nghĩa tâm này làm Phật.
Hai câu này vô cùng quan
trọng, và gồm thu vô lượng vô biên các pháp môn
mà chư Phật đă nói. Thị tâm thị Phật, nói về Lư,
nghĩa là tất cả chúng sanh đều có tâm, tâm của
chúng sanh hữu t́nh là Phật tâm. C̣n tâm của
chúng sanh vô t́nh th́ gọi là pháp tâm. Phật tâm
và pháp tâm là một, chẳng phải hai. Thế nhưng
một tâm sao lại biến thành hai h́nh tướng khác
nhau ? Bởi v́ một bên có tư có tưởng nên
trở thành hữu h́nh. Ngược lại, th́ biến thành vô
t́nh chúng sanh.
Trong Pháp Tướng Tông nói
rất rơ : « Tất cả chúng sanh bản lai
là Phật ». Vậy nguồn gốc đă là Phật, hiện
giờ lại phát tâm niệm Phật, làm Phật, có lư nào
lại không thành Phật ! Do đó vấn đề then
chốt để làm Phật là phải niệm Phật, v́ niệm Phật
là phương pháp chính yếu, phương pháp trực tiếp.
Câu hỏi đặt ra là v́ sao bảo chúng ta niệm Phật
A-Di-Đà, mà không niệm danh hiệu các vị Phật
khác ? Chúng ta đọc Kinh Vô Lượng Thọ sẽ
thấy rơ ràng là Phật A-Di-Đà là Quang Trung Chí
Tôn, Phật Trung Chi Vương. Một vị Phật vĩ đại
với quả đức vô cùng mỹ măn cứu cánh và thiết
thực, mà tất cả mười phương chư Phật đều đồng
thanh tán thán.
Thưa quư vị, tất cả pháp
đều do tâm nghĩ tưởng đến Phật A-Di-Đà, niệm
Phật A-Di-Đà, chúng ta sẽ là Phật A-Di-Đà. Lư do
khuyên bảo quư vị không nghĩ tưởng điều ǵ ngoài
sự nhất tâm chuyên niệm A-Di-Đà-Phật là như
vậy.
Hơn nữa trong Kinh Đại
Tạng đă nói rất rơ ràng đầy đủ là « nhất
giải nhất thiết giải » . Nghĩa là
khi ta niệm một
danh hiệu Phật A-Di-Đà, là niệm đủ mười phương
ba đời tất cả chư Phật, do đó đừng lo ngại hay
phân biệt, chấp trước rằng, niệm Phật này là bỏ
Phật kia. Không phải
thế !
Sau khi chúng ta đă nhận
định rơ ràng sự thật được rồi, kế tiếp là phải
vững tâm bền chí dũng mănh dựa vào Phật thất
trong niệm Phật đường. Phương pháp thường được
nhắc đến trong niệm Phật đường là tự hành hóa
tha, nghĩa là tự ḿnh tu hành và lợi lạc độ cho
người khác, do đó phải vào niệm Phật đường, cần
phải cùng nhau tu tập.
Phần
6 : Niệm Phật Đối Trị Vọng
Tưởng
Niệm Phật phải lấy kinh
hành làm chính. Khi nào chúng ta mỏi th́ ngồi
xuống nghỉ ngơi. Giờ giấc ngủ nghỉ cố giảm thiểu
tới mức tối đa, bởi v́ ngủ là hôn trầm. Người
nào ngủ nhiều, chứng tỏ người đó c̣n nhiều hôn
trầm. Hôn trầm là lạc vào vô-minh, nhiều vọng
tưởng, lạc vào trạo cử. Không riêng ǵ trong lúc
niệm Phật, khi làm việc mà hôn trầm, hoặc trạo
cử đều bị chướng ngại. Trong nhà Phật gọi hai
thứ chướng ngại này là : Hôn trầm và trạo
cử.
Trạo cử là tâm xao xuyến,
không định, bị nhiều vọng tưởng chi phối. Hôn
trầm là u mê, không sáng suốt, ngủ
gục.
B́nh thường, ta không
thấy có vọng niệm, nhưng khi ngồi yên xuống,
vọng niệm mới nổi lên rất nhiều. Có người cho là
do niệm Phật mà có. Thưa quư vị, không phải như
thế ! Không phải do niệm Phật mà sanh nhiều
vọng niệm đâu ! Thực tế trong lúc b́nh
thường, chúng ta đă có rất nhiều vọng niệm rồi,
nhưng chúng ta không để ư đó thôi. Khi ngồi yên
lặng xuống niệm Phật, muốn thu nhiếp tâm lại,
mới phát giác rơ ràng như thế. Với loại chướng
ngại này, Phật đă chỉ cho chúng ta hai phương
pháp đối trị :
Thứ nhất là dùng phương
pháp chỉ tịnh để đối trị vọng tưởng, nghĩa là
trụ ở một chỗ, hoặc trụ nơi danh hiệu Phật, hay
niệm ở trong tâm cũng được, nếu không niệm thành
tiếng. Cũng có thể nghe người khác niệm, chỉ cần
dụng tâm chuyên nhất, vọng niệm tự nhiên tan
biến. Tuyệt đối không nên tạo tác thêm vọng
niệm, nghĩa là đừng nên có ư nghĩ miễn cưỡng dập
tắt vọng tưởng, nếu không sẽ có vọng tưởng tan
theo vọng tưởng. Do đó dù có tưởng nhiều bao
nhiêu cũng mặc kệ, đừng để ư đến làm ǵ. Hăy dồn
hết tinh thần ư chí, tập trung vào câu danh hiệu
Phật, hoặc tập trung vào quán tưởng, quán tượng.
Quán tưởng điều ǵ đây ? Tưởng h́nh Phật.
Hai mắt nhắm lại nghĩ đến h́nh ảnh của Phật, đến
tướng hảo của Phật. Tóm lại cần phải tập trung
tinh thần, ư chí mới có thể điều phục được vọng
tưởng. Hầu hết tất cả các nguyên tắc dụng công
vào nhằm một đích tiêu trừ vọng tưởng, hôn trầm,
tạp niệm. để hồi phục lại bản tánh giác ngộ của
ḿnh. Nói chung, trong nhà Phật bất luận sự dụng
công nào đều hy vọng đạt được 3 mục đích
này.
Phương pháp thứ hai là
đối trị hôn trầm. Nếu trong lúc ngồi niệm Phật
bị hôn trầm, tốt hơn hết hăy đứng lên lạy Phật.
Lạy Phật và kinh hành niệm Phật là phương pháp
đối trị hôn trầm rất có hiệu quả. Lạy Phật làm
cho tinh thần tỉnh thức. Trong lúc lạy Phật,
điểm đặc biệt cần lưu ư là lạy Phật để sám hối,
bởi v́ nghiệp chướng, tập khí của chúng ta rất
là nặng nề. Cho nên trong niệm Phật đường, nhất
là người sơ học nên mỗi ngày đạt tiêu chuẩn trên
300 lạy là rất tốt, rất có
lợi.
Chúng ta thường nghe
trong đại-thừa kinh điển nói rằng :
« Tu hành trong thời mạt pháp, niệm Phật là
pháp môn thù thắng nhứt » . Đức Phật
Thích-Ca Mâu-Ni bày nói 8 vạn 4 ngàn pháp môn,
nói vô lượng pháp môn, đó không phải là bổn ư
của ngài, chỉ v́ ứng cơ thuyết pháp để dẫn độ
chúng sanh mà thôi !
Phần
7 : Văng Sanh Tây Phương
Cực-Lạc
Trong Văng Sanh Truyện
chúng ta thấy có rất nhiều người công phu niệm
Phật được văng sanh tự tại, biết trước giờ giấc
ra đi, không một chút bịnh hoạn, gương mặt lại
tươi đẹp hơn b́nh thường. Nhiều người không hiểu
lại cho rằng niệm Phật mới ba năm là văng sanh,
là phải chết. Ai da ! Tôi sợ lắm !
Thôi ! thôi đừng bảo tôi niệm Phật
nữa ! Những người có ư nghĩ như vậy, v́ họ
không hiểu được ư nghĩa giá trị cao đẹp của sự
văng sanh, nên mới bị những suy nghĩ tham sống
sợ chết, luyến tiếc trần cảnh, phải chịu trôi
lăn măi trong lục đạo luân hồi.
Pháp môn niệm Phật không
có sanh tử. Văng sanh không phải là chết. Văng
sanh là sống mà ra đi, c̣n chết là không thể
văng sanh, cho nên pháp môn này c̣n được gọi là
pháp môn không sanh không diệt. Bởi v́ trong lúc
văng sanh, quư vị sẽ tỉnh táo và thấy Phật tới
rước, rồi theo Phật ra đi, lúc đó cái xác tạm bợ
của thế gian này không c̣n dùng nữa. Sau khi lên
đến cơi Tây phương Cực-Lạc, quư vị sẽ được thân
tướng trang nghiêm đẹp đẽ y như Đức Phật
A-Di-Đà. Như vậy là tuyệt đối không phải là
chết, cho nên tôi thường nói với quư vị rằng
pháp môn này là pháp môn không già, không bịnh,
không chết. Quư vị hăy yên tâm dừng bước, lắng
ḷng, nhất hướng mà chuyên niệm. Tôi nói đây là
sự thật, chẳng phải dối gạt quư vị để làm ǵ.
Chỉ cần quư vị chuyên tâm niệm Phật, tới lúc tâm
được thanh tịnh, th́ tất cả chuyện khổ đều không
c̣n nữa. Gương mặt lúc nào cũng tự tại vui tươi.
V́ vui tươi nên không già.
Người xưa có câu :
« Ưu tư khiến cho người mau già » . Lo
buồn khiến quư vị rất dễ lăo hóa. Hiện giờ chúng
ta c̣n đang mang cái nghiệp báo thân này, sống
chết không một chút tự do. Những lúc khổ quá mà
thọ mạng chưa hết, muốn chết mà vẫn phải
sống ; đến khi có phước báo nhiều rồi muốn
sống thêm vài năm hưởng thụ, nhưng thọ mạng đă
dứt, chừng đó muốn sống thêm vẫn phải chết. Do
đó khi quư vị phát tâm niệm Phật, hoặc vào niệm
Phật đường niệm Phật, thân tâm thế giới vạn
duyên bên ngoài, tất cả đều buông xả hết, chỉ
cần câu hồng danh Nam mô A-Di-Đà-Phật, với niềm
vui đạo hạnh tràn ngập trong ḷng, đó gọi là
pháp hỷ sung măn.
Sự chuyên cần tu tập đến
lúc công phu thành khối, quư vị sẽ không bị ràng
buộc bởi cái khổ, cái bệnh, già và chết, chừng
đó sanh tử tự tại, muốn ra đi lúc nào tùy ư,
muốn ở lại thế gian sống thêm vài ba năm nữa
cũng được, lúc này cái sống của quư vị hoàn toàn
mang ư nghĩa cao đẹp, và tự biết ḿnh sẽ phải
làm những điều ǵ.
Người đạt tới mức sanh tử
tự tại là người hội đủ phước báo lên thế giới
Tây phương để hưởng thụ, nhưng họ không ra đi mà
t́nh nguyện ở lại v́ xét thấy c̣n rất nhiều
người có duyên với ḿnh, ḿnh phải giúp đỡ họ,
phải độ cho họ, hy vọng có thể dẫn dắt thêm
nhiều người cùng nhau về Tây
phương.
Lư do sống chính đúng là
như thế. Tuyệt đối không phải v́ tham sống sợ
chết, hay sống để hưởng thụ ở thế gian này. Thật
ra sự hưởng thụ trên thế gian này làm sao sánh
bằng thế giới Cực-Lạc ở Tây phương. Cái mà chúng
ta cho là đẹp và sang trọng nhất, đối với người
ở Tây phương Cực-Lạc, họ thật không màng đến,
bởi v́ nhà cửa của họ là thất bảo, cung điện.
Sàn nhà toàn bằng lưu ly, cẩm thạch, đường đi
trải bằng vàng, thức ăn chỉ cần nghĩ đến liền
hiện ra, đồ đạc mọi thứ đều do tâm nghĩ tưởng mà
hiện h́nh, do tập khí ở thế gian nên có lúc khởi
niệm ăn uống, đến khi giác ngộ lại, thức ăn liền
biến mất. Cho nên nhà cửa ở cơi Tây phương
Cực-Lạc trống không, sạch sẽ vô cùng, và không
cần có nhà bếp. Quư vị thấy cuộc sống như vậy có
sung sướng tự tại hay
không ?
C̣n chúng ta đây, đồ đạc
chất chứa đầy nhà, muốn dọn dẹp cho gọn gàng
sạch sẽ cũng phải mất nhiều th́ giờ và phiền
phức vô cùng. Cho nên người niệm Phật đến khi
công phu thành tựu rồi, nếu xét ḿnh không đủ
duyên hóa độ chúng sanh ở thế gian nầy, họ đều
mong sớm lên Tây phương Cực-Lạc để hưởng phước.
Sau khi lên đến thế giới Cực-Lạc rồi, mỗi ngày
được thấy Phật, được cúng dường mười vạn ức chư
Phật. Trong Kinh A-Di-Đà Phật nói mười vạn ức
Phật, thực tế quư vị có thể cúng dường vô lượng
hằng hà sa số Phật. Sở dĩ Ngài nói như vậy v́
Phật rất từ bi, Ngài biết sự tỉnh thức của chúng
sanh c̣n rất hạn chế, lên đó rồi mà đôi lúc c̣n
khởi tâm nghĩ nhớ về ngôi nhà cũ và những người
thân ở thế gian, do đó Ngài mới phương tiện nói
cúng dường con số ít hơn thật tế như vậy, và bảo
chúng ta có thể trở lại thăm thế gian bất cứ lúc
nào đều có thể được.
Thế giới Tây phương
Cực-Lạc trang nghiêm đẹp đẽ, đi đến đâu cũng có
những thành tựu tốt đẹp như thế, v́ sao chúng ta
không tranh thủ đi sớm ? Một pháp môn có
thể thành tựu dễ dàng như vậy, đối với các
Bồ-tát thành tựu ở những pháp môn khác không
nhập vào cảnh giới này đều cho là một pháp môn
khó tin, khó hiểu. Cũng như chúng ta nói với mọi
người rằng : “Niệm Phật đường là nơi rất
tốt, rất thù thắng để tu tập”. Họ nghe qua dễ ǵ
tin ngay, nhưng sau vài ngày đến đây niệm Phật
rồi họ mới chịu tin. Một việc nhỏ như vậy ở thế
gian này, mà người đời c̣n không hiểu, không tin
được, c̣n nói làm chi đến cảnh giới thù thắng
viên măn ở Tây phương Cực-Lạc xa
xôi.
Từ chuyện nhỏ suy rộng
đến chuyện lớn, chúng ta có thể nhận thức được
phần nào để tăng trưởng thêm niềm tin và thiện
căn của ḿnh, hầu đem hết tâm nguyện của ḿnh ra
niệm Phật, cầu sanh Tịnh độ, chắc chắn sẽ được
thành tựu !
Phần
8 : Tri Ân Báo Ân
Hôm nay có vị đồng tu đưa
ra câu hỏi : « Làm cách nào để siêu độ
thân bằng quyến thuộc của ḿnh ? » Cho
thấy đây là một vấn đề quan trọng, được nhiều
người quan tâm đến. Những người đă chết, niềm
mong mỏi tha thiết duy nhất của họ là trông nhờ
vào sự giúp đỡ của con cháu. Do đó con cháu cần
phải tu học Phật Pháp, theo đúng phương pháp của
Phật đă dạy để tu hành, đây là cách thức giúp đỡ
có hiệu quả nhất.
Nhưng trong Phật Pháp có
8 vạn 4 ngàn pháp môn, mà pháp môn tŕ danh niệm
Phật là phương pháp dễ tu và mau chóng đạt được
kết quả nhất. Nếu chúng ta thật sự phát tâm muốn
cứu thân bằng quyến thuộc vĩnh viễn xa ĺa ác
đạo, th́ chúng ta phải mạnh dạn bước vào niệm
Phật đường, chân thật niệm Phật, đồng thời phải
có tâm kiên cố.
Trong cuộc sống dầu có
nhiều bận rộn, một tuần chúng ta phải đến niệm
Phật đường một ngày. Niệm Phật v́ ai ? V́
giúp đỡ thân bằng quyến thuộc hiện kiếp, cũng
như thân nhân nhiều đời nhiều kiếp đă qua. Công
đức này thật là to lớn vô cùng. Hiện nay trong
niệm Phật đường của chúng ta, mỗi tuần niệm Phật
một ngày (24 giờ). Một ngày như vậy, chúng ta
hăy buông xả thân tâm vạn duyên thế giới bên
ngoài, dùng tấm ḷng chân thành thanh tịnh
từ-bi, đồng thời với tâm niệm báo ân để đến niệm
Phật. Được như thế, việc niệm Phật của chúng ta
mới mong kết quả tốt, và nhất là đối với ông bà,
tổ tiên, cha mẹ đă quá cố của chúng ta sẽ được
vô cùng lợi lạc, và công đức của chúng ta cũng
thật là to lớn. Trong đây có người thắc
mắc :«Làm sao biết được thân bằng quyến
thuộc lúc nào thoát khỏi ác đạo ?» - Xin
thưa rằng : Ngay lúc quư vị phát tâm chân thành
niệm Phật, họ lập tức thoát khỏi ác đạo. Bởi v́
việc làm của quư vị chân thật không giả dối, th́
liền được cảm ứng, chứ không phải chờ đến khi
quư vị niệm Phật đến lúc công phu của quư vị
thành khối họ mới được siêu thoát. Tuy nhiên nếu
công phu của quư vị thành khối, nghĩa là tâm
không xen tạp, không gián đoạn, có thể gọi là
chứng tiểu quả, th́ phước báo của họ sẽ được
sanh lên thượng thiên đạo, tức là Trời, Người,
A-tu-la.
Trường hợp công phu niệm
Phật của quư vị không ngừng nâng cao, th́ thân
bằng quyến thuộc của quư vị sẽ không bao giờ trở
lại ác-đạo. Đến đây quư vị đủ hiểu rơ hai mặt lư
và sự của công đức niệm Phật, rồi từ đây quư vị
sẽ tự biết ḿnh nên làm thế
nào.
Khi phát tâm đền công ơn
sâu dày đối với cửu-huyền thất-tổ, thân bằng
quyến thuộc, th́ pháp môn niệm Phật là điều rất
tốt, tuy nhiên nếu không có ngoại duyên hỗ trợ,
và v́ nghiệp chướng tập khí của ḿnh, th́ công
phu không được đắc lực. Một niệm Phật đường chân
chính là một tăng thượng duyên giúp chúng ta tu
hành. Duyên này rất thù thắng. Hôm qua có một vị
đồng tu người Mỹ đến nói với tôi
rằng :« Tôi vào niệm Phật đường thấy
chung quanh đều có h́nh Phật, tôi có cảm giác
như chính ḿnh cũng là Phật ». Cảm giác này
thật không sai. Điểm thù thắng khác nữa là ở
niệm Phật đường là được mỗi ngày nghe giảng kinh
thuyết pháp. Sau khi nghe và hiểu được nghĩa lư
trong kinh, rồi siêng năng tu hành, đây gọi là
giải hành tương ưng. Nếu một niệm Phật đường
hằng ngày không được giảng kinh thuyết pháp,
người niệm Phật không thể nào giải hành tương
ưng được th́ đa số dễ lạc vào h́nh thức niệm
Phật. Như vậy hiệu quả sẽ khác nhau
lắm.
Hiện nay có một số đạo
tràng ở những nơi khác đến tham dự Phật Thất và
áp dụng phương thức niệm Phật ở đây vào đạo
tràng của họ, thật là quư hóa vô cùng. Tôi hy
vọng mỗi đạo tràng ở những nơi khác đều có thể
xây niệm Phật đường, hầu giúp mọi người cùng
nhau niệm Phật. Tuy nhiên một nhân tố cần thiết
không thể thiếu, đó là phải hiểu rơ lư lẽ. Muốn
hiểu rơ lư phải có người giảng kinh thuyết pháp
không gián đoạn. Nếu quư vị không t́m được người
giảng pháp, có thể đến đạo tràng của chúng tôi
lấy băng về nghe. Mỗi ngày nên mở băng nghe hai
giờ đồng hồ, như vậy niệm Phật đường của quư vị
đối với chúng tôi không có sai khác. Công phu
niệm Phật của chúng ta một khi đă thành khối,
không những thân bằng quyến thuộc của kiếp này,
thậm chí đến nhiều đời nhiều kiếp trước của
chúng ta mà chúng ta không biết hoặc không thể
nhớ, họ vẫn được siêu độ.
Nghĩ đến việc này, nếu
chúng ta không siêng năng nỗ lực tu hành, chúng
ta thật có lỗi với ông bà tổ tiên, thân bằng
quyến thuộc vậy.
Do đó khi vào niệm Phật
đường, chúng ta phải mang tâm tri ân báo ân để
niệm Phật. Chính cái tâm này là một động lực
mạnh mẽ thúc đẩy chúng ta tinh tấn không ngừng.
Hôm nay những chúng sanh này vẫn c̣n kẹt trong
ác-đạo, không có khả năng giải thoát, nên họ
hoàn toàn trông cậy ở chúng ta. Những người hiểu
Phật Pháp, hiểu giáo lư chân thật nên y giáo
phụng hành. Không những giúp họ ra khỏi cảnh
khổ, mà mọi tai kiếp hiện nay trên thế giới đều
có thể hóa giải, có thể đạt đến chỗ quốc thới
dân an như lời Phật nói. Cho nên, niệm Phật
không phải chỉ v́ ḿnh mà thôi, mà c̣n v́ thân
bằng quyến thuộc, và v́ tất cả chúng sanh
!
Phần
9 : Giữ Chánh Niệm Phục Ma
Vương
Đa số chúng ta đều biết
Phật có tướng hảo quang minh ; ma cũng có
tướng hảo quang minh. Phước báo của Phật vô cùng
to lớn ; phước báo của ma cũng không kém.
Phật có hào quang kim sắc ; ma cũng có hào
quang kim sắc. Tuy nhiên hào quang của Phật nhu
ḥa, khiến cho chúng ta mỗi khi tiếp xúc đến có
cảm giác nhẹ nhàng tươi mát, an ổn, vui vẻ, tự
tại. Ma cũng có hào quang kim sắc, nhưng với ánh
sáng chói lọi của ma, con người sẽ thấy sợ hăi
không yên.
Tóm lại hào quang của ma
so sánh với hào quang của Phật không có khác về
h́nh tướng, chỉ có khác ở chỗ, sau khi con người
tiếp xúc rồi, có những cảm giác hoàn toàn trái
ngược nhau. Làm thế nào để tránh khỏi ánh sáng
của ma, không bị ma làm tổn
hại ?
Điều này hết sức quan
trọng, chúng ta không thể không hiểu rơ. Phương
pháp hữu hiệu nhất để đối phó là : Chúng ta
phải luôn luôn giữ chánh niệm. Khi giữ được
chánh niệm, chẳng những Ma không làm tổn hại
được ; ngược lại sanh ḷng tôn kính và hộ
pháp.
Khi xưa Đức Phật Thích-Ca
Mâu-Ni khéo thị hiện tám tướng thành đạo, ma
Ba-Tuần đến và dùng mọi thủ đoạn uy hiếp cản
trở, Đức Thế Tôn chánh niệm phân minh, như như
bất động, sau cùng ma không c̣n cách nào để phá
hại nữa, nên sanh ḷng tôn kính bái phục, nguyện
làm hộ pháp cho Ngài. Do đó tâm niệm của chúng
ta cần phải tương ứng với Giới, Định, Huệ, ba
môn học. Đây là phương thức quan trọng nhất để
đối trị với sức cản trở lay động của ma.
Những người nào dễ bị ma
làm tổn thương nhất ?
Xă hội ngày nay, những
người tu học Phật Pháp, đặc biệt là giới thanh
niên bị ma nhập rất nhiều. Những ai thích có
thần thông cảm ứng đều dễ bị kết duyên với ma.
Ma sẽ lợi dụng nhược điểm đó của quư vị, mà đến
lay động quấy phá. Cho nên người tu học Phật
Pháp trong thời đại này, cần phải có cảnh giác
cao độ : Khi niệm Phật phải giữ tâm cho
chân thật. Không nên mong cầu cảm
ứng.
Trong kinh điển Phật dạy
chúng ta như thế nào, chúng ta ngoan ngoăn làm
theo. Điều ǵ Phật dạy chúng ta không nên làm,
chúng ta quyết định không làm. Phật dạy chúng ta
văng sanh Tây phương Cực-Lạc, th́ chúng ta cầu
sanh Tịnh độ. Phật dạy chúng ta liễu sanh thoát
tử, thoát khỏi luân hồi, chúng ta tuyệt đối
không luyến tiếc với lục đạo. Thuận theo lời chỉ
dạy của Phật, ma sẽ không làm ǵ được chúng ta.
Giới trẻ ngày nay đa số muốn có thần thông, muốn
có cảm ứng, nhưng đâu ngờ đă tự ḿnh làm hư hoại
đến tương lai tốt đẹp của chính ḿnh. Thật là
điều đáng tiếc vô cùng !
Quư vị nên hết sức thận
trọng, nhất là phải có sự cảnh tỉnh đối với con
cháu, bà con quyến thuộc, bởi v́ trong lúc quư
vị khởi tâm mong cầu thần thông cảm ứng, Ma liền
có dịp giả h́nh dáng Bồ-tát, giả Phật A-Di-Đà để
mê hoặc và lừa gạt dắt quư vị đi theo. Nhiều vị
đồng tu lo rằng : Lỡ khi lâm chung Ma giả
Phật A-Di-Đà đến rước th́ sao ? Nếu chúng
ta không phân biệt được giữa Ma với Phật, th́
công phu niệm Phật nỗ lực tu hành bấy lâu sẽ
chẳng c̣n ǵ !
Đối với điều này, xin quư
vị hăy yên tâm. Ma tuy lường gạt người, nhưng
nhất quyết chúng không thể giả dạng Bổn Tôn, tức
Phật A-Di-Đà. Bởi v́ Phật có thần hộ pháp. Khi
chúng ta phát tâm chân thật niệm Phật đều được
các vị thần hộ pháp bảo hộ cho chúng ta. Thần hộ
pháp nhất quyết không dung thứ cho các loài yêu,
ma quái giả dạng Bổn Tôn. Nếu chúng dám giả mạo
sẽ bị tội nặng. Ngược lại, nếu chúng giả dạng
các vị Phật khác đến gạt quư vị, chúng không
phạm tội. Cho nên quư vị niệm Phật A-Di-Đà, đến
lúc lâm chung nhất định phải chờ Phật A-Di-Đà
đến tiếp dẫn. Nếu thấy Phật Thích Ca, Phật Dược
Sư đến rước, đó đều là ma giả dạng lường gạt.
Trong t́nh trạng như vậy, quư vị phải tập trung
tinh thần hướng niệm hồng danh Nam mô
A-Di-Đà-Phật, và mặc nhiên không thèm để ư đến,
tức thời những h́nh ảnh đó sẽ tự biến
mất.
Những kiến thức này hết
sức quan trọng, quư vị nên lưy ư. Người niệm
Phật thỉnh thoảng mơ thấy Phật A-Di-Đà, như vậy
là công phu niệm Phật được cảm ứng. Nếu thường
xuyên thấy Phật th́ không đúng, đó là công phu
có vấn đề. Nhiều người hỏi : « Trong
lúc niệm Phật tôi thường nghe, thấy Phật
A-Di-Đà, nay niệm Phật đă nhiều năm rồi lại
không hề thấy, như vậy có phải tôi bị thối
chuyển so với lúc ban đầu hay
không ? » Trả lời : Cũng có thể
thối chuyển nếu không bị thối chuyển cũng không
nên thường xuyên mơ thấy. Thường xuyên mơ thấy
là ma cảnh. Cho dù quả thật mơ thấy Phật cảnh
hiện ra, cũng không nên sanh tâm chấp trước,
sanh tâm tham và vui mừng. Trong Kinh Lăng
Nghiêm, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có chỗ chỉ dạy
cho chúng ta một phương pháp đối phó với ma cảnh
như sau : Khi gặp cảnh giới hiện ra phải
giữ tâm không để ư đến, không t́m hiểu sâu vào.
V́ sao ? Bởi v́ khi ma hiện ra, có nghĩa là
công phu của quư vị đă đạt tới mức khả quan. Nếu
không, ma chẳng thèm tới để làm ǵ ! Mục
đích của chúng đến là để chướng ngại phá, cho
chúng ta tan mất công phu tu tập và đạo tâm của
chúng ta. Cho nên ư nghĩa hồng danh A-Di-Đà-Phật
giúp chúng ta giữ tâm như-như bất động trước ma
cảnh. Ma cảnh là rất quan trọng mật thiết với
công phu tu tập của chúng ta.
Phần
10 : Phát Tâm Bồ-Đề
Nếu chúng ta muốn ngay
trong một kiếp này thật sự thành tựu được công
phu niệm Phật, th́ lúc xử thế tiếp xúc với người
và vật, cái tâm duy nhứt mà chúng ta cần phải có
đó là chân tâm.
Khi bị người khác lừa dối
hiếp đáp, chúng ta phải nghĩ như vầy : Đó
là chuyện của họ, không dính dáng ǵ tới ta cả.
Việc của ta là phải dùng tâm chân thật để đối xử
lại. V́ sao ? Bởi v́ ta quyết định trong
một kiếp này cầu văng sanh Tịnh độ. Làm thế nào
để cầu sanh Tịnh độ ? Trong Kinh Vô Lượng
Thọ nói rất rơ : « Phát Bồ-Đề tâm nhất
hướng niệm Phật ». Nếu chúng ta không phát Bồ-Đề
tâm, chỉ nương vào nhất hướng chuyên niệm, kết
quả không văng sanh. Điều này chúng ta nên
thận trọng !
Ngài Lư Bỉnh Nam
nói : « Một vạn người niệm Phật, thật
sự văng sanh chỉ có vài ba người ». V́ sao
số người văng sanh quá ít như vậy ? V́
không phát tâm Bồ-Đề, nên tâm không thanh tịnh.
Bởi tâm không thanh tịnh nên c̣n thị phi, nhân
ngă, tham, sân, si, mạn, nghi … Những thứ này
không tương ứng với thế giới Cực-Lạc một chút
nào. Tây phương Cực-Lạc là nơi tụ hội của chư
thượng thiện nhân, tức là chỗ của những người
thiện lành bậc nhất. Cho dù chúng ta niệm Phật
rất siêng năng đến đâu, hoặc một ngày có thể
niệm đến trăm ngàn lần, nhưng tâm của chúng ta
không thiện, làm sao có thể lên Tây phương ở
cùng chỗ của các bậc thượng thiện nhân được
?
Do đó phát Bồ-Đề tâm quan
trọng hơn cả việc nhất tâm chuyên niệm là như
vậy. Người thật sự phát Bồ-Đề tâm, khi lâm chung
niệm một niệm hoặc mười niệm, quyết định sẽ được
văng sanh. V́ sao ? V́ họ đă là thượng
thiện nhân rồi, đầy đủ phước đức rồi, chỉ cần
chợt khởi tâm muốn văng sanh là được
ngay.
Cho nên những lời nói
trong kinh điển chúng ta phải hiểu lư, suy nghĩ
kỹ lưỡng, tuyệt đối không nên tụng niệm một cách
hàm hồ.
Đoạn văn trên, chúng ta
nói đến chân tâm. Chân tâm là thể của Bồ-Đề tâm.
Kế tiếp nói đến thâm tín là dụng của Bồ-Đề tâm.
Tự dụng đối với chính ḿnh là luôn giữ tâm hiền
thiện hiếu đức, tức là thích làm điều thiện. Đối
với chúng sanh th́ đại từ đại bi, nhân từ hiền
thiện. Hiếu đức là việc làm không thể miễn
cưỡng, hoặc làm cho có h́nh thức bên ngoài, mà
nó phải lưu xuất một cách tự nhiên từ bên trong.
Cho nên người phát tâm Bồ-Đề, mỗi khi khởi tâm
động niệm đều nghĩ đến việc làm lợi ích cho
chúng sanh. Nghĩ đến việc giúp đỡ phá mê khai
ngộ, thoát khỏi cảnh khổ, được an vui, không hề
có một niệm nghĩ đến lợi ích cho cá nhân ḿnh,
Nếu c̣n một niệm ích kỷ tự lợi là c̣n ngă chấp
nặng nề. Ngă chấp là gốc rễ của lục đạo luân
hồi. Không bứng sạch gốc rễ này th́ không cách
nào ra khỏi lục đạo. Cho nên ngay từ bây giờ,
chúng ta cần phải buông xả. Phải nghĩ tới người
khác, nghĩ tới chúng sanh, đến những người đang
đau khổ, đang gặp nạn trên thế giới. Tuyệt đối
không nên nghĩ đến chuyện lợi ích cho riêng cá
nhân ḿnh nữa.
Trong suốt thời gian
thuyết pháp đă qua, tôi nhiều lần nhắc quư vị
phải phát Bồ-Đề tâm. Trong kinh điển, đức Thế
Tôn cũng từng lập đi lập lại không biết bao
nhiêu ngàn lần, v́ sao Thế Tôn không ngừng lập
đi lập lại như vậy ? Bởi v́ chúng sanh vẫn
c̣n chưa thức tỉnh, vẫn c̣n u mê, cho nên Thế
Tôn vẫn phải lập đi lập lại một cách không mệt
mỏi để kêu gọi, thức tỉnh chúng ta. Một khi
chúng ta phát khởi Bồ-Đề tâm liền được chư Phật
hộ tŕ, v́ tâm của chư Phật là tâm Bồ-Đề. Tóm
lại, như vậy tâm của chúng ta, cùng tâm Chư
Phật, không hề khác nhau, và mục đích duy nhất
của Ngài là mong chúng ta một đời có thể thành
Phật.
Hôm nay th́ giờ đă hết,
tôi xin giảng đến đây. Nam Mô A-Di-Đà-Phật
!
1. Hiếu Dưỡng Cha Mẹ
:
Đức Phật dạy chúng ta lấy
hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹ là pháp môn căn
bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan
trọng cơ bản làm người. Chúng ta nghĩ thử ngay
cả loài chim muông c̣n biết báo ân nuôi mớm. Nếu
như chúng ta không hiếu dưỡng cha mẹ th́ chẳng
phải không bằng loài cầm thú hay sao
?
Cha mẹ là ruộng phước lớn
nhất đời này của chúng ta. Công đức hiếu dưỡng
cha mẹ và công đức cúng dường Đức Phật như nhau,
không hiếu dưỡng cha mẹ th́ bị coi là sai lầm
lớn nhất của đời người. Người bất hiếu một chút
tư cách cũng không có nói ǵ đến học Phật
?
Ngoài ra, chúng ta c̣n
phải khuyên cha mẹ có Tín, Nguyện, Niệm Phật cầu
sanh về Tây-phương Cực-Lạc để thoát khỏi sanh-tử
luân-hồi, đó mới là hiếu đạo cứu cánh viên măn
!
2. Làm
Tṛn Bổn Phận :
Làm người ở thế gian, ai
cũng có bổn phận và trách nhiệm của ḿnh. Người
học Phật trên cương vị công việc của ḿnh phải
nỗ lực tinh tấn làm gương mẫu cho gia đ́nh, xă
hội và quốc gia. Hiếu thuận với cha mẹ, giáo dục
con cái, yêu thương gia đ́nh, làm lợi ích cho xă
hội, báo đáp cho quốc gia mới đúng là người học
Phật. Tự ḿnh trốn tránh trách nhiệm, không làm
tṛn bổn phận, học Phật mà nói khoác lác đều là
dối ḿnh lừa người th́ không thể thành tựu
được.
3. Tin
Sâu Nhân Quả :
Cốt lơi của toàn bộ Phật
pháp, chính là hai chữ “nhân quả”. Chúng ta
trồng nhân thiện được quả thiện, trồng nhân ác
nhất định chịu quả ác, báo ứng nhân quả không
sai tí nào, không phải là không có báo ứng mà
chỉ v́ thời gian chưa đến. Người học Phật phải
tin sâu nhân quả, lấy giới làm thầy, mỗi ngày tự
kiểm điểm, luôn luôn sửa đổi. Ngoài ra, người
niệm Phật tin sâu trồng nhân thiện niệm Phật,
chắc chắn được quả thiện thành Phật. Đây là nhân
quả rất thâm diệu.
4. Không
Sát Sanh, Nên Ăn Chay :
Người học Phật không làm
các việc ác, nỗ lực đoạn trừ tất cả hành vi tội
ác. Trong tất cả tội ác, tội ác nặng nhất là sát
sanh, ăn thịt. Bởi v́, mạng của chúng sanh rất
quư báu, không nên v́ thân mạng ḿnh mà giết, ăn
thịt nó th́ nó vô cùng căm hận, kết oán thù sâu
nặng, đời sau nó sẽ giết lại chúng ta báo thù
đ̣i nợ, máu trả nợ máu, quả ác rất là thảm khốc.
V́ thế, chúng ta không làm các việc ác, không
sát sanh, nên ăn chay là việc cần
gấp.
5. Phóng
Sinh Cứu Mạng :
Người học Phật phải làm
các điều thiện, bất cứ việc thiện nào, chỉ cần
có cơ hội th́ ra sức làm. Trong tất cả việc
thiện, phóng sanh là đứng đầu. Bởi v́, phóng
sanh là hành vi cứu mạng cấp bách, công đức rất
lớn, chẳng phải việc thiện nhỏ có thể so sánh
được. Thân mạng chúng sanh rất quư, chúng ta thả
nó, cứu nó th́ nó vô cùng cảm kích, kết thiện
duyên tốt với nó th́ đời sau chúng ta được quả
báo thiện, phước đức không thể nghĩ bàn. Cho
nên, trong các điều thiện lấy phóng sanh cứu
mạng làm đầu.
6. Chí
Tâm Thành Kính :
Chí tâm thành kính là nền
tảng thành tựu bất cứ sự nghiệp nào trong thiên
hạ. Đại sư Ấn Quang chỉ dạy chúng ta phải dốc
hết tâm lực, lấy hai chữ thành kính làm điểm
quan trọng. Chúng ta có một phần thành kính th́
có một phần công đức, có mười phần thành kính
th́ có mười phần công đức. Đây là bí quyết tuyệt
vời học Phật thành công, mọi người tuyệt đối
phải ghi nhớ kỹ trong ḷng.
7. Phát
Tâm Bồ-Đề :
Công đức nhiều hay ít của
người học Phật theo tỉ lệ thuận với tâm lượng
của ḿnh, tâm lượng rộng lớn th́ công đức được
nhiều. V́ thế, người học Phật phải có tâm lượng
rộng lớn, làm bất kỳ việc ǵ tuyệt đối không nên
v́ tự tư tự lợi, nhất định phải phát xuất từ tâm
chân thành, chân thật v́ lợi ích cho tất cả
chúng sanh. Chúng ta trên cầu Phật đạo, phát tâm
thành Phật; sau đó, có năng lực độ khắp chúng
sanh. Chúng ta dưới th́ hóa độ chúng sanh bằng
cách phát tâm hễ gặp cơ duyên th́ nhất định phải
đem điều tinh yếu của Phật pháp truyền bá cho
đại chúng. Ngoài ra, tâm phải chí thành niệm
Phật cầu sanh về thế giới Tây phương Cực-Lạc; đó
là chân chính phát tâm Bồ-Đề.
8. Lạy
Phật Sám Hối :
Chúng ta từ vô thủy kiếp
đến nay tạo nhiều tội nghiệp, nếu có h́nh tướng
th́ khắp hư không cũng chẳng dung chứa hết; bởi
v́, chúng ta là phàm phu xấu ác nghiệp chướng
sâu nặng. Do đó, người học Phật phải phát tâm hổ
thẹn và chí thành sám hối, siêng năng lạy Phật.
Bởi v́ lạy Phật một lạy chí thành th́ tội diệt
như số cát sông Hằng, lạy Phật sám hối là bày tỏ
tâm chí thành cung kính của chúng ta. Phương
pháp tốt nhất là hổ thẹn tự xét lỗi
ḿnh.
9. Tín,
Nguyện Và Niệm Phật :
Pháp môn Tịnh độ là nương
tựa Phật lực cứu giúp. Tín là tin thế giới Tây
phương Cực-Lạc có Phật A-Di-Đà. Nguyện là mong
muốn ḿnh mau sanh về thế giới Cực-Lạc kia, chán
ĺa thế giới Ta-bà này. Hạnh là phải chí thành
niệm, giữ một câu thánh hiệu Nam mô
A-Di-Đà-Phật. Chỉ cần đầy đủ ba tư lương Tín,
Nguyện, Hạnh th́ sẽ nương theo đại thệ nguyện
lực của Phật A-Di-Đà cứu giúp, ra khỏi sanh tử,
vĩnh viễn đoạn trừ luân hồi. Đây là pháp môn vô
cùng thâm diệu và tiện lợi nhất trong tất cả
pháp môn mà Đức Phật đă dạy.
Nói theo lư, một câu Nam
Mô A-Di-Đà-Phật là nhờ Phật lực cứu vớt, chắc
chắn bảo đảm văng sanh về Tây phương. Nhưng v́
sao ngày nay người niệm Phật nhiều mà người được
văng sanh lại ít ? Đây là vấn đề rất quan trọng
và nghiêm túc, ngày nay người niệm Phật nhưng
không được văng sanh quan trọng là do
“thiếu Tín, Nguyện
lại sợ chết, căn bản là không muốn văng
sanh”.
Ngày nay, người niệm Phật chỉ cầu sống lâu, cầu
mạnh khỏe b́nh an, cầu giàu sang, công việc
thuận lợi, cầu tất cả lợi ích ở thế gian; nhưng
không cầu văng sanh về Tây-phương
Cực-Lạc.
Một chữ Chết th́ có thể
kiểm nghiệm người niệm Phật có đầy đủ Tín,
Nguyện hay không ? Hăy tự hỏi ḷng ḿnh, chúng
ta có sợ chết không ? Nếu như chết ngay lập tức
th́ Phật A-Di-Đà liền đón chúng ta văng sanh về
Tây phương Cực-Lạc, chúng ta có bằng ḷng không?
Một người niệm Phật thật sự là người chán ĺa
cơi Ta-bà này, thích cầu về cơi Cực-Lạc th́ nhất
định cho sự chết là như trở về. Bất cứ lúc nào,
họ cũng mong sớm theo Phật A-Di-Đà về thế giới
Tây phương Cực-Lạc th́ tuyệt đối không sợ chết,
luôn mong muốn văng sanh liền. C̣n người niệm
Phật giả tạo trong ngoài khác nhau, Tín, Nguyện
không thật là người tham sống sợ chết, không
muốn chết, không muốn văng sanh, cầu sống lâu,
có rất nhiều lư do ràng buộc. Chúng ta nên biết
tâm người nào sợ chết, không muốn chết, không
muốn cầu văng sanh th́ trái với tâm Phật
A-Di-Đà, không đủ ba tư lương Tín, Nguyện, Hạnh
th́ làm sao họ thành tựu văng sanh về Tây phương
Cực-Lạc được ?
Ngày nay, một ngh́n người
niệm Phật th́ có chín trăm chín mươi chín người
niệm Phật giả. Nếu người niệm Phật thật sự th́
một chữ Chết thường ở trong tâm, tự ḿnh luôn
kiểm nghiệm, chỉ cần người niệm Phật không sợ
chết, thích chết, bất cứ lúc nào cũng đón cái
chết, luôn mong cầu sớm được văng sanh về
Cực-Lạc; đây là người niệm Phật thật sự
“chán ĺa Ta-bà,
thích cầu Cực-Lạc”. Như thế, một ngh́n người
niệm Phật, ngh́n người văng sanh; vạn người niệm
Phật vạn người văng sanh, không một người nào mà
không sanh về Tây phương Cực-Lạc
!
10. Nỗ
Lực Thực Hành :
Phật pháp quan trọng nhất
là thực hành. Có bà cụ một chữ cũng không biết,
hoàn toàn không hiểu kinh dạy, chỉ biết ăn chay,
lạy Phật, chí thành niệm một câu Nam mô
A-Di-Đà-Phật mà được văng sanh. Bà học Phật
thành tựu văng sanh, hơn hẳn những nhà thông
thái biện tài vô ngại, tinh thông tam tạng, quan
trọng là có nỗ lực thực hành hay không. Người có
tài năng, hiểu biết mà không thực hành, giống
như điểm binh trên giấy, nói tên món ăn, đếm của
báu cho người, đều là vô ích.
Nói tóm lại, chúng ta học
Phật chỉ cầu chuyên nhất, sợ nhất là xen tạp;
chỉ cần nắm chắc những điểm quan trọng rồi nỗ
lực thực hành th́ nhất định đạt được lợi ích
chân thật của Phật pháp !
1. Hiếu dưỡng cha mẹ,
phụng sự sư trưởng, từ tâm không sát hại, tu
mười thiện nghiệp :
a. Hiếu
dưỡng cha mẹ : Điều này,
tôi giảng rất nhiều lần, chúng ta học kinh không
thuộc và không hiểu ư nghĩa của kinh rơ ràng,
tâm hạnh trái với lời dạy trong kinh dạy; đây là
đại bất hiếu v́ không cung kính, chúng ta cần
phải biết rơ.
b. Phụng sự
sư trưởng : Chúng ta là người học
Phật, vị thầy đầu tiên là Đức Phật Bổn-Sư
Thích-Ca Mâu-Ni. Đức Bổn Sư dạy chúng ta học
theo Phật A-Di-Đà nên Đức Phật A-Di-Đà cũng là
Bổn Sư của chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày,
chúng ta khởi tâm động niệm, tâm ḿnh có giống
như tâm Phật không ? Suy nghĩ có giống như Phật
nghĩ không ? Làm thế nào giống như tâm Phật,
nghĩ như Phật ? Những điều này, trong Kinh Vô
Lượng Thọ, Kinh A-Di-Đà nói là tâm chân thật của
Phật, là mẫu mực của Phật. Chúng ta có thật sự
hiểu không ? Có thật sự tinh tấn tu hành không
?
Tu hành là dựa theo tiêu
chuẩn Đức Phật dạy, chúng ta phải sửa đổi cách
nghĩ, cách nh́n sai lầm của ḿnh trong cuộc sống
hằng ngày th́ gọi là tu hành. Nếu như hằng ngày
chúng ta làm ra vẻ như người học Phật, nhưng
trên thực tế th́ lừa ḿnh dối người, như thế
nhất định có cảm ứng với ma, ma sẽ đến hộ tŕ
cho bạn mà không phải là Phật. Dụng ư của ma đến
hộ tŕ bạn để làm ǵ ? Để chúng hủy diệt Phật
pháp và gây chướng ngại cho Phật
pháp.
Chẳng những ngay trong
đời này bạn không được tự tại, không được như ư
mà quả báo đời sau lại càng đáng sợ. Chúng ta có
ư thức được điều này không ? Chúng ta có cảnh
giác không? Cho nên tôi thường khuyên các vị
đồng tu, cơ duyên của chúng ta thù thắng không
ai bằng, nếu trong chốc lát mất thân người bị
đọa vào ba đường ác th́ thật là đáng tiếc, nói
ra thật khó nghe, thật rất oan uổng
!
V́ thế, nền tảng của Phật
pháp, căn bản của căn bản là ‘hiếu kính’, nghĩa
của hai chữ hiếu kính này rất rộng lớn. Hiếu
kính với tất cả chúng sanh, đó là học Phật. Nếu
chúng ta làm được việc hiếu kính đối với tất cả
chúng sanh, như thế th́ chúc mừng bạn rồi, chẳng
những bạn ra khỏi luân hồi mà c̣n thoát ra khỏi
chín pháp giới. Bởi v́, chân thật hiếu kính tất
cả chúng sanh chỉ có pháp thân Bồ-Tát mới làm
được. Kinh Hoa Nghiêm nói :“Sơ trụ Viên giáo trở
lên mới thực hành được”. Do đó, không thể không
phát tâm này, sau khi phát tâm này rồi cần phải
thật sự nỗ lực thực hành, quyết tâm làm cho
được.
c. Từ tâm
không sát hại : Trong các
tội nghiệp, hành vi sát sanh là tội nghiệp nặng
nhất; cho nên, Đức Phật tổng hợp trọng tâm của
giới luật dạy cho chúng ta “ḷng từ không sát
hại”. Trong đạo Phật thường nói :“Từ bi làm gốc,
phương tiện làm cửa”. Chúng ta phải vun bồi tâm
từ bi, tuyệt đối không được sát hại, cho đến làm
tổn hại tất cả chúng sanh. Người không có tâm từ
bi th́ không thể học Phật, làm tổn hại chúng
sanh th́ nhất định sẽ gây kết oán thù rất nặng;
do đó mà có những oan gia trái chủ báo thù lẫn
nhau không dứt.
d. Tu mười
thiện nghiệp : Người giác ngộ tuyệt đối
không được kết oán thù với chúng sanh. Một khi
kết oán thù với chúng sanh đều là do mê hoặc
điên đảo, bị vô-minh phiền năo che lấp. V́ thế,
chúng ta phải tu mười thiện nghiệp, đây là nền
tảng của sự tu tập, chúng ta đem nó áp dụng vào
cuộc sống thường ngày, tiêu chuẩn đều là lời dạy
trong kinh luận, từ nền tảng này chúng ta bước
vào cửa Phật.
2. Thọ tŕ tam-quy, đầy
đủ các giới, không phạm oai nghi
:
a. Thọ tŕ
tam quy : Chúng ta bước vào cửa
Phật, trước tiên phải thọ Tam quy-y. Đây là điều
Đức Phật dạy cho chúng ta ra khỏi sáu đường luân
hồi, mục tiêu là hướng đến Bồ-Đề Niết-bàn gọi là
Tam-Bảo. Tam-Bảo là Giác, Chánh, Tịnh. Bất cứ
nơi nào, lúc nào chúng ta vẫn luôn luôn giữ tâm
giác ngộ của ḿnh. Giác là không mê, xưa nay
chúng ta chỉ mê mà không giác, ngày nay quay đầu
lại gọi là quy-y, “trở về nương tựa Phật,
Pháp,Tăng”.
Đức Phật lại dạy, do
chúng ta chấp vào tri kiến và cách nghĩ, cách
nh́n sai lầm nên phải quay đầu lại, nương theo
chánh tri, chánh kiến. Tri kiến như thế nào gọi
là chánh ? Chư Phật, Bồ-tát hoàn toàn không nói
:“Tri kiến của ta là chánh tri, chánh kiến, c̣n
tri kiến của các ông là tri kiến sai lầm”. Không
có Phật, Bồ-tát nào nói như
thế.
Các ngài dạy :“Tri kiến
tương ứng với tự tánh là chánh tri, chánh kiến;
tri kiến trái với tự tánh là tà tri, tà kiến”.
Cách nói như thế, chúng ta mới khâm phục; bởi
v́, chúng ta chưa minh tâm kiến tánh nên phải
thừa nhận cách nh́n, cách nghĩ của chúng ta đều
là sai lầm. Cho nên, khi mới học Phật chúng ta
không thể không nương theo Đức Phật, nhưng Phật
lại dạy rất hay là chúng ta không thể nương theo
Ngài măi măi mà chỉ có thể nương theo một thời
gian. Sau khi chúng ta minh tâm kiến tánh th́
không cần nương theo Ngài nữa; trước khi chúng
ta chưa kiến tánh mà không nương theo Ngài th́
chẳng c̣n phương pháp nào tốt hơn
được.
Vậy được minh tâm kiến
tánh có dễ không ? Là phải đoạn trừ phiền năo,
phá phiền năo chướng. Phiền năo gây chướng ngại
cho tự tánh của chúng ta. Bạn c̣n phiền năo th́
nhất định không thể nào kiến tánh được, vẫn phải
tu học theo pháp môn. Tu học theo pháp môn cũng
là phá sở tri chướng, v́ sở tri cũng làm chướng
ngại tự tánh. Trừ sạch hai chướng ngại lớn này
th́ mới minh tâm kiến tánh.
Chúng ta nói điều này th́
rất dễ dàng, nhưng thực hành th́ rất khó; cho
nên, Đức Phật dạy hàng phàm phu chúng ta c̣n bị
nghiệp chướng này sâu nặng, căn tánh của phàm
phu ám độn chỉ có phát nguyện cầu sanh về Tịnh
độ. Phương pháp này rất tuyệt diệu, có thể tạm
thời không cần đoạn Kiến, Tư phiền năo mà vẫn
văng sanh về Tịnh độ, cũng không cần tu học vô
lượng pháp môn; chỉ cần đầy đủ ba điều kiện Tín,
Nguyện, Hạnh th́ được văng sanh về thế giới Tây
phương Cực-Lạc diện kiến Phật A-Di-Đà, sau đó nỗ
lực học với Ngài. Về cơi này chúng ta tu đoạn
phiền năo, lại học pháp môn th́ đạt được cứu
cánh giải thoát viên măn.
Do đó, khi thọ tŕ
tam-quy, chúng ta phải quy-y Phật A-Di-Đà và
nương theo kinh điển Tịnh tông. Kinh điển Tịnh
tông hiện nay chỉ có năm bộ Kinh và một bộ luận
Văng Sanh. Nếu bạn quy-y theo hết các kinh luận
này th́ rất tốt, c̣n như chê nhiều th́ trong sáu
bộ này, bạn chọn bất kỳ một bộ nào để thực hành
cũng được. Có lẽ sẽ có người hỏi: “Một bộ th́ có
ít quá không ?”. Chúng ta đọc Văng sanh truyện
hay Tịnh Độ Thánh Hiền Lục thấy từ xưa đến nay
có rất nhiều người ngay một bộ Kinh cũng chẳng
biết, suốt đời chỉ biết niệm một câu Nam
mô A-Di-Đà Phật mà họ vẫn có thể đứng văng sanh
hoặc ngồi văng sanh ...
Niệm một câu hiệu Nam mô
A-Di-Đà Phật c̣n thành tựu được, huống ǵ một bộ
Kinh ? Chúng ta phải tin việc này chân
thật, như trong Kinh Kim cang nói :“Tín tâm
chẳng trái nghịch” th́ mới có thể thành tựu
!
Tăng-Bảo là chúng ta
quy-y Bồ-tát Đại-Thế-Chí và Bồ-tát Quán-Thế-Âm.
Chúng tu ta theo Tịnh tông, quy-y Tam-Bảo thực
tế là trên sự tướng. Đại-Thế-Chí biểu hiện lư
trí chẳng phải t́nh cảm; Quán-Thế-Âm biểu hiện
từ bi. Cho nên, chúng ta quy-y Tăng là quy-y từ
bi theo lư trí chẳng phải từ bi theo t́nh cảm;
từ bi theo t́nh cảm là việc không tốt. Từ bi
phải lấy lư trí làm nền tảng, được như thế mới
gọi là thọ tŕ tam-quy.
b. Đầy đủ
các giới, không phạm oai nghi
: Chúng ta có thể giải
thích giới là những giới điều mà Đức Phật đă dạy
trong tất cả kinh điển mà chúng ta tuân thủ,
nhưng không phải chấp chặt những giới điều.
Chúng ta phải xem kỹ những giới điều trong kinh
dạy, tất cả giới điều đều bao hàm trong đó,
không hề thiếu sót. Từ trên nền tảng này mà khế
nhập vào pháp môn của
Bồ-tát.
3. Phát tâm Bồ-Đề, tin
sâu nhân quả, đọc tụng Đại-thừa, khuyến tấn hành
giả :
+ Pháp đầu tiên của Bồ-tát là phát
đại-tâm, phát Bồ-Đề tâm : Chúng ta muốn
văng sanh về thế giới Tây-phương Cực-Lạc phải
nhớ kỹ trong kinh Phật giảng, điều kiện để chúng
ta được văng sanh có hai câu tám chữ. Tam bối
văng sanh trong Kinh Vô Lượng Thọ nói bất luận
là thượng bối, trung bối và hạ bối đều không
khác nhau, đều là :“Phát Bồ-Đề tâm, nhất hướng chuyên
niệm”.
Thế nào là phát tâm Bồ-Đề
? Là tâm độ khắp chúng sanh, “chúng sanh vô biên
thệ nguyện độ”. Nếu như bạn ghét chúng sanh này,
thích chúng sanh kia th́ bạn có đến được thế
giới Tây phương Cực-Lạc không ? Chắc chắn là
không thể đến được, cho dù mỗi ngày bạn niệm
mười vạn câu danh hiệu Phật cũng không thể văng
sanh được. V́ sao ? V́ bạn không có tâm Bồ-Đề;
điều này không thể không chú ư
!
Trước đây thầy Lư Bỉnh
Nam thường nói người ngày nay niệm Phật, một vạn
người niệm Phật khó có được hai, ba người văng
sanh. Không phải họ không tinh tấn, suốt ngày
xâu chuỗi chẳng rời tay, từ sáng đến tối miệng
không ngừng niệm Nam mô A-Di-Đà Phật, Nam mô
A-Di-Đà Phật, nhưng v́ sao họ không văng-sanh
được ? V́ họ không phát tâm Bồ-Đề nên không phù
hợp tiêu chuẩn văng sanh. “Nhất hướng chuyên
niệm” th́ họ làm được, nhưng “Phát tâm Bồ-Đề”
th́ họ không làm được, do đó họ không thể văng
sanh !
Hôm qua Quán Trưởng nói
chuyện với tôi về Khổng Lăo Phu Tử. Đức học của
Phu Tử có từng giai đoạn rất rơ ràng, đây là tấm
gương tốt cho chúng ta. Lăo Phu Tử nói “Tam thập
nhi lập”. Lập cái ǵ ? Lập chí hướng ! Lập chí
theo nhà Nho nói giống như Phật pháp của chúng
ta nói phát tâm. Phu Tử lập chí là chí đối với
sự học, suốt đời theo nghiệp học vấn. Hôm nay
chúng ta lập chí là độ khắp chúng sinh, chúng
sinh vô biên thệ nguyện độ, chúng ta đích thực
lập chí này. Tứ hoằng thệ nguyện là lập chí,
chúng ta có thật sự lập được không
?
Nhà Nho nói nếu không lập
chí th́ việc ǵ cũng không thành tựu được. V́
sao ? Bởi v́ chúng ta không có phương hướng,
không có mục tiêu, dù cho có nỗ lực cũng không
thể có kết quả. Pháp xuất thế gian so với pháp
thế gian càng phải nghiêm túc hơn nhiều, chúng
ta không phát nguyện th́ làm sao hành ? Cho nên
trước tiên phải phát nguyện, phát tâm Bồ-Đề
chính là phát đại nguyện. Quá tŕnh đức học của
Phu Tử quả là tấm gương cho chúng ta noi theo
!
+ Điều sau cùng là “Tin sâu nhân
quả, đọc tụng Đại-thừa”: Hiện tượng trong mười
pháp giới y chánh trang nghiêm là quả báo. Quả
phức tạp là theo mức độ phức tạp mà nói th́ nhân
tất nhiên sẽ tỷ lệ thuận với quả. V́ trong nhân
quả phức tạp như thế nên chúng ta cần phải cẩn
thận chú ư, luôn cảnh giác chính ḿnh từng thời
từng khắc, tuyệt đối không được tạo nhân
xấu.
Khi c̣n trẻ, mới tiếp xúc
Phật pháp, tôi vô cùng khâm phục Đức Phật, Ngài
chỉ dạy mọi người hăy nh́n ḿnh, không nên nh́n
người khác. Điều này làm tôi khâm phục năm vóc
lạy sát đất. Đức Phật dạy là dạy cho bạn, không
phải dạy cho người khác. Nếu như bạn không vào
từ cửa này mà muốn sớm thành tựu đạo nghiệp th́
tuyệt đối làm không đến. Bởi v́, trọng tâm tu
học Phật pháp là thiền định, là tâm thanh tịnh.
Nếu như tâm bạn luôn nghĩ đến hoàn cảnh bên
ngoài rồi phân biệt nó th́ đến khi nào bạn mới
đạt được định ? Sẽ không bao giờ đạt được mục
đích ấy !
Bạn muốn thành tựu thiền
định, thành tựu tâm thanh tịnh thật sự th́ hoàn
toàn không duyên theo cảnh bên ngoài, trở lại
duyên bên trong; đây là Phật pháp cao minh; v́
thế Phật pháp được gọi là “nội học” là dạy bạn
không phan duyên bên ngoài. Cảnh giới bên ngoài,
thuận cảnh cũng tốt, nghịch cảnh cũng được;
người tốt cũng được, người xấu cũng chẳng sao,
bạn không cần để ư. Bạn đối với cảnh bên ngoài
tâm luôn chân thật cung kính, thuận cảnh cũng
như thế mà nghịch cảnh cũng như vậy; đối xử
người thiện và người ác b́nh đẳng như nhau,
tuyệt đối không được phân biệt, chỉ có tâm chân
thành. Bạn vận dụng được tâm này th́ không những
người tốt, người thiện ca ngợi bạn mà người xấu
cũng tán dương bạn; người xấu được bạn cảm hóa,
đoạn ác tu thiện. V́ thế, Lục Tổ Huệ Năng nói
rất hay :“Nếu là bậc chân tu th́ không thấy lỗi
của người !”
Người thường thấy lỗi thế
gian là tự rước họa vào thân. Ngày nay, chúng ta
mắc chứng bệnh nặng này rất phổ biến; từ sáng
đến tối luôn thấy lỗi của người khác mà không
thấy lỗi ḿnh. Khi nào chúng ta không thấy lỗi
người khác mà chỉ thấy lỗi ḿnh th́ chúng ta
thành công. Công phu tu tập của bạn đạt
được hiệu quả, bạn được thọ dụng thật sự
!
Người khác th́ thế nào ?
Họ tự có nhân quả của họ, quan trọng là chính
ḿnh. Nhân quả của họ, bạn không thể chịu thay
cho họ, cũng không thể giúp họ thay đổi. Huống
ǵ ở thời buổi này, ai chịu nói lỗi của người
khác ? Người xưa cũng không nói. Chúng ta đọc Lễ
kư, tác phẩm đời Hán ghi, người nào nói lỗi của
bạn ? Chỉ có cha mẹ của bạn và thầy giáo của
bạn. V́ họ có trách nhiệm dạy dỗ nên mới nói lỗi
của bạn, bạn không được căi lại. Bạn nói lỗi của
bạn đồng học th́ bị họ oán hận, thù hiềm ŕnh
chờ cơ hội báo thù. Do đó, ai chịu nói lỗi cho
ḿnh? Không có người nào chịu
cả.
Phật, Bồ-tát giảng kinh,
thuyết pháp một cách khéo léo để chúng ta nghe
rồi nghĩ lại, ḿnh có lỗi hay không, nếu có lỗi
th́ hăy mau mau tự ḿnh phản tỉnh; đây gọi là
“có lỗi th́ sửa, không có lỗi th́ khen ngợi”.
Các Ngài không nói thẳng lỗi của chúng ta mà các
Ngài chỉ nói một cách khéo léo để chúng ta tự
ḿnh phản tỉnh, tự giác ngộ, v́ tâm của các Ngài
thanh tịnh. V́ thế trong kinh luận nói lỗi lầm
của hàng phàm phu rất nhiều, nhưng trên thực tế
Đức Phật chẳng thấy lỗi lầm của người nào; đây
là sự tài t́nh trong cách dạy học của Đức-Phật
nên Ngài chẳng mất tâm thanh
tịnh.
Chúng ta phải hiểu rơ
những điều này để tự ḿnh phản tỉnh, hiểu được
ḷng từ bi chân thành của Chư Phật, Bồ-Tát thật
bao la. Chỉ cần chúng ta tự nỗ lực, tu hành đúng
lời dạy của các Ngài, không cần quan tâm đến
hoàn cảnh th́ tự nhiên có Phật hộ niệm; Hộ pháp,
Thiện-thần ủng hộ chúng ta. Chúng ta không cần
lo lắng có người đến phá hoại, gây chướng ngại.
Bằng không, dù người khác không đến gây chướng
ngại mà chính ḿnh lại tự gây chướng ngại trước.
Chúng ta nghĩ làm việc ǵ th́ đó chính là vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước làm hỏng chính ḿnh
trước tiên; điều này chúng ta cần phải nh́n kỹ
mà buông xả.
Chúng ta phải tin chắc có
sự hộ niệm của Chư Phật. Sự hộ niệm này chính là
tất cả chư Phật thường nhớ nghĩ và quan tâm
chúng ta; đây là sự thật. Hộ pháp, Thiện thần
tôn kính, khâm phục nên luôn luôn ủng hộ chúng
ta. C̣n nếu ḿnh luôn nghi ngờ th́ chẳng những
Đức Phật không hộ niệm mà Thiện thần, Hộ pháp
cũng không che chở. Chúng ta phải tự xét kỹ,
bằng không th́ chịu thiệt tḥi rất
lớn.
V́ thế, hai chữ “tin
Phật” thật không dễ dàng, tin Phật rồi, chúng ta
có c̣n vọng tưởng không? C̣n lo âu, c̣n bận tâm
không ? Tất cả đều không c̣n, như thế mới nhất
tâm hướng về đạo. Đạo ở đâu ? Đạo chính là ngay
trong cuộc sống, là chuyện ăn cơm, mặc áo. Chúng
ta đọc đoạn mở đầu trong Kinh Kim Cang ghi :“Đức
Phật Thích-Ca đắp y, ôm bát, vào thành Xá-Vệ
khất thực”; đây chính là đạo. Do đó, chúng ta có
thể biết trong cuộc sống thường ngày chẳng có ǵ
thay đổi, công việc hằng ngày cũng như vậy;
những việc xử sự, đăi nhân tiếp vật, xă giao vẫn
như thường.
Phật, Bồ-tát khác với
phàm phu ở điểm nào ? Phàm phu khởi tâm động
niệm trong tất cả cảnh duyên v́ phân biệt chấp
trước nên trái với đạo. C̣n Phật, Bồ-tát ngay
trong cuộc sống không khởi tâm động niệm, không
phân biệt, không chấp trước, hằng thuận chúng
sanh, tùy hỷ công đức. Cuộc sống của các Ngài tự
tại, giao tiếp tự tại, được đại tự tại, được đại
viên măn.
Đại tự tại, đại viên măn
đều từ trong tâm thanh tịnh sanh ra. Kinh Kim
Cang nói rất hay :“Tín tâm thanh tịnh th́ sanh
thật tướng” tức là sanh trí tuệ thật tướng
Bát-nhă. Trí tuệ thật tướng Bát-nhă hiện ra th́
làm sao mà không được tự tại ! Làm sao mà không
viên măn ! Rốt cuộc đều do tâm thanh tịnh
!
V́ thế, người tu hành ở
bất cứ lúc nào, nơi nào cũng luôn luôn giữ tâm
thanh tịnh, cũng chính là Giác, Chánh, Tịnh mà
phần trước nói là Tam-quy. Giác là không mê,
Chánh là không tà, Tịnh là không nhiễm. Đạo lư
niệm Phật cầu sanh về Tịnh độ như thế, lẽ nào
chúng ta không được văng sanh
?
Nói về nhân duyên ở đời,
như trong kinh Đức Phật dạy :“Chúng ta có thể
làm được việc thế gian, nhưng không được làm
theo ư thế gian”. Hai câu nói này thật là hay.
Việc thế gian chúng ta có thể làm được, Kinh Hoa
nghiêm ghi:“Lư sự vô ngại, sự sự vô ngại”.Vậy
chướng ngại ở đâu ? Chướng ngại ở ư thế gian. Ư
thế gian là ǵ ? Là vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước. Bạn phải đoạn trừ những thứ này. Ư nghĩa
hai câu này rất là sâu rộng.
Đức Phật thuyết pháp suốt
49 năm, giảng kinh hơn ba trăm hội. Ngài giảng
điều ǵ ? Chính là giảng những điều này, muôn
ngh́n lời nói, nói không cùng, đối với người,
đối với việc, đối với sự vật; chúng ta nghĩ như
thế nào ? Nghĩ là sai lầm, nghĩ là rơi vào trong
ư thức, nghĩ chính là vọng
tưởng.
Có lẽ bạn hỏi : Chẳng
phải mọi người đều phải suy nghĩ đó sao ? Không
sai ! Mọi người đều là phàm phu, đều có vọng
tưởng. Có phải ai cũng như thế không ? Chỉ trừ
Phật, Bồ-tát không suy nghĩ như vậy. Đáng tiếc
là bạn chưa thấy, những điều bạn thấy đều là
phàm phu; cho nên, bạn cho việc ḿnh suy nghĩ
b́nh thường.
Tại sao Phật, Bồ-tát
không có suy nghĩ như thế? Bởi v́, các ngài biết
vạn pháp đều không. Trong Kinh Kim cang ghi
:“Không thể nắm bắt được tâm ba thời”. Các ngài
biết nghĩ là không, các pháp do duyên sinh,
duyên sinh là tánh không, nên nghĩ cũng là không
th́ có ǵ đâu để mà suy nghĩ ! Các ngài không
suy nghĩ, nhưng đối phó sự việc lại có thể chu
đáo mọi mặt. Tại sao các ngài làm chu đáo ? Là
phát xuất từ trí tuệ.
Tôi nêu ra một ví dụ, khi
chúng ta đọc kinh điển thấy lời Đức Phật dạy có
hay không ? Rất có thứ tự, lớp lang không một
chút lộn xộn; bất luận là giảng lư hay sự, đều
đâu ra đó. Phật không khởi ư niệm :“Lần này, Ta
phải giảng pháp như thế nào ?”. Chưa hề, Ngài
không khởi tâm, không động niệm, hoàn toàn tùy
thuận tự tánh, từ trong tâm tánh phát ra tự
nhiên như thế.
Chúng ta c̣n khởi tâm
động niệm nên hành động c̣n nhiều thiếu sót. V́
sao nhiều người giảng mà chẳng có ai thành công,
tại sao nhiều người viết sách mà chẳng có ai
viết hay ? Cho nên, chúng ta học Phật là học
không khởi tâm, không động niệm, không phân
biệt, không chấp trước, mọi việc đều dùng tâm
chân thành. Tâm chân thành tất nhiên phát sinh
trí tuệ, nên tự nhiên được chư Phật gia tŕ. Sự
gia tŕ này chính là sự hộ niệm, sự quan tâm của
chư Phật.
Tâm chân thành là tâm
Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Tứ hoằng thệ
nguyện là đồng nguyện với Phật, đồng đức đồng
tâm. Chúng ta có hiểu được ư nghĩa này không ?
Ngay trong cuộc sống thường ngày chúng ta làm
được bao nhiêu phần ? Đây chính là điều chúng ta
tu hành. Tại sao chúng ta hành không đạt hiệu
quả ? V́ sao không cải thiện được cuộc sống của
chúng ta ? Nguyên nhân là ở tại chỗ
này.
Chúng ta xét kỹ lại ḿnh,
tự kiểm điểm ḿnh th́ thấy chúng ta làm sai rồi
! Hôm nay chúng ta thuận theo phiền năo, tùy
thuận tập khí. Phiền năo là tham, sân, si. Chúng
ta tùy thuận mấy thứ này; mắt thấy sắc đẹp, tai
nghe tiếng hay, liền khởi tâm tham đắm, khởi tâm
kiêu mạn, việc ǵ không vừa ư th́ nổi giận;
những điều này đều là ngu si.
Thế nên, có người này
nh́n bề ngoài dường như là học Phật, nhưng trên
thực tế đối với người, đối với việc, đối với sự
vật th́ luôn khởi tâm động niệm chẳng có chút ǵ
sửa đổi. Trong kinh Đức Phật dạy hai
chữ “thọ tŕ”; chẳng những chúng ta không làm
được mà không hiểu ư nghĩa hai chữ này, nếu có
hiểu th́ lại hiểu sai; cho rằng mỗi ngày tôi
tụng kinh một lần là thọ tŕ. Chúng ta biết sai
ở đâu không?
Tôi nói thật, chúng ta
muốn đạt được hiệu quả công phu tu tập là cải
thiện cuộc sống của chúng ta, chẳng những cải
thiện đời sống hiện tại mà c̣n cải thiện đời
sau. Cuộc sống đời sau, ư nghĩa này thật là rất
dài. Theo cách sống hiện tại của chúng ta đúng
như trong Kinh luận, Đại-thừa, Tiểu-thừa Đức
Phật dạy : sau khi chúng ta mất thân người, đời
sau muốn được thân người, thật là khó ! Vậy
chúng ta sẽ đi về đâu ? Phần đông đọa trong ba
đường ác !
Làm sao chúng ta biết
ḿnh đọa vào ba đường ác ? Chỉ cần nghe mọi
người nói một câu th́ biết rơ :“Chết rồi làm
quỷ”. Mọi người đều cho rằng, sau khi chết rồi
đều làm quỷ. Tôi chưa nghe ai nói chết rồi làm
người mà chỉ nghe nói sau khi chết rồi làm
quỷ.
Đức Phật thường dạy chân
lư :“Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”. Theo cách
nghĩ của bạn người chết đều thành quỷ. Bạn có ư
nghĩ, quan điểm như vậy th́ nhất định bạn đi làm
quỷ rồi! Có bao nhiêu người suy nghĩ sau khi
chết được làm người, hoặc sanh lên cơi Trời hay
làm Phật, Bồ-tát; điều này rất ít nghe nói đến,
chỉ có nghe người chết đều bị làm quỷ. Chúng ta
không nên cho câu nói này là b́nh thường, chưa
chắc là đúng. Thật ra câu nói này là đúng, câu
nói này thật không b́nh
thường.
Tất cả pháp từ tâm tưởng
sanh, Kinh Hoa-Nghiêm ghi :“Duy tâm sở hiện, duy
thức sở biến”. Đây cũng là lời Đức Phật dạy, con
người sau khi chết, được thân người lại rất khó;
huống ǵ theo nguyên lư kinh Phật đă dạy, đời
sau muốn được làm thân người th́ nhất định phải
đầy đủ điều kiện của năm giới. Năm-giới với
năm-thường của nhà Nho so sánh cũng gần giống
nhau. Năm thường là nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín.
1. Nhân : Là nhân từ chúng ta làm
được không ? Đối với người, đối với vật chúng ta
có ḷng nhân từ chưa ?
2. Nghĩa : Đối với người,
đối với sự vật, chúng ta có tận tâm làm tṛn
nghĩa vụ chưa ? Tuy có thù lao, nhưng không xem
trọng thù lao mà cho là việc bổn phận của ta.
Chúng ta phải tận tâm tận lực làm cho tốt; đây
là đạo nghĩa, nhưng không nên xem là trả thù
lao. Thù lao nhiều th́ tôi làm nhiều, thù lao ít
th́ tôi làm ít, hạng người này không có
nghĩa.
3. Lễ : Giữa người với người
phải có lễ phép qua lại.
4. Trí : Nói đơn giản là lư trí,
chẳng phải theo t́nh cảm mà làm
việc.
5. Tín : Là tín dụng, chữ tín rất
quan trọng là “không dối ḿnh, không lừa người”.
Tự lừa dối ḿnh là lương tâm bị mê muội. Chúng
ta thường nghe tục ngữ nói “Người không có lương
tâm”. Người không có lương tâm th́ bàn đến chữ
tín làm ǵ ? Bên trong lương tâm mê muội; bên
ngoài dùng nhiều thủ đoạn tinh vi lừa gạt người
khác.
Người nào phạm năm điều
này th́ đời sau không làm được thân người. Chúng
ta làm được năm điều này th́ lương tâm không có
hổ thẹn, chắc chắn đời sau được làm thân người.
Chúng ta xem những người này trong xă hội ngày
nay, lại so với ḿnh, điều quan trọng nhất là tự
kiểm điểm ḿnh, tự ḿnh có làm được hay không ?
Tự ḿnh đời sau có được thân người không ? Nếu
như chúng ta không có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín
th́ đời sau nhất định đọa trong ba đường
ác.
Như tôi vừa nói, mọi
người đều nói sau khi chết làm quỷ, trong sáu
đường luân hồi, không đến đường khác mà cứ khăng
khăng chọn đường quỷ, nhưng đă nói đến đường quỷ
th́ phải có lư của nó. Điều kiện của đường ngạ
quỷ là tâm tham; tham danh tiếng, tham lợi
dưỡng, tham sắc đẹp; đối tượng tham rất nhiều,
chỉ cần nặng tâm tham là nghiệp nhân của đường
ngạ-quỷ. Tâm nặng sân hận, ganh tỵ là nghiệp
nhân của đường địa-ngục. Không có trí tuệ, không
phân biệt được thật-giả, chánh-tà, thiện-ác là
nghiệp nhân của đường súc-sinh. Tham, sân, si là
nghiệp nhân của ba đường ác. Chúng ta tự xét
ḿnh có tham, sân, si không ? Tham, sân, si, ư
niệm này có nghiêm trọng không ? Nếu như ư niệm
này nặng th́ chúng ta phải luôn cảnh giác. Nếu
không cảnh giác th́ tương lai của chúng ta sẽ
tăm tối, chúng ta muốn nghĩ đến niệm Phật cầu
sanh về thế giới Tây phương Cực-Lạc th́ nhất
định phải diệt tham, sân, si; siêng tu ba
tư-lương là Tín, Nguyện, Hạnh theo đúng lời Phật
dạy mà tu hành.
Đời nay, chúng ta không
để thời gian trôi qua uổng phí, nhân duyên đời
này thù thắng không ǵ sánh bằng. Chúng ta thật
sự gặp được Phật pháp, lại gặp được pháp môn
Tịnh độ rất thù thắng. Duyên phận này không thể
nghĩ bàn, trong bài kệ khai kinh ghi :“Trăm
ngh́n vạn kiếp khó gặp được”. Chúng ta đă gặp
được rồi, nhân duyên thiện căn, phước-đức đầy
đủ; nếu như tự ḿnh không nắm bắt để nó trôi qua
th́ thật là đáng tiếc.
Đức Phật của
chúng ta cách nay hơn 2500 năm mà Ngài đă biết
trước được những chướng ngại của chúng sanh tu
học Phật pháp trong thời kỳ mạt pháp, những lời
vàng ngọc của Ngài vẫn c̣n lưu lại trong kinh
điển. Điều đó chứng tỏ Ngài đúng là bậc
Nhất-Thiết-Trí, Vô-Thượng Tôn-Sư. Nếu Ngài không
phải là bậc Nhất-Thiết-Trí, Vô-Thượng Tôn-Sư th́
không nói được như thế !
Nguồn gốc việc siêu độ
:
Trong nhà Phật, việc siêu
độ vô cùng phổ biến. Có thể nói thời đại này,
vong nhân là đối tượng chủ yếu của Phật sự.
Trước đây Phật-giáo dạy người sống, Phật-giáo
ngày nay lại độ cho người
chết.
Đó là lư do Phật-giáo bị
nh́n nhận dưới góc độ mê tín dị đoan. Nhiều
người cho rằng Phật-giáo là tôn giáo thấp kém,
họ kịch liệt bài xích. Trong khi Phật-giáo đích
thực không phải để siêu độ người
chết.
Lăo Pháp-sư Đạo An đă
từng giảng, nguồn gốc của việc siêu độ bắt đầu
từ thời đại Đường Minh Hoàng. Thời Đức Phật
không có, Phật-giáo truyền đến Trung Quốc thời
kỳ đầu cũng không ghi chép sự việc này. Đến thời
đại của Đường Minh Hoàng, v́ vua Đường sủng ái
Dương Quí Phi, khiến nhân dân và triều thần bất
măn, mới có loạn An Lộc Sơn nổi tiếng trong lịch
sử suưt nguy cấp đến cả quốc gia dân tộc. Với sự
đắc lực của Quách Tử Nghi, một vị đại tướng
đương thời đă b́nh định cuộc nổi loạn, tuy
nhiên, quân dân tử thương rất nhiều. Sau khi
b́nh định cuộc nổi loạn, triều đ́nh tại mỗi
chiến trường chính, xây dựng một miếu thờ gọi là
Khai Nguyên Tự, v́ đúng vào niên hiệu Khai
Nguyên, thỉnh cao tăng đại đức, tụng kinh, bái
sám truy điệu cho quân dân tử nạn. Đây là lễ
truy điệu do triều đ́nh cử hành, gọi là pháp hội
siêu độ. Từ đó dân chúng học theo, mỗi khi có
người qua đời, người dân cũng thỉnh Pháp-sư đến
làm Phật sự siêu độ, tạo phong tục cho đến ngày
nay.
Tuy nhiên pháp hội siêu
độ vào thời đó cũng không nhiều, một năm chỉ có
đôi ba lần, công việc chủ yếu của tự viện am
đường vẫn là giảng kinh thuyết pháp. Chúng ta
cần hiểu rơ đạo lư này. Chúng tôi đă xây dựng
đạo tràng ở Đài Bắc, thư viện nghe nh́n
Phật-giáo, mỗi năm cũng chỉ có ba lần pháp hội
siêu độ : Thanh Minh, Trung Nguyên, Đông Chí.
Phương thức chủ yếu là mở khóa Phật thất, dùng
công đức niệm Phật hồi hướng cho người mất. Ngày
cuối cùng Phật thất, tổ chức tam thời hệ niệm.
Hiện tại, rất nhiều nơi cũng dùng phương cách
này. Ấn Quang đại sư năm xưa c̣n sống, niệm Phật
đường của chùa Linh Nham Sơn không có Phật sự.
Phật tử yêu cầu siêu độ tổ tiên, người thân
quyến thuộc th́ đều để bài vị ở niệm Phật đường,
chùa không làm riêng lẻ cho bất cứ ai mà lấy
công đức niệm Phật của đại chúng ở niệm Phật
đường hồi hướng. Cách làm này rất đáng được học
tập và nhân rộng.
V́ sao phải tụng kinh
siêu độ ?
Ư nghĩa của tụng kinh
siêu độ so với h́nh thức truy điệu của thế gian
hẳn nhiên là sâu hơn. Truy điệu thế gian chỉ
mang mục đích kỷ niệm, tưởng nhớ, tuyên dương
những cống hiến lúc người đó c̣n sống, xong rồi
quên lăng. Nhưng ư nghĩa tưởng nhớ trong Phật
pháp th́ sâu hơn. Tụng kinh, niệm danh hiệu
Phật, Bồ-Tát là kiểu truy điệu có ư nghĩa thực
chất nhất.
Người xưa có câu :“Thế
gian hảo ngữ Phật thuyết tận”. Việc tốt ở thế
gian Đức Phật đều đă làm. Cho nên chúng ta hăy
học theo lời Đức Phật để truy điệu người quá cố
bằng những việc tốt mà thuật ngữ nhà Phật gọi là
công đức chân thực. Người mất nh́n thấy việc làm
của chúng ta, họ vô cùng hoan hỷ. Người sống
thực tập như lư như pháp th́ lợi ích người mất
nhận được một phần. Đạo lư này người b́nh thường
khó có thể hiểu được, đôi khi c̣n cho là hoang
đường. Chỉ khi tu học, chúng ta mới liễu ngộ,
mới hiểu được chân tướng sự thật. Ngày nay ít
người hiểu hoặc hiểu sai quá nhiều. Cho nên cần
phải nâng cao cảnh giới của ḿnh th́ mới có thể
có nhận thức chân thực triệt
để.
Kinh Địa-Tạng đưa ra h́nh
ảnh nữ Bà la môn siêu độ mẹ ḿnh, không thỉnh
Pháp-sư đến làm Phật sự, không hề mời người đến
tụng kinh, mà cô dùng phương pháp tu học. Dùng
bản thân đích thực quay đầu, đoạn ác tu thiện,
sửa chữa lỗi lầm, chân thành sám hối. Sau đó lấy
công đức này để tưởng nhớ mẹ. Mẹ cô nhờ đó mới
triệt để đoạn ác tu thiện, đích thực phá mê khai
ngộ, bà từ địa ngục liền được sinh thiên. Thế
nhưng nếu tư duy và quan sát tỉ mỉ, chúng ta sẽ
thấy nữ Bà la môn nhờ mẹ tạo ác, đọa địa ngục,
nên cô mới có động lực quyết tâm tu hành nghiêm
túc. Công phu của cô là cảnh giới A La Hán, thật
sự chuyển phàm thành thánh. Người giúp cô đạt
đến cảnh giới này chính là mẹ cô. Nhờ duyên của
mẹ thúc đẩy cô tu hành chứng quả. Khi đă chứng
quả, công đức đạt được lại làm vẻ vang cho mẹ
ḿnh. Mẹ cô siêu sinh từ địa ngục lên cung trời
Đao Lợi. Chúng sinh ngày nay chỉ biết làm theo
h́nh tướng mà không hiểu nội dung thực chất cho
nên không đạt hiệu quả lớn.
V́ sao phải tạo nhiều
tượng Phật ? Số tiền này đem cứu giúp người
nghèo khổ bị nạn không tốt hơn sao
?
Không thể
nói không có lư, cũng không thể nói hoàn toàn có
lư. V́ sao ? Chúng ta chỉ thấy gần mà không thấy
xa. Cứu giúp người nghèo khổ là giải pháp nhất
thời, c̣n tạo nhiều tượng Phật là việc cứu người
dài lâu. Nhà Phật tạo tượng không phải v́ niềm
tin mê tín. Ông Dương, trưởng ban tôn giáo nhà
nước Trung Quốc, thời gian qua tiếp xúc với
chúng tôi đă nói đến ư nghĩa giáo dục của tượng
Phật. Chúng tôi cũng đă bày tỏ, nhà Phật đem
giáo dục và nghệ thuật hợp lại thành một thể.
Giáo dục đạt đến nghệ thuật hóa tối cao, nhà
trường và bảo tàng cùng kết hợp, không những tạo
tượng mà tất cả các thiết chế đều là công cụ dạy
học, từ tượng Phật đến kiến trúc của nhà Phật.
Đời sống cũng là công cụ dạy học, thậm chí tham
gia sự kiện, chúng tôi ăn mặc không khác người
b́nh thường. Chúng tôi đặc biệt t́m bộ áo tràng
lam màu cà phê v́ màu này tượng trưng của nền
văn hóa đa nguyên. Các loại màu sắc trộn lẫn với
nhau, gồm đỏ, vàng, lam, trắng, đen, mà người
Trung Quốc thường gọi là ngũ sắc tượng trưng cho
năm chủng tộc thống nhất thành một. Màu sắc này
là màu của hợp nhất. Thân thể này của chúng tôi
là tổng hợp của tất cả tôn giáo, tất cả các
chủng tộc, tất cả chúng sinh tận hư không khắp
pháp giới.
Theo kinh Hoa Nghiêm,
“Một chính là tất cả, tất cả chính là một”. Một
màu áo này của chúng tôi chính là các loại màu
khác nhau của mọi người. Chúng ta ngày nay cần
phải đoàn kết tôn giáo, ḥa hợp chủng tộc, đó là
giáo học của nhà Phật. Đại kinh thường nói :“Tâm
bao thái hư, lượng châu sa giới”, màu này là màu
tâm bao thái hư, lượng khắp pháp giới. Chúng ta
ăn cơm, dùng bát, thức ăn mỗi nhà cho đều đựng
chung một bát, ẩm thực khác nhau hợp lại thành
một. Cũng vậy, chúng ta ḥa trộn các chủng tộc
khác nhau, tôn giáo khác nhau, hợp lại thành
một. Đời sống đều là biểu pháp, mỗi niệm không
quên.
Từ đó mà đạo tràng của
nhà Phật có h́nh thức thống nhất. Ở Trung Quốc,
bước vào trước tiên phải từ tam môn, tam môn
Thiên Vương Điện, thấy được Bồ-tát Di Lặc với
h́nh ảnh ḥa thượng Bố Đại, bụng rất to bao dung
khắp cả pháp giới, mỉm cười đón mọi người, tâm
thường hoan hỷ, điều ǵ cũng có thể chịu đựng.
Tứ Đại Thiên Vương biểu tượng hộ pháp cho chính
ḿnh. Ở phương Đông, Tŕ Quốc Thiên Vương biểu
trưng cho chức trách. Dù địa vị là ǵ, trong
ngành nào, chúng ta phải nỗ lực làm tốt. Cống
hiến cho xă hội, cho chúng sinh không phải v́
bản thân. Tạo phước cho chúng sinh, nhất định
phải làm hết chức trách. Trên tay cầm đàn
tỳ bà, không phải v́ vị đó thích ca hát. Tỳ bà
là biểu pháp, đại biểu cho trung đạo, nhà Nho
gọi là trung dung. Có nghĩa là làm việc phải đến
nơi đến chốn, vừa đủ, không nên quá mức. Chúng
ta đối với người, với việc, với vật cũng vậy,
đều phải vừa chừng, giữ nề nếp và tṛn bổn phận.
Chẳng hạn, hiện nay trên thế giới lễ tiết của
mỗi nước khác nhau. Lễ kính nhất là ba lần cúi
chào, dành cho t́nh huống gặp người tôn kính.
Hai lần cúi chào chứng tỏ người ngạo mạn. Bốn
lần cúi chào chứng tỏ người đó nịnh bợ. Phương
nam có Tăng Trưởng Thiên Vương, “tăng trưởng” là
cầu tiến, mỗi ngày mỗi mới, quyết không dừng ở
hiện tại, cầu trí tuệ, trí tuệ phẩm đức phải
tiến bộ, sự nghiệp thăng hoa, đời sống ngày càng
viên măn.
Cho nên tạo tượng có ư
nghĩa giáo dục vô cùng sâu sắc, giúp chúng ta
hiểu và sửa sai. Nh́n thấy Bồ-tát Di Lặc bao
dung, chúng ta liền nghĩ ḿnh chưa bao dung,
sinh tâm hổ thẹn mà quyết tâm học tập theo ngài.
Ư nghĩa của công đức tạo tượng so với cứu giúp
người nghèo khổ sâu xa vô cùng. Danh hiệu Phật,
Bồ-Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng
trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng
vô lượng vô biên, tướng tốt vô lượng vô biên. Ư
nghĩa giáo dục là như vậy.
Phật-giáo là trường đại
học đầy đủ các khoa, nhưng chỉ dùng danh hiệu
Phật, Bồ-Tát làm đại diện. Nó là giáo dục mà
không phải là tôn giáo, là trí tuệ, nghệ thuật
mà không phải là mê tín. Nơi nào phổ biến giáo
dục Phật pháp, nơi đó không có người nghèo khổ.
Phương cách cứu giúp này mới triệt để. V́ mỗi
người đều có tâm thiện, nghĩ thiện, làm việc
thiện, mỗi người đều có thể hiến dâng ḿnh, v́
xă hội, v́ chúng sinh, tạo phước th́ thế giới
này là thế giới của hạnh phúc.
Đem tiền đi cứu giúp
người nghèo khổ là việc tạm thời, c̣n dùng tiền
để tạo tượng, hoằng dương giáo dục của Phật Đà
mới là cách cứu giúp lâu dài, triệt để, và viên
măn nhất. Kinh Phật nói, dùng bảy báu của đại
thiên thế giới đem cứu khổ cứu nạn, công đức đó
không bằng người có tâm v́ tất cả chúng sinh nói
chỉ vỏn vẹn bốn câu kệ khiến người khai ngộ. Cứu
tế không thể giải quyết vấn đề v́ đời sống dựa
vào cứu giúp. Phật không dùng cách cứu tế để
giúp đỡ người, ngài dạy chúng ta mở trí tuệ, có
năng lực, dạy chúng ta tự sản xuất không những
có thể nuôi sống ḿnh mà c̣n có thể giúp ích xă
hội. V́ vậy lợi ích công đức thù thắng của Phật
pháp là vô lượng vô biên. Tiếc là ngày nay rất
ít người giảng giải, rất ít người phát huy rộng
răi nên khiến mọi người trong xă hội hiểu lầm.
Đây cũng là lỗi của bốn chúng đệ tử Phật môn
chúng ta do chưa làm hết trách nhiệm
!
Tháng bảy âm lịch là
tháng cô hồn. Rất nhiều quỷ quái trong âm gian
địa phủ xuất hiện ở nhân gian. V́ vậy trong
tháng này, việc Phật sự siêu độ theo đó cũng rất
bận rộn. Một số thắc mắc được đặt ra :“Liệu việc
siêu độ rốt cuộc có hiệu quả hay không ? Việc
siêu độ có nhất thiết phải do người xuất gia
thực hiện hay không ?”.
Nhà Phật có phương pháp
và lư luận của việc siêu độ rất hợp t́nh, hợp lư
và hợp pháp. Thế nhưng cách thức siêu độ quy mô
lớn này lại không thường thấy trong Phật giáo
nguyên thủy. Ngay trong kinh điển đại-thừa Trung
Quốc phiên dịch, ghi chép việc này rất rơ ở
“Kinh Địa-Tạng Bồ-Tát Bổn Nguyện”. Trong kinh
cho thấy nữ Bà la môn, nữ Quang Mục đều là người
trẻ tuổi hiếu thảo. Cha mẹ của họ do thiếu tri
thức đă tạo nhiều nghiệp tội phải đọa vào ba
đường ác.
Chúng sinh tạo tác nghiệp
tội, gieo nhân lúc sinh thời
:
Đức Phật nói, mười pháp
giới là cảnh giới hư huyễn, do vọng tưởng phân
biệt chấp trước của chúng sinh mà biến hiện ra.
Cũng giống như trong mộng, cảnh giới trong mộng
tuy không thật, nhưng không thể nói nó không có.
T́nh trạng sáu cơi cũng vậy, do vọng tưởng, phân
biệt, cộng thêm chấp trước nghiêm trọng liền
biến hiện ra tướng sáu cơi luân hồi. Hay nói
cách khác, nếu chúng sinh không vọng tưởng, phân
biệt chấp trước, không những không có lục đạo,
mà mười pháp giới cũng không có. V́ vậy Đức Phật
nói, những hiện tượng này như mộng huyễn, và
những hư ảo này chỉ tồn tại khoảng thời gian
không lâu. Đức Phật lại nêu ra một ví dụ “Như
sương cũng như điện”. Sương là giọt sương tan
biến khi mặt trời xuất hiện, thời gian tồn tại
của nó không dài. Điện là tia chớp, thời gian
tồn tại càng ngắn hơn. Trong Kinh Bát Nhă, Đức
Phật cũng đem chân tướng sự thật này nói rất rơ
ràng tường tận. Lư luận và phương pháp siêu độ
cũng không rời khỏi nguyên lư
này.
Tất cả nghiệp tội đều do
chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cơi lại xuất
hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo
vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
Ví như người trong mộng thấy mộng, mộng là giả,
trong mộng nếu gặp hổ muốn ăn thịt, th́ người
nằm mộng cũng sẽ khiếp vía toát cả mồ hôi. Khi
tỉnh mộng, tâm vẫn c̣n sợ hăi. Cảnh giới hư ảo
nhưng cảm thọ lại thật. Sống trong ác đạo phải
thọ những khổ đau này. Kinh điển có ghi chép, A
La Hán là người đắc đạo, không phải phàm phu.
Phàm phu chúng ta không thể nhớ được chuyện quá
khứ, nhưng A La Hán có thể nhớ được hành vi tạo
tác trong năm trăm kiếp quá khứ, bao gồm những
việc khổ vui đă nhận chịu, hoặc ngay trong năm
trăm đời đă từng đọa địa ngục. Đức Phật giảng
kinh thuyết pháp cũng nhắc đến hoàn cảnh trong
địa ngục khiến người ngồi nghe, tâm c̣n run sợ,
thậm chí toàn thân rướm máu.
Phương thức quy nạp
nghiệp nhân trong mười pháp giới
:
Đức Phật dạy người không
vọng ngữ, bản thân ngài tuyệt nhiên không vọng
ngữ, mỗi câu đều là chân tướng sự thật. Do đó
phải tin rằng ba đường ác vô cùng đáng sợ. Người
tạo ác nghiệp sẽ chiêu cảm cảnh giới ba đường ác
: địa ngục, ngă quỷ, súc sinh. Không phải Diêm
La Vương bắt cũng không phải Phật, Bồ-Tát trừng
phạt. Phật, Bồ-Tát đại từ đại bi, tuyệt đối
không trừng phạt người ác. Đức Phật vẫn nói “tự
làm tự chịu”, mỗi người tự tạo loại nghiệp th́
tự nhiên sẽ cảm được quả báo, nhân quả nghiệp
báo vô cùng phức tạp. Ngài có thể giảng rơ ràng,
nhưng lư cao sâu, chúng sinh không thể tiếp thu
cũng không có tuổi thọ dài để lĩnh hội. Cho nên
ngài dạy chúng sinh chọn lấy phương pháp tự
nhiên đơn giản, đó là phương pháp quy nạp. Đức
Phật quy nạp nghiệp nhân trong mười pháp giới,
từ thấp từng bậc từng bậc mà giảng lên
cao.
+ Nghiệp nhân của địa ngục :
là sân
hận, tâm sân cảm địa ngục. Người mang tâm sân
hận nặng, chắc chắn sinh đố kỵ, thủ đoạn tàn
nhẫn, tạo tác nghiệp tội cực trọng, chiêu cảm
quả báo địa ngục th́ tự nhiên biến hiện ra cảnh
giới địa ngục.
+ Nghiệp nhân của ngạ quỷ
: là
tham không chán, tức hưởng thụ chiếm hữu, giành
giựt danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần bất
chấp thủ đoạn, tâm tham sinh bỏn xẻn, không xả
cho người khác, liền biến hiện ngạ
quỷ.
+ Nghiệp nhân của súc sinh
: là ngu
si. Không có năng lực phân biệt chân vọng, không
phân biệt chánh tà, thậm chí thị phi, thiện ác,
lợi hại đều lẫn lộn bất phân. Người ngu si
thường đem tà ác cho là việc tốt, đem chánh pháp
xem thành tà pháp. Ngu si là không có trí huệ,
không có năng lực phân biệt, tự nhiên sẽ rơi vào
đường súc sinh.
Ba đường ác, sáu cơi luân
hồi là cảm thọ từ những việc làm của chính chúng
ta, không phải do sức mạnh nào đó đang chi phối,
an bày hay trừng phạt, mà là chiêu cảm tự nhiên
của nghiệp lực.
+ Nghiệp nhân của cơi Người
:
là luân thường mà trong Phật pháp gọi là
“Ngũ giới”: không sát sinh, không trộm cướp,
không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.
Nhà Nho Trung Quốc c̣n gọi là “Nhân Nghĩa Lễ Trí
Tín” tương đồng với nội dung ngũ giới của nhà
Phật. Con người ngay trong đời, mọi sinh hoạt,
lời nói việc làm đều phải tuân thủ nguyên tắc
này th́ mới có thể giữ được thân người trong lục
đạo. Hoàn toàn không có ngẫu
nhiên.
+ Cơi Trời : phước báu của cơi Trời
cao hơn so với cơi người, do đó điều kiện cũng
cao hơn so với cơi người. Muốn đến cơi Trời phải
tu mười điều thiện, tư tưởng hành tŕ phải tương
ứng với mười điều thiện bao gồm : thân không sát
sanh, trộm cắp, dâm dục; miệng không nói dối,
nói hai chiều, nói lời ác, thêu dệt; ư không
tham, sân, si. Ngoài ra c̣n pháp thiện cũng từ
trong mười điều thiện này mà sinh ra. Người có
thể tu mười nghiệp thiện, kết hợp với việc giữ
Tứ vô lượng tâm, chắc chắn sẽ sinh thiên. Tứ vô
lượng tâm là từ bi hỷ xả bao gồm : từ vô lượng,
bi vô lượng, hỷ vô lượng, và xả vô
lượng.
+ Cơi A Tu La : người tu ngũ giới mười
thiện nhưng không có tứ vô lượng tâm, quả báo
của họ biến thành Tu la. Không có tứ vô lượng
tâm, hưởng phước rồi mê hoặc, điên đảo. Trong
kinh Đức Phật nói, A Tu La không đoạn được tham
sân si. Dùng tâm tham sân si tu mười nghiệp
thiện, tu ngũ giới, họ có phước báu lớn của trời
người nhưng lại không có đức của trời người. V́
thế A tu la có tính cách hung bạo, háo thắng, đố
kỵ. Chẳng hạn, người mang tâm háo thắng mạnh khi
đến thắp hương ở pháp hội, họ nhất định giành
thắp hương đầu tiên, không bằng ḷng đứng sau
người khác. Họ có tu thiện không ? Có, họ cũng
tu tích công đức nhưng lại háo thắng. Quả báo
luôn rơi vào đường Tu la.
Đức Phật dạy chúng ta tu
tâm thanh tịnh, Bồ-tát đạo, tu tâm khiêm hạ,
khiêm tốn nhường nhịn. Xem trong Kinh Hoa Nghiêm
thấy được 53 vị đồng-tham, 53 vị pháp-thân
đại-sĩ đều là Phật, Bồ-Tát. Thái độ đối nhân xử
thế tiếp vật của họ rất khiêm nhường tôn kính,
không một chút ư niệm ngạo mạn, không háo thắng.
Học Phật đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức.
Ngạo mạn háo thắng nếu không thể sửa th́ kết quả
biến thành A tu la. Hướng lên trên là các Thanh
văn tu tứ đế, “khổ tập diệt đạo”, bậc Duyên giác
tu “thập nhị nhân duyên”, Bồ-tát tu “lục đạo”,
Chư Phật tu “b́nh đẳng”. Thanh tịnh b́nh đẳng
chính là Phật đạo. Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni đem
nghiệp nhân phức tạp của mười pháp giới qui nạp
lại thành trọng điểm dạy cho chúng ta giúp mọi
người hiểu rơ nguyên nhân của quả báo. Đây là
thường thức phổ thông của việc học Phật không
thể không hiểu, không thể không
biết.
Công đức siêu độ mẹ được
nêu trong Kinh Địa-Tạng :
Đối với khởi tâm động
niệm, chúng ta sẽ tự biết tương ứng với đường
nào. Không hiểu đạo lư, không biết chân tướng sự
thật, làm càng làm quấy, tạo ác nghiệp đọa vào
ác đạo. Dù có con hiền cháu thảo cũng khó ḷng
giải trừ được, huống hồ xă hội hiện nay người
hiếu thảo càng ngày càng ít. Trong Kinh
Địa-Tạng, nữ Quang Mục, nữ Bà la môn là những
hiếu tử, thấy mẫu thân tạo tác tội nghiệp, rơi
vào ác đạo, họ toàn tâm toàn lực nghĩ cách cứu
giúp mẹ. Tâm chân thành liền cảm động Phật,
Bồ-Tát.
Cần hiểu rơ Phật, Bồ-Tát
không thể cứu giúp, các Ngài chỉ có thể đem
phương pháp lư luận cứu giúp truyền lại cho
chúng sinh. Phương pháp cứu độ chúng sinh là vô
lượng vô biên, trong đó niệm Phật là phương pháp
hữu hiệu nhất. Nữ Bà la môn được dạy phương pháp
niệm Giác Hoa Định Như-Lai, tuy không niệm Phật
A-Di-Đà, nhưng niệm Giác Hoa Định Như-Lai cũng
như niệm Phật. Hiếu nữ này v́ muốn cứu khổ nạn
cho mẹ, cô thường khuyên nhủ nhưng mẹ cô không
tin, không thể tiếp nhận, cho nên bà gặp quả báo
địa ngục. Theo lời Phật dạy, cô dụng công niệm
Phật bằng tâm khẩn thiết. Sau khi nỗ lực hết
ḿnh, niệm một ngày một đêm th́ cô được
định.
Trạng thái nhất tâm bất
loạn trong niệm Phật thuộc về sự công phu rất
cao. Tâm của phàm phu là tán loạn. Niệm đến nhất
tâm bất loạn tương đương với A La Hán của tiểu
thừa, rất khó đạt được. Kinh Địa-Tạng là kinh
đại-thừa, nữ Bà la môn không phải là A La Hán
của tiểu-thừa nhưng công phu đoạn chướng của cô
tương đương A La Hán, công đức tu tích vượt lên
trên A La Hán, ngang hàng Bồ-tát. Đến cảnh giới
định cô liền nh́n thấy địa ngục biến hiện ra.
Trong địa ngục, quỷ vương gác cửa thấy cô liền
cung kính gọi Bồ-tát và lễ phép chào hỏi. Cô
liền hỏi quỷ vương về mẹ cô hiện ở nơi nào trong
địa ngục. Quỷ vương chắp tay kính cẩn chúc mừng
rằng nhờ cô phát nguyện siêu độ nên bà ấy đă
thoát khỏi địa ngục, được sinh lên cơi trời.
Cách siêu độ rất hiệu nghiệm mà không cần phải
mời Pháp-sư đến tụng kinh, bái sám. Tự thân niệm
Phật, niệm đến nhất tâm bất loạn, rồi dùng công
đức này hồi hướng cho cha mẹ. Chúng ta nhất định
phải thể hội chân thành. Tu hành chứng quả không
dễ, tại sao nữ Bà la môn chỉ trong một ngày một
đêm có thể niệm đến nhất tâm bất loạn ? Nếu mẹ
cô không đọa địa ngục, không bị những khổ nạn,
th́ cô sẽ không có động lực tha thiết niệm Phật
đến vậy !
Ngày nay chúng ta niệm
Phật nhiều năm tại sao ngay cả công phu cũng
không đạt được huống hồ nhất tâm bất loạn. Đó là
do chúng ta không có áp lực. Chỉ khi người thân
yêu rơi vào A-Tỳ địa ngục, chịu những khổ nạn,
chúng ta mới toàn tâm toàn lực muốn cứu giúp.
Đức Phật truyền trao phương pháp này, chúng ta
hăy nỗ lực tu hành. Mẹ của nữ Bà la môn đă làm
tăng thượng duyên cho cô, nếu bà không bị đọa
địa ngục th́ cô sẽ không có thành tựu này. Vậy
nguồn gốc sâu xa là mẹ cô đă giúp cô, cô cũng
giúp lại mẹ cô. Khi cô trở thành Bồ-tát, quỷ
thần đối đăi cung kính với mẹ cô, không thể đối
đăi như những tội nhân thông thường. Kinh nói
“bảy phần công đức, ḿnh được sáu phần”, phần
c̣n lại hồi hướng cho thân bằng quyến thuộc. Đôi
bên đều được công đức mới thật sự viên măn
!
Muốn siêu độ cho thân
bằng quyến thuộc, chúng ta phải chăm chỉ tu
hành, tích công lũy đức, thật tâm siêu độ. Việc
tu hành thành tựu th́ người thân mới được độ.
Cũng như ở thế gian, muốn cho cha mẹ tự hào,
thân bằng quyến thuộc và mọi người trong xă hội
tôn kính, chúng ta phải thành tựu học vấn, thành
tựu đức hạnh của ḿnh. Đi đến đâu, chúng ta cũng
được đặc biệt tôn trọng, quan tâm, chiếu cố. Đó
chính là cảm ứng tự nhiên, là đạo lư. Khi hiểu
rơ đạo lư này, lúc đó chúng ta có thể liên tưởng
đến nguyên lư vừa nêu trong Kinh Địa-Tạng. Siêu
độ nếu có công đức, có thể giúp đỡ vong gia đă
tạo tác nghiệp tội.
Câu chuyện về nữ Quang
Mục có chút khác biệt, công phu tu hành của cô
không thù thắng như nữ Bà la môn. Cô cũng niệm
Phật, trong thời gian rất ngắn đạt được cảnh
giới định trong mơ. Cảnh giới trong định thù
thắng hơn cảnh giới trong mộng rất nhiều. Cô có
được cảnh giới trong mộng cũng được xem là thành
tựu.
Chúng ta hết ḷng muốn
cứu người thân nên mới liều mạng dụng công tu
học, thành tựu của chúng ta cũng chính là thành
tựu của họ, ta không thành tựu, th́ họ cũng
không. Đây là nguyên tắc bất di bất
dịch.
Siêu độ trong tự truyện
“Cảnh Trần Hồi Ức Lục” của Pháp-sư Đàm Hư, Trung
Quốc :
Lăo Pháp-sư Đàm Hư trong
tự truyện mang tên: “Cảnh Trần Hồi Ức Lục”do đệ
tử của ông là Đại Quang Pháp-sư ghi chép lại,
quyển sách này lưu thông rất phổ biến ở Đài
Loan, bên trong có một đoạn nói về việc siêu độ.
Vào lúc đó Đàm lăo chưa xuất gia, ông xuất gia
rất muộn, hơn 40 tuổi. Trước khi xuất gia, ông
đă học Phật và rất dụng công. Trước lúc xuất gia
ở Thiên Tân, ông cùng mấy vị đồng đạo hợp nhóm
cùng nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm suốt tám năm
lạnh giá. Trong số các bạn ông, có một vị họ Lưu
mở tiệm thuốc Bắc cũng rất tâm đắc và lĩnh ngộ
đối với Kinh Lăng Nghiêm. Tuy sự công phu c̣n
kém xa so với nữ Bà la môn và nữ Quang Mục trong
Kinh Địa-Tạng nhưng sự công phu của vị họ Lưu
cũng có hiệu quả. Một buổi trưa nọ, tiệm thuốc
vắng khách, buôn bán ế ẩm, ông Lưu ngủ gục trên
quầy. Lúc đang ngủ, ông Lưu mộng thấy có hai
người đi đến. Hai người này vốn trước đây là oan
gia trái chủ của ông, họ thiếu nợ ông, và ông
t́m đến họ đ̣i nợ. Hai người này v́ không có khả
năng trả nợ nên treo cổ tự tử. Sau v́ việc này,
ông Lưu thường cảm thấy rất khó chịu, nếu ông
không t́m họ đ̣i nợ, th́ hai người này sẽ không
treo cổ. Ông luôn cảm thấy hối tiếc và ăn năn về
điều đó. Bây giờ nằm mộng gặp lại họ nên ông rất
sợ bị gây phiền phức. Tuy nhiên hai người này vẻ
mặt hiền lành, không bày tỏ thái độ muốn đến hại
ông. Cho nên ông hỏi họ: “Các người đến làm ǵ
?” Hai người trả lời : “Chúng tôi đến muốn xin
ông siêu độ”. Nghe đến đó, tâm ông Lưu liền được
an, không lo sợ bị báo thù. Ông lại hỏi tiếp
:“Vậy phải siêu độ thế nào cho các người ?”. Họ
nói :“Chỉ cần ông đồng ư là được”. Ông Lưu gật
đầu :“Được, tôi đồng ư”. Lập tức hai linh hồn
này đạp vào đầu gối và đạp vào vai ông rồi được
sinh lên trời.
Hai người này đi không
bao lâu, lại có hai người nữa, chính là vợ con
ông đă qua đời. Họ cũng đến quỳ trước mặt ông
cầu xin siêu độ. Ông liền hỏi :“Làm thế nào để
siêu độ ?”. Cũng như lần trước, ông bằng
ḷng và thấy hai hồn ma này đạp lên đầu gối, đạp
vai ông mà sinh thiên. “Cảnh Trần Hồi Ức Lục”
c̣n ghi rơ, siêu độ cần phải do chính chúng ta
có công phu tu học. Không có công phu, không thể
siêu độ cho người khác. Công phu của ông Lưu là
tám năm lạnh giá học Lăng
Nghiêm.
Nguồn gốc h́nh thức siêu
độ quy mô lớn :
Chúng ta có thể đem câu
chuyện trong “Cảnh Trần Hồi Ức Lục” cùng Kinh
Địa-Tạng hợp lại mà khẳng định, loại Phật sự
siêu độ qui mô lớn thời hiện đại không hề tồn
tại vào thời Đức Phật. Thời gian đầu học Phật,
chúng tôi cũng có nghi vấn về việc này và đă
từng thưa hỏi với Pháp-sư Đạo
An.
Năm xưa chúng tôi có mối
quan hệ rất tốt với Pháp-sư Đạo An. Pháp-sư Đạo
An thành lập Đại Chuyên Giảng Ṭa ở Đài Bắc, mời
chúng tôi đảm nhiệm tổng chủ giảng. Chúng tôi
liên lạc qua lại từ lúc ở Ṭng Sơn Tự sau đó dời
đến cạnh Thiện Đạo Tự ở tầng trên của Đại Giảng
Đường Hội Phật Giáo. Mỗi chủ nhật chúng tôi lên
lớp một lần. Khi đó học sinh rất đông, khoảng
hơn 800 người, miền Bắc từ Cơ Long, miền Nam từ
Tân Trúc. Đó là thời kỳ hưng thịnh của Hội Phật
Giáo. Pháp-sư Đạo An là người phụ trách kiêm chủ
tịch giảng ṭa. Vào lúc đó ngoài chúng tôi, c̣n
có Pháp-sư Ấn Hải, Pháp-sư Trí Dụ cùng phụ trách
dạy học. Chúng tôi đă thỉnh giáo với lăo Pháp-sư
Đạo An rằng : “Việc siêu độ từ đâu mà ra ?”.
Ngài suy nghĩ một lúc rồi nói đại khái, căn gốc
của việc siêu độ là từ vua Đường Minh Hoàng.
Thời loạn An Sử, sau khi Quách Tử Nghi b́nh định
động loạn, triều đ́nh ở mỗi một chiến trường lớn
kiến lập một tự miếu gọi là Khai Nguyên Tự, v́
xây dựng vào niên hiệu Khai Nguyên. Xây dựng tự
miếu này mục đích chính là truy điệu quân dân tử
nạn. Cho nên pháp hội siêu độ đó cũng giống như
lễ truy điệu hiện nay. Mời một số cao tăng đại
đức tụng kinh, bái sám, hồi hướng, truy điệu
nhằm mang ư nghĩa kỷ niệm, do quốc gia đề xướng.
Sau này dân gian dần dần bắt chước theo, cũng
mời Pháp-sư, Đại-đức tụng kinh, bái sám siêu độ
tổ tiên.
Do đây mà biết, trước năm
Khai nguyên không có việc này. Pháp hội siêu độ
của Khai nguyên về sau đích thực phát triển
nhưng đến nay đă hoàn toàn biến chất. Trước đây,
siêu độ là việc làm phụ của tự viện, mỗi năm
không quá hai lần, chủ yếu là tụng kinh thuyết
pháp, dẫn chúng tu hành. Cho nên chùa miếu gọi
là đạo tràng, Phật-Giáo ở thế gian là độ người
chứ không độ quỷ, độ người sống chứ không độ
người chết, nên nhớ như vậy !
Phương thức tu học xưa và
nay :
Trước đây tự viện trong
Ṭng Lâm Ấn-Độ nh́n chung hoạt động hai thời
giảng kinh, hai thời tu hành. Người Ấn-Độ xưa
chia một ngày đêm thành sáu thời khắc, ba thời
ban ngày gọi là sơ nhật, trung nhật, hậu nhật;
ba thời ban đêm gọi là sơ dạ, trung dạ, hậu dạ.
Trung-Quốc xưa sử dụng mười hai thời : Tư Sửu
Dần Mẹo Th́n Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi. C̣n
hiện tại, chúng ta đang dùng đơn vị thời gian
của Tây phương, tức là ngày đêm gồm hai mươi bốn
tiếng. Như vậy, hai tiếng đồng hồ của phương Tây
là một thời khắc của Trung-Quốc, hai thời khắc
của Trung-Quốc mới là một thời khắc của Ấn-Độ.
Thời xưa, tự viện Ṭng lâm giảng kinh hai thời,
tương đương tám tiếng đồng hồ hiện nay. Tự viện
là trường học dành cho người xuất gia và cư sĩ
thường trú. Thời đó, các cư sĩ vào chùa miếu ghi
danh nghe kinh. Thông thường giảng một bộ kinh
phải mất ít nhất ba tháng đến một năm. Cư sĩ
được đồng ư phê chuẩn có thể ở lại một năm trong
tự viện, cúng dường phí dụng sinh hoạt, đồng
thời làm công quả như quét nhà, dọn dẹp ... Mỗi
ngày ngoài tám tiếng nghe giảng, nghiên cứu,
thảo luận, c̣n phải tu hành. Có rất nhiều phương
pháp tu hành nhưng không ngoài hai loại trọng
điểm, đó là niệm Phật và tham thiền. V́ thế mà
có thiền đường, niệm Phật đường. Tám tiếng học
thuật, tám tiếng tham thiền hay niệm Phật, c̣n
lại tám tiếng để nghỉ ngơi sinh hoạt. Đạo tràng
huân tu, con người không vọng tưởng, thậm chí
không có thời gian để vọng tưởng, không có thời
gian sinh phiền năo. Hiệu quả nổi bật. Sau ba
tháng ở đạo tràng, khí chất con người thay
đổi.
Hiện nay, đạo tràng tự
viện không c̣n, giải môn không có, rất ít giảng
kinh, công phu. Người ta chú trọng xây Phật
thất, tu sửa Thiền thất, lấy việc siêu độ người
chết làm chính, hoàn toàn điên đảo. Tự viện
trước đây độ người sống, bây giờ Phật-Giáo độ
người chết. Trước đây là giáo dục, bây giờ biến
thành tôn giáo. V́ vậy chúng ta cần sáng suốt
hiểu rơ để tiếp nhận giáo dục của Đức Phật
Thích-Ca Mâu-Ni, cải thiện cuộc sống, nâng cao
cảnh giới của chính ḿnh trong tương lai. Đó mới
là bước đột phá. Mười pháp giới chính là mười
thời, không khác nhau. Đức Phật dạy chúng ta đột
phá sáu cơi, mười pháp giới mới có thể chứng
được nhất chân pháp giới !
Siêu độ quy mô lớn có
hiệu quả hay không ?
Không thể nói không hiệu
quả, quan trọng là ở người chủ pháp hay người
chủ tŕ siêu độ này. Nếu họ có tu, có chứng, sức
mạnh được khẳng định. Giống như Lương Vơ Đế ngày
xưa rất yêu quí một phi tử đă tạo tác nghiệp
tội, bị đọa vào ác đạo. Trong văn tự Lương Hoàng
Sám ghi chép rất rơ, Lương Vơ Đế là đại hộ pháp
của Phật môn, mời Bảo Trí Công đến chủ tŕ pháp
hội siêu độ. Bảo Trí Công chính là hóa thân của
Quán Thế Âm Bồ-Tát, ngài đem phi tử của Lương Vơ
Đế từ ác đạo siêu độ đến Trời Đao Lợi. V́ vậy,
người chủ pháp đàn cần có tu, có chứng. Thời đại
ngày nay, người có tu, có chứng dường như không
c̣n. Cả đời chúng tôi không dám làm Phật sự siêu
độ v́ biết ḿnh chưa đủ năng lực, chưa đủ đức
năng !
Chúng ta hiện nay thường
giảng kinh niệm Phật, mặc dù chưa đạt tiêu chuẩn
như thời xưa, tám giờ giảng kinh, tám giờ niệm
Phật nhưng chúng ta thực tập không gián đoạn,
cũng thành tựu chút ít. Mỗi năm đến kỳ thanh
minh, trung nguyên, đông chí, chúng tôi tổ chức
pháp hội tế tổ, cúng tế tổ tiên. Bài vị mà chúng
tôi cúng là bài vị tổ tiên trăm họ, một mực b́nh
đẳng. Không phân biệt bài vị lớn, bài vị nhỏ bao
nhiêu tiền. Phật tử tùy hỷ cúng, hoàn toàn không
miễn cưỡng. Pháp hội không thu phí cúng dường.
Trước đây mỗi năm ba lần pháp hội. Nhưng gần
đây, xă hội động loạn, người chết quá nhiều. Mỗi
tháng chúng tôi làm tam thời hộ niệm một lần,
thành tâm thành ư siêu độ cho tất cả oan hồn
chết trong tháng. Đây là những việc Phật sự phụ
thêm của đạo tràng. Hy vọng hàng xuất gia cũng
như tại gia hiểu được lư luận và sự thật của
việc siêu độ này để thực hiện tốt, chỉ cần tận
tâm tận lực, thành tâm khẩn thiết nhất định sẽ
có cảm ứng !
( Trích Lục Các Bài Giảng
Của Pháp Sư Tịnh Không Tại Tịnh Tông Học Hội Úc
Châu Và Mỹ Quốc )
Bất luận là người tu tại
gia hay xuất gia, cần phải trên kính dưới ḥa.
Nhẫn nhục điều mà người khác khó nhẫn được, làm
những việc mà người khác khó làm được. Thay
người làm những việc cực nhọc, thành toàn cho
người là việc tốt đẹp. Khi tĩnh tọa, thường nghĩ
đến điều lỗi của ḿnh, lúc nhàn đàm đừng bàn đến
điều sai trái của người. Lúc đi, đứng, nằm,
ngồi, ăn mặc, từ sáng đến tối, từ tối đến sáng;
chỉ niệm Phật hiệu không để gián đoạn; hoặc niệm
nho nhỏ, hoặc niệm thầm. Ngoài việc niệm Phật,
đừng dấy khởi một niệm nào khác, nếu khởi vọng
niệm phải tức thời bỏ ngay. Thường có ḷng hổ
thẹn và tâm sám hối. Nếu đă tu tŕ, phải tự hiểu
là công phu của ta hăy c̣n nông cạn. Chẳng nên
tự kiêu căng khoa trương, chỉ nên chăm sóc việc
nhà ḿnh, đừng nên dính vào việc nhà người. Chỉ
nên nh́n đến những h́nh ảnh tốt đẹp, đừng nên để
mắt tới những h́nh ảnh xấu xa bại hoại. Hăy coi
mọi người như Bồ Tát, mà ta chỉ là kẻ phàm phu.
Nếu quả có thể tu hành được như vậy, th́ nhất
định được văng sanh về Tây Phương Cực Lạc Thế
Giới !
NAM MÔ
A DI ĐÀ PHẬT !