PHÁP  SƯ  TỊNH  KHÔNG  GIẢNG  VỀ  PHÁP  MÔN  TỊNH  ĐỘ

 
 
NGŨ  KHOA  TỊNH  ĐỘ
 
I. TAM PHƯỚC

Hiếu dưỡng cha m, phng th sư trưởng, ḷng t bi không giết hi, tu thp thin nghip.                        Th tŕ tam quy, gi vn các gii, chng phm oai nghi.                                                                            Phát B tâm, tin sâu nhân qu, đc tng kinh đi tha, khuyến tn người tu hành.

Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật gọi là Tịnh Nghiệp Tam Phước, ba thứ tịnh nghiệp này là Tam Thế Chư Phật Tịnh Nghiệp Chánh Nhân, câu này vô cùng quan trọng, khiến cho chúng ta hiểu rơ ba đời tất cả chư Phật tu hành chứng quả, đều phải y theo Tam Phước làm nền tảng, cũng như chúng ta xây cất nhà lầu, bất luận là xây cao bao nhiêu tầng, đều phải đắp nền móng. Tịnh Nghiệp Tam Phước là nền móng, là nền tảng cộng đồng của Phật pháp, nhất định là phải từ trên nền tảng này xây dựng, mới có thể thành tựu tất cả Phật pháp, điều này vô cùng quan trọng.

Phước báo nhân thiên : Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, ḷng từ bi không giết hại, tu thập thiện nghiệp.

Hiếu dưỡng cha mẹ : Chữ hiếu này thuộc về hội ư, chúng ta phải thể hội ư nghĩa của chữ này, trên là chữ Lăo, dưới là chữ Tử, tức là bảo với chúng ta rằng, đời trước và đời sau là một thể, là một chẳng phải hai … Hay nói cách khác, toàn cả vũ trụ là một chữ Hiếu, tận hư không biến pháp giới là một chữ Hiếu, chẳng những chúng ta nuôi dưỡng cái thân của cha mẹ, c̣n phải nuôi dưỡng cái tâm của cha mẹ, nuôi dưỡng cái chí của cha mẹ. Trong Giới Kinh nói :“Tất cả người nam là cha ta, tất cả người nữ là mẹ ta”. Đem cái tâm hiếu thuận cha mẹ phát dương quang đại, tận hư không biến pháp giới, tức là Hiếu Đạo.

Phụng thờ sư trưởng : Phật pháp là sư đạo, lấy hiếu đạo làm nền tảng, không có hiếu đạo th́ không có sư đạo. Cho nên hiếu thuận cha mẹ cũng phải tôn kính thầy. Hiếu kính là tánh đức, chỉ có tánh đức mới có thể khai phát tự tánh. Đây là điều căn bản vô cùng quan trọng. Người biết hiếu thuận cha mẹ th́ biết tôn kính sư trưởng. Phật là vị thầy sớm nhất của chúng ta, Ngài chỉ dạy chúng ta phải tôn kính sư trưởng. Chúng ta tôn thờ tượng Phật, Bồ-tát, và thờ Tổ Tiên, khi nh́n thấy h́nh tượng của Phật, Bồ-tát, th́ chúng ta nghĩ đến hiếu kính, hiếu thân tôn sư.

Ḷng từ bi không giết hại : Từ bi là tánh đức, là một khoa mục vô cùng quan trọng, ḷng hiếu kính mở rộng tức là từ bi, có ḷng từ bi th́ không sát sanh, cái dụng ư này rất sâu. Trong tất cả ác nghiệp, sát nghiệp là nặng nhất. Tại sao ? V́ tất cả chúng sanh có mạng sống, không một ai mà không trân quư cái mạng sống của ḿnh, không có một ai mà không tham sống sợ chết. Cho nên chúng ta không thể sát sanh, sát sanh là bất kính với Phật, là bất hiếu với cha mẹ, bởi v́ Phật dạy chúng ta phải giữ giới căn bản, giới thứ nhất là không sát sanh, nếu chúng ta c̣n sát sanh, th́ làm trái nghịch lời dạy của Phật, tức là không tôn kính sư trưởng, không hiếu thuận cha mẹ. Sát hại chúng sanh, chẳng những mất đi ḷng từ bi mà c̣n mất đi ḷng hiếu kính nữa.

Tu thập thiện nghiệp : Thập thiện nghiệp là tiêu chuẩn thiện pháp của thế gian. Phật bảo với chúng ta rằng, phát tâm tu thập thiện nghiệp, th́ tuyệt đối không đọa tam ác đạo, thượng phẩm thập thiện có thể sanh lên cơi Trời, nếu có tu thêm thiền định và tứ vô lượng tâm, tức là Từ Bi Hỷ Xả, th́ có thể sanh lên cơi Trời Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Phật quy nạp thập thiện nghiệp thành ba đại loại, tức là Thân, Khẩu, Ư.

* Thân nghiệp có ba : không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, đây là đối với người chưa xuất gia mà nói, nếu là người xuất gia th́ không được dâm dục, phải đem ḷng tham ái đoạn cho được sạch sẽ rốt ráo. Trộm cắp tức không cho mà lấy, lậu thuế cũng là trộm cắp, trộm cắp của nhà nước, cái nghiệp này rất nặng. Cho nên người chân chánh học Phật, nhất định phải tuân thủ pháp luật của nhà nước. Không phạm giới sát sanh, không phạm giới trộm cắp, không phạm giới tà dâm, th́ gọi là thân nghiệp thanh tịnh.

* Khẩu nghiệp có bốn : Một là vọng ngữ, tức là nói láo, nói lời lừa gạt người khác, nói không thành thật. Hai là lưỡng thiệt, tức là hai lưỡi, khiêu khích thị phi, nói lời thêm bớt, khiến cho hai người bất ḥa với nhau. Ba là ác khẩu, tức là nói lời hung dữ, ác độc, những lời thô lỗ làm cho người nghe cảm thấy khó chịu. Bốn là ỷ ngữ, là hoa ngôn xảo ngữ, nói lời thêu dệt, nói được rất hay, khiến cho người nghe bị quyến rũ, nhưng dụng ư bất thiện … Nếu ĺa khỏi bốn loại khẩu ác nghiệp, th́ khẩu nghiệp thanh tịnh.

* Ư nghiệp có ba : Tham, Sân, Si. Tham là tham ái, bao gồm keo bẩn, thường nói là sân tham, dục vọng không có thỏa măn, thí mạng đi t́m cầu, hy vọng đạt được thỏa măn, đây là ḷng tham, một khi đă đạt được, th́ không chịu buông xả, không chịu bố thí giúp đỡ cho người khác, đây là một chướng ngại lớn đối với người tu học. V́ vậy Phật chỉ dạy cho chúng ta phương pháp bố thí để đối trị ḷng tham. Kế đến là sân, tức là sân hận, tham không được th́ sanh ḷng sân hận, ḷng sân hận là phiền năo rất lớn, cho nên Tham Sân Si là tam độc phiền năo. Ḷng tham là nghiệp nhân của ngạ quỷ. Ḷng sân hận là nghiệp nhân của địa ngục. Ngu si là nghiệp nhân của súc sanh. Cái ǵ gọi là ngu si ? Tức là chẳng có trí huệ, không phân biệt được tội–phước, thiện–ác, tà–chánh, v.v… Tam độc phiền năo là chướng ngại minh tâm kiến tánh rất nghiêm trọng, chúng ta tu học Phật pháp phải tu từ căn bản, căn bản là tâm phải đoạn trừ Tham Sân Si th́ chân tánh mới hiện ra.

Phước báo nhị thừa : Thọ tŕ tam quy, giữ vẹn các giới, chẳng phạm oai nghi.

Thọ tŕ tam quy : trước tiên nhập Phật môn th́ phải lạy Thầy cầu truyền thọ Tam quy, là một việc rất quan trọng, cũng là chánh thức lạy Đức Thích Ca Mâu Ni Phật làm Thầy, tự nguyện một đời y theo lời dạy bảo của Thầy mà tu học, thật sự tu hành, được Thầy truyền thọ tổng cương lĩnh và nguyên tắc, phương pháp tu học, gọi là truyền thọ Tam Quy Y. Tam Quy Y là Quy Y Phật, Quy Y Pháp, Quy Y Tăng. Nếu từ trên ư nghĩa mà nói, tức là Quy Y Giác,  Quy Y Chánh, Quy Y Tịnh. Phật là Giác, Phật ư nghĩa là Giác-ngộ. Pháp là Chánh, Pháp là Chánh Tri Chánh Kiến. Tăng là Tịnh, sáu căn thanh tịnh, một hạt bụi không nhiễm. Cho nên cái y cứ chủ yếu tu hành của chúng ta, là y theo tự tánh Giác, tự tánh Chánh, tự tánh Tịnh, gọi là tự tánh Tam Bảo.

* Quy Y Phật : Cái ǵ gọi là Quy Y ? Quy là hồi đầu, Y là nương tựa. Phật chỉ dạy cho chúng ta, phải từ mê hoặc điên đảo hồi đầu, nương tựa tự tánh Giác, tự tánh vốn là Giác, Quy Y Phật không phải Phật bên ngoài, mà là Quy Y tự tánh Phật. Đây là tự tánh Phật Bảo. Trong Tịnh Tông nói, tự tánh Di Đà duy tâm Tịnh Độ, cho nên Quy Y tự tánh Phật, tức là Quy Y tự tánh Giác, Giác mà không mê mới là chân chánh Quy Y Phật.

* Quy Y Pháp : Tức là cách nghĩ, cách nh́n, cách làm của chúng ta đối với vũ trụ nhân sanh hoàn toàn cùng với chân tượng sự thật phù hợp, tư tưởng chính xác, kiến giải chính xác, tại trong Kinh Phật gọi là Chánh Tri Chánh Kiến, hoặc là Phật Tri Phật Kiến, đây là tự tánh Pháp Bảo, không phải bên ngoài đến, Phật dạy chúng ta từ cách nghĩ cách nh́n cách làm sai lầm hồi đầu trở lại, nương theo Chánh Tri Chánh Kiến của tự tánh, gọi là Quy Y Pháp.

* Quy Y Tăng : Tăng là ư nghĩa thanh tịnh, sáu căn thanh tịnh, sáu căn là mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ư, tiếp xúc cảnh giới sáu trần bên ngoài, sáu trần là sắc-thanh-hương-vị-xúc-pháp. Người phàm phu khi sáu căn tiếp xúc sáu trần th́ bị ô nhiễm, khởi lên ḷng tham, ḷng tham là ô nhiễm, chúng ta phải từ tất cả ô nhiễm hồi đầu trở lại, nương theo tâm thanh tịnh của ḿnh, đây là tự tánh Tăng Bảo, tức là Quy Y Tăng.

Tam Quy Y, tổng kết mà nói, Quy Y Phật tức là Giác mà không mê. Quy Y Pháp tức là Chánh mà không tà. Quy Y Tăng tức là Tịnh mà không nhiễm. Ngoài ra, c̣n có trụ tŕ Tam Bảo, trụ tŕ Tam Bảo tức là tượng Phật, kinh điển, người xuất gia. Trụ tŕ Tam Bảo đối với chúng ta có sự lợi ích công đức rất lớn.

Giữ vẹn các giới, chẳng phạm oai nghi : Các giới tức là có rất nhiều giới điều, quan trọng nhất là ngũ giới, ngũ giới là căn bản đại giới của nhà Phật. Xuất gia Sa Di và Sa-Di Ni phải giữ 10 giới, Tỳ-Kheo phải giữ 250 giới, Tỳ-Kheo Ni phải giữ 348 giới. Thật ra giới điều chỉ có phía trước 17 điều, tức là 4 giới trọng và 13 giới tăng tàn, đây thuộc về giới, những giới điều khác th́ thuộc về oai nghi. Oai nghi là ǵ ? Oai nghi là lễ phép, lễ tiết, tức là trong cuộc sống hằng ngày xử thế, đối người, tiếp vật, phải tuân thủ quy củ … Trong ngũ giới điều thứ nhất không sát sanh, đều thứ hai không trộm cắp, điều thứ ba không tà dâm, điều thứ tư không nói dối, điều thứ năm không uống rượu, bốn điều phía trước là tánh tội, bất luận có thọ giới hay không thọ giới, hễ phạm đều là có tội, những người có thọ giới đă phạm th́ gọi là phá giới. Chỉ riêng điều thứ năm không được uống rượu, người không thọ th́ không phạm tội. Chúng ta phải hiểu rơ giới điều, th́ mới có thể tŕ giới. Mỗi một giới điều cũng có Khai, Giá, Tŕ, Phạm. Ở dưới trường hợp nào là Khai giới, không phải Phạm giới, ở dưới trường hợp nào Tŕ giới, không thể Giá giới … Giới luật là hành tŕ của Phật, không có giới luật th́ không có Phật pháp.

Phước báo đại thừa : Phát Bồ-đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng kinh đại thừa, khuyến tấn người tu hành.

Phát Bồ-đề tâm : Cái ǵ gọi là Bồ-đề tâm ? Bồ-đề là tiếng phạn, dịch là Giác-ngộ, Bồ-đề tâm tức là cái tâm thật sự giác ngộ. Giác ngộ cái ǵ ? Giác ngộ đời người quá khổ, thường nói là tam khổ, bát khổ … Sau khi giác ngộ, nhất định phải y theo phương pháp của Phật dạy tu hành, th́ tự nhiên ĺa khổ được vui, ra khỏi tam giới, văng sanh Tịnh độ, mới thật sự là phát Bồ-đề tâm.

Tin sâu nhân quả : Cái phước báo thứ ba này là Bồ Tát sở tu, cái nhân quả này không phải nhân quả thông thường, chúng ta cũng hiểu, thiện có thiện báo, ác có ác báo, thiện nhân thiện quả, ác nhân ác quả. Phật khuyên Bồ-Tát tin sâu nhân quả, Phật trong Kinh Hoa Nghiêm cũng có nói :“Thập địa Bồ Tát thủy chung không rời niệm Phật, từ Sơ Địa cho đến Đẳng Giác, 11 ngôi vị thứ”. Họ tu cái ǵ ? Họ tu pháp môn niệm Phật, th́ ra chỗ này nói nhân quả là chỉ cho niệm Phật là nhân, thành Phật là quả. Cho nên Phật ở chỗ này khuyên Bồ Tát tin sâu nhân quả, tức là niệm Phật là nhân, thành Phật là quả.

Đọc tụng kinh đại thừa : Đây là Bồ Tát thiện, Bồ Tát học Phật, không thể một ngày không thấy Phật, không thể một ngày không đọc tụng kinh đại thừa, nên biết, đọc kinh không phải là đọc cho Phật nghe. Kinh là do Phật nói, Phật đâu có cần chúng ta đọc cho Ngài nghe, chúng ta đọc kinh là tiếp nhận lời dạy bảo của Phật, để đánh thức chính ḿnh, dạy cho chúng ta khi khởi tâm động niệm, xử thế, đối người, tiếp vật, không làm trái nghịch lời của Phật dạy. Khi hiểu rơ phương pháp và mục đích của việc đọc tụng kinh điển, th́ phải y theo cương lĩnh mà tu học, mới có thể đạt được công đức lợi ích của Phật pháp thù thắng.

Khuyến tấn người tu hành : Tức là phải khuyên mọi người nên học Phật, giúp đỡ mọi người tu hành tinh tấn, khuyên mọi người niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, đây là hạnh Bồ Tát.

II. LỤC H̉A KÍNH

Kiến ḥa đng gii, Gii ḥa đng tu,  Thân ḥa đng tr , Khu ḥa vô tranh,  Ư ḥa đng duyt, Li ḥa đng quân.

Kiến ḥa đồng giải : Tức là xây dựng cùng ư thức chung, ở trong một đoàn thể, chúng ta đối với phương pháp và lư luận của sự tu học, nhất định phải có cùng chung một kiến giải, đây là nền tảng cộng tu của đại chúng.

Giới ḥa đồng tu : Mọi người khi đă cùng ở chung với nhau tu học, th́ phải lập ra một quy củ, nếu không có quy củ th́ là sẽ loạn, không có trật tự, dĩ nhiên là có một quy ước cùng ở chung với  nhau, nhất định bao gồm giới căn bản của Phật đă chế định, mọi người nhất định phải tuân thủ.

Thân ḥa đồng trụ : Tức là mọi người cùng ở chung một nơi tu hành, xây dựng đạo tràng là thành tựu cho mỗi một phật tử, mục đích là ở chỗ này, tuyệt đối không phải trốn tránh trách nhiệm xă hội, mà vào trong Phật môn t́m đường sống (ẩn dương nương Phật). Nếu có cái quan niệm này th́ là hoàn toàn sai lầm. Mọi người sinh hoạt trong đạo tràng đều phải b́nh đẳng như nhau.

Khẩu ḥa vô tranh : Đây là nói mọi người cùng ở chung với nhau không có tranh luận, thật sự có thể dụng công tâm hướng theo đạo, mọi người ở chung với nhau, rất dễ dàng tạo khẩu nghiệp, cho nên người xưa thường nói : “Bệnh từ miệng mà vào, họa từ miệng mà ra”. Cổ đức th́ dạy chúng ta :“Nói ít một câu, niệm thêm Phật hiệu”.

Ư ḥa đồng duyệt : Đây tức thường hay nói Pháp Hỷ Sung Măn, chúng ta học Phật, bất luận tu học pháp môn nào, sự thành tựu kém cơi nhất, tức là được hoan hỷ, giả như học Phật, mà không đạt được pháp hỷ sung măn, tức là phương pháp đă dùng sai, phải tự ḿnh kiểm thảo t́m ra khuyết điểm, mọi người cùng nhau tu hành, người người đều được pháp hỷ, người người đều được thành tựu.

Lợi ḥa đồng quân : Đây là nói mọi người cùng ở chung một nơi tu hành, cuộc sống vật chất là b́nh đẳng, tài nguyên của đạo tràng, vào thời xưa, một phần là do nhà vua hộ tŕ, tức là do nhà nước xây dựng thập phương đạo tràng, kế đến là những vị đại phú trưởng giả quyên góp ủng hộ, đạo tràng xây cất xong, th́ thỉnh những vị cao tăng đại đức đến làm trụ tŕ, tu hành, giáo hóa chúng sanh, cho nên bất luận là nhà nước cúng dường, hoặc là đại chúng ở địa phương cúng dường vật chất, phàm là ai ở trong ngôi đạo tràng này, đều được hưởng thụ nhất loạt b́nh đẳng.

III. TAM HỌC

 Tam Hc là : Gii, Đnh, Hu.

Cái ǵ gọi là Giới, Định, Huệ ? Những chúng sanh tạo thập ác nghiệp, th́ Phật dùng Giới học để đối trị. Giới học là thuốc để đối trị ác nghiệp.

Tâm của chúng sanh tán loạn, không được định, không được thanh tịnh, th́ Phật dùng Định học để đối trị. Định học là đối trị tâm tán loạn.

Chúng sanh ngu si, không biết tà chánh, thiện ác, phải quấy, đúng sai, lợi hại, th́ Phật dùng Huệ học để đối trị. Huệ học là đối trị ngu si.

Nói tóm lại, chúng sanh tạo ác, tán loạn, ngu si, th́ Phật dùng Giới, Định, Huệ để đối trị.

IV. LỤC ĐỘ

 Lục Độ là : Bố Thí, Tŕ Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Trí Huệ.

Bố Thí : Bố thí có ba loại, tức là Tài thí, Pháp thí, Vô úy thí. Tài thí th́ được giàu có. Pháp thí th́ được thông minh trí huệ. Vô úy thí th́ được khỏe mạnh sống lâu. Cho nên muốn được giàu có, thông minh trí huệ, khỏe mạnh sống lâu, nhất định phải phát tâm tu tài thí, pháp thí và vô úy thí.

Tŕ Giới : Tŕ giới tức là thủ pháp, tất cả vạn sự vạn vật thế gian và xuất thế gian, bất luận lớn nhỏ, cũng có phép tắc của nó, nhất định phải thuận theo phép tắc, th́ mới có thể làm được cứu cánh viên măn. Trong Lục Độ, Tŕ giới là bảo chúng ta lúc b́nh thường phải giữ phép tắc, không chỉ là thọ tŕ ngũ giới hoặc thập giới, là giới căn bản, mà là bảo chúng ta ở trong gia đ́nh phải có quy củ, cha con, vợ chồng, anh em, đây là luân thường, phải có thứ tự lớn nhỏ, không được đảo lộn. Tại trong Phật đường cũng vậy, phải theo thứ tự tu học, trước tiên phải phát đại tâm, đại tâm tức là tâm nguyện phải độ tất cả chúng sanh, sau đó đoạn phiền năo, đoạn tập khí, kế đến học pháp môn, sau cùng viên thành Phật đạo.

Nhẫn Nhục : Nhẫn nhục tức là nhẫn nại, bất luận làm sự việc ǵ, cũng phải có tâm nhẫn nại, nếu không có tâm nhẫn nại, làm bất cứ việc ǵ cũng không thể thành tựu, tâm nhẫn nại là một điều kiện vô cùng quan trọng. Đức Thế Tôn tại trong Kinh Kim Cang nói về Bồ Tát tu Lục độ, đặc biệt nhấn mạnh Bố Thí và Nhẫn nhục, hai điều này là then chốt của sự tu hành thành công hay thất bại.

Tinh Tấn : Tinh là chuyên tinh, chuyên nhất, Tấn là tiến bộ, do đây có thể biết, Phật pháp không phải bảo thủ, cũng không phải rớt lại phía sau, Phật pháp là ngày ngày đều cầu tiến bộ … Trong vô lượng pháp môn, nhất định phải nhất môn thâm nhập, mới có thể thành tựu, học một môn khi đă thành tựu rồi, th́ hiểu hết tất cả những môn khác. Cho nên nói một thông tất cả điều thông, như pháp môn niệm Phật phải chuyên tu ... Bất luận là pháp thế gian hoặc xuất thế gian, nếu muốn trong đời này được thành tựu, nhất định phải biết tinh tấn, bất luận là Niệm Phật, Tham Thiền, Tŕ Chú hoặc là nghiên cứu giáo lư, cũng phải biết tuân thủ cái nguyên tắc này. Nếu như tự ḿnh phát tâm tu học, và cũng muốn giúp đỡ cho người khác, tốt nhất trong một đời chỉ học một bộ kinh, chuyên giảng một bộ kinh, đây mới là chuyên tinh. Phật, Bồ Tát dạy cho chúng ta : tu học phải nhất môn thâm nhập, th́ gọi là tinh tấn, công đức lợi ích của tinh tấn vô lượng vô biên.

Thiền Định : Thiền định là bao gồm cả thiền định của thế gian và xuất thế gian, thiền định thế gian là nói Tứ-thiền, Bát-định, nếu như tu thành, th́ tương lai sanh lên cơi sắc giới, vô sắc giới. Thiền định xuất thế gian có Đại-thừa và Tiểu-thừa, Chư Phật Như Lai tu thiền định, chúng ta gọi là Thượng Thượng Thiền Định xuất thế gian, cái then chốt tu học toàn cả Phật pháp là ở nơi Định. Không phải chỉ có Thiền tông mới tu Thiền định, c̣n những tông phái khác không tu Thiền định. Như Niệm Phật mà nói, mục đích niệm Phật là phải đạt đến nhất tâm bất loạn, nhất tâm bất loạn tức là Thiền định. Giáo hạ tu chỉ quán, chỉ quán cũng là Thiền định. Trong Mật tông tu tam mật tương ứng, tương ứng tức là Thiền định. Do đây có thể biết, mỗi một tông phái, pháp môn, tuy dùng danh từ khác nhau, nhưng thật ra cũng là tu Định.

Trí Huệ : Trí Huệ tiếng Phạn gọi là Bát-Nhă, Trí Huệ Bát-Nhă là ứng dụng trong cuộc sống hằng ngày đối với tất cả pháp đều đă hiểu rơ, thông đạt, mà không chấp trước tất cả pháp, tận tâm tận lực đi giúp đỡ người khác. V́ sao phải đi giúp đỡ cho người khác ? V́ Chư Phật, Bồ Tát hiểu được tận hư không biến pháp giới, tất cả chúng sanh đều cùng với ḿnh đồng một thể, đă là đồng một thể, cho nên giúp đỡ tất cả chúng sanh không cần nói điều kiện, gọi là Đồng-Thể Đại-Bi, Vô-Duyên Đại-Từ.

Nói tóm lại, từ-bi ban phát tất cả cho chúng sanh, th́ gọi là Bố Thí. Làm tất cả việc đều có phương pháp, đều có thứ tự, th́ gọi là Tŕ Giới. Có tâm nhẫn nại, có nghị lực, gọi là Nhẫn Nhục. Chuyên tinh không giải đăi, nhất môn thâm nhập, gọi là Tinh Tấn. Trong tâm có thể làm chủ được, không bị ngoại cảnh lay động, gọi là Thiền Định. Đối với tất cả vạn sự, vạn vật, đều thấu triệt, rơ ràng, minh bạch, gọi là Trí Huệ Bát Nhă.

V. THẬP ĐẠI NGUYỆN VƯƠNG CỦA PHỔ HIỀN BỒ TÁT

L kính Chư Pht, Xưng tán Như-Lai, Qung tu cúng dường, Sám hi nghip chướng, Tùy h công đc, Thnh chuyn pháp luân, Thnh Pht tr thế, Thường tùy Pht hc, Hng thun chúng sanh, Ph giai hi hướng.

Thập Đại Nguyện Vương của Phổ Hiền Bồ Tát là ở trong Kinh Hoa Nghiêm, đây là pháp môn thành Phật, là pháp môn Lư Nht Tâm Bt Lon , là cảnh giới của pháp thân đại sĩ, đặc sắc của hạnh Phổ Hiền, tức là tâm lượng quảng đại như hư không pháp giới vậy. Cho nên thập nguyện của Bồ-Tát Phổ Hiền, nguyện nguyện đều cứu cánh viên măn.

Lễ kính Chư Phật : Hai chữ Chư-Phật này, Phật tại trong Kinh Hoa-Nghiêm bảo với chúng ta rằng : T́nh và Vô T́nh, đồng viên chủng trí. Đây tức là Chư Phật. T́nh là chỉ cho tất cả hữu t́nh chúng sanh, tức là tất cả động vật. Vô T́nh là thực vật và khoáng vật. Cho nên Chư Phật là bao gồm sở hữu tất cả, đem cái tâm cung kính của chúng ta đối với Phật, chuyển qua đối với tất cả chúng sanh, đây tức là tâm Phổ Hiền. Tâm cung kính của Phổ Hiền là chân thật, chúng ta cung kính Chư Phật như thế nào, th́ cung kính tất cả chúng sanh như thế đó, sự cung kính hoàn toàn như nhau. Tại v́ sao ? V́ tất cả chúng sanh vốn tự thành Phật, nếu đắc tội với một chúng sanh nào th́ đắc tội với Phật, tức là đối với Phật bất kính, v́ vậy đối với tất cả chúng sanh phải cung kính, đây là hạnh Phổ Hiền. Hạnh Phổ Hiền viên măn nhất, Phương pháp tu hành thù thắng nhất !

Xưng tán Như-Lai : Câu thứ nhất Lễ kính Chư Phật, v́ sao câu thứ hai xưng tán Như-Lai, không gọi là xưng tán Chư Phật ? Cái dụng ư này rất sâu. L kính Chư-Pht là từ trên h́nh tượng mà nói, từ trên tướng mà nói nhất loạt phải cung kính, nh́n thấy người thiện cung kính, nh́n thấy người ác cũng phải cung kính, không phân biệt thiện ác, không phân biệt tà chánh, cung kính chánh pháp, cũng cung kính tà pháp. Xưng tán Như-Lai là từ trên tánh mà nói, cái khác biệt ở chỗ này, thiện th́ chúng ta xưng tán họ, không thiện th́ chúng ta không xưng tán họ, chỉ cung kính mà không xưng tán, chỗ khác biệt ở tại đây.

Quảng tu cúng dường : Đặc sắc của hạnh Phổ Hiền, là tâm lượng quảng đại như hư không pháp giới, tại trong Phật pháp đại thừa là tánh đức viên măn khởi dụng … Cho nên tánh đức của Phổ Hiền Bồ Tát khởi dụng là viên măn, nguyện nguyện đều là tận hư không biến pháp giới … Ngoài cúng dường Phật, cúng dường một Đức Phật tức là cúng dường tất cả Chư Phật, mà c̣n cúng dường tất cả những chúng sanh chưa thành Phật, tức T́nh và Vô T́nh, cho nên một là tất cả, tất cả là một, đây là phương pháp tu học của Bồ Tát, cũng tức là cảnh giới của Hoa Nghiêm.

Sám hối nghiệp chướng : Tất cả chúng sanh đều có nghiệp chướng, khi khởi tâm động niệm th́ là tạo nghiệp, nhất định sanh ra chướng ngại. Chướng cái ǵ ? Là chướng bản tánh của chúng ta, trong bản tánh chân tâm của chúng ta, có vô lượng trí huệ, có vô lượng đức năng, hiện tại trí huệ, đức năng, thần thông v́ sao không thể khởi tác dụng ? V́ có nghiệp chướng, tu hành khó thành tựu, nếu muốn nghiệp chướng sám trừ, chỉ cần thật sự phát nguyện sửa lỗi, chí thành niệm câu : Nam Mô A Di Đà Phật, cầu sanh Tịnh độ, th́ nghiệp chướng sẽ tiêu trừ.   Pháp sư Từ Vân có nói :“Tất cả kinh chú khó mà tiêu nghiệp chướng, chỉ có một câu Nam Mô A Di Đà Phật này mới có thể tiêu nghiệp chướng”. Đây là sự thật ! Muốn sám hối nghiệp chướng, chỉ có niệm Phật mới là chân thật sám hối. Chân thật niệm Phật th́ mới tiêu trừ tất cả tội chướng.

Tùy hỷ công đức : Là đối trị cái phiền năo nặng nhất của người phàm phu, đó là cái tâm ganh ghét, cái tâm ganh ghét là sẵn có khi sanh ra, có cái tâm ganh ghét này, đối với sự tu học là một chướng ngại rất lớn. Cho nên Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta phải tu tùy hỷ công đức, chẳng những không ganh ghét người, mà c̣n tùy hỷ, khi nh́n thấy người làm việc thiện, làm việc tốt, th́ sanh ḷng vui theo, tận tâm tận lực đi giúp đỡ cho họ được thành tựu. Nhà nho nói :“Thành nhân chi mỹ, thành nhân chi thiện”. Nên biết thành tựu cho người khác, tức là thành tựu cho ḿnh, cái phương pháp tùy hỷ công đức này rất thù thắng.

Thỉnh chuyển pháp luân : Chúng ta là đệ tử Phật, chịu sự giáo dục của Phật, đạt được sự lợi ích chân thật, chúng ta phải dùng phương pháp ǵ để báo ơn Phật ? Nên biết tâm nguyện của Phật, là hy vọng tất cả chúng sanh có thể nghe được chánh pháp, y theo Phật pháp tu học, sớm được viên thành Phật đạo. Cho nên muốn thật sự báo ơn Phật, phải Thỉnh chuyển pháp luân, dùng lời hiện nay mà nói, tức là lễ thỉnh Pháp sư đại đức đến giảng kinh thuyết pháp, hoằng pháp lợi sanh, đây là phước đức rất lớn, người đứng ra lễ thỉnh Pháp sư đến giảng kinh thuyết pháp, cái phước báo này rất lớn.

Thỉnh Phật trụ thế : Thỉnh chuyển pháp luân mục đích chủ yếu là tuyên truyền Phật giáo, đem giáo pháp của Phật giới thiệu rộng răi cho mọi người. Trong đời này của chúng ta muốn tu học có được thật sự thành tựu, Thỉnh chuyển pháp luân vẫn chưa đủ … Cho nên nhất định phải Thỉnh Phật trụ thế, tức là phải lễ thỉnh vị Thầy có đức hạnh đến thường trú lâu dài, để chỉ dẫn cho chúng ta, chúng ta có thời gian lâu dài tiếp nhận huân tu, th́ mới có thể thành tựu. Mọi người nếu muốn thành tựu, nhất định phải thỉnh Phật trụ thế, nay Phật đă diệt độ, nhưng c̣n đệ tử của Phật, bất luận là xuất gia hay cư sĩ tại gia, chỉ cần họ có tu, có học, có đức hạnh, có thể làm cái gương tốt cho chúng ta, có thể hướng dẫn cho chúng ta tu học, th́ phải lễ thỉnh họ đến địa phương này thường trú, hoằng pháp lợi sanh, khiến cho địa phương này được họ chỉ dạy trường kỳ tu tập, như vậy mới có thể thật sự thành tựu. Cho nên muốn được thành tựu, th́ nhất định phải thật sự phát tâm Thỉnh Phật trụ thế.

Thường tùy Phật học : Phật c̣n tại thế th́ nương theo Phật tu học, Phật là tấm gương tốt nhất của chúng ta, là mô phạm của chúng ta, nay Phật không c̣n tại thế, nhưng kinh điển của Phật vẫn c̣n ở thế gian, chúng ta nương theo kinh điển mà tu hành, cũng là Thường tùy Phật học, đây là tiêu chuẩn tu học Phật pháp cao nhất.

Hằng thuận chúng sanh : Đây là phải đối với pháp giới tất cả hữu t́nh chúng sanh, nhất định phải Thuận. Thuận là vô cùng khó làm, không dễ ǵ làm nổi, cho nên người Trung Hoa nói Hiếu, tiếp theo là Thuận, tức là Hiếu Thuận, nếu không Thuận th́ không có Hiếu, học Phật là hết ḷng Đại Hiếu. Hằng thuận chúng sanh phải quán sát cơ duyên, khuyên nhủ chỉ dạy cho chúng sanh đoạn ác tu thiện, giúp cho họ phá mê khai ngộ, th́ nhất định phải biết thời tiết nhân duyên, đến lúc nào th́ ta phải làm, mới hợp với thời tiết nhân duyên, th́ thu hoạch được hiệu quả viên măn, cho nên phải có trí huệ, thiện xảo phương tiện, mới có thể Hằng thuận chúng sanh.

Phổ giai hồi hướng : Tức là đem tất cả công đức học tập tu hành của chúng ta, toàn bộ hồi hướng cho pháp giới tất cả chúng sanh, hồi hướng cho họ chứng Bồ-đề, hồi hướng cho họ thành Phật đạo, mở rộng tâm lượng của ḿnh, cùng với tận hư không biến pháp giới thành một thể, đạt đến cảnh giới này mới là chân chánh cứu cánh đại viên măn.

Nói tóm lại, chúng ta y cứ kinh điển tu học Tịnh Tông, tức là y theo Tịnh Độ Ngũ Kinh Nhất Luận, trong kinh luận chỉ dạy phương pháp tu hành, có năm điều khoa mục : Tam Phước, Lục Ḥa Kính, Tam Học, Lục Độ, Thập Đại Nguyện Vương của Phổ Hiền Bồ Tát. Phương pháp vô cùng đơn giản, vô cùng dễ hiểu, một tí cũng không phức tạp, chúng ta một đời tuân theo cái nguyên tắc này mà tu học, đồng thời nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây-phương Cực-Lạc th́ nhất định sẽ được văng sanh !

 NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT !

KHAI  THỊ  PHẬT  HỌC  CƠ  BẢN

Phật-giáo tuyệt nhiên không phải là tôn giáo, mà là một giáo dục chí thiện viên măn, hơn nữa nó cũng không quá cao cả để người quỳ lạy, mà là đối với đời sống của tôi và bạn kết hợp với nhau một cách chặt chẽ.

Tôi xem thấy các vị đồng tu nêu ra một số vấn đề có liên quan tu học, lợi dụng thời gian này, tôi sẽ nói rơ những việc thiết yếu với các vị :

1. Vấn đề thứ nhất : cũng là vấn đề mà rất nhiều người quan tâm. Họ nói :“Chúng tôi thường thấy rất nhiều h́nh tượng Phật, Bồ-Tát thờ cúng trong các chùa hoặc trong gia đ́nh để mọi người chấp tay quỳ lạy. Vấn đề muốn hỏi là, cúng h́nh tượng Phật, Bồ-Tát và ư nghĩa của việc lạy Phật, Bồ-Tát rốt cuộc như thế nào? Lạy Phật và lạy Thần có ǵ khác biệt ? Chúng ta phải dùng tâm trạng như thế nào để lạy Phật, Bồ-Tát và lạy Thần linh mới là đúng ?”

Tôi nghĩ, vấn đề này là một vấn đề nghiêm túc, bởi v́ mê tín chỉ mang đến cho xă hội ảnh hưởng phụ. Kính Trời, kính Thần là tập tục mấy ngh́n năm ở Trung Hoa, có tác dụng lớn đối với giáo dục xă hội, nhất định không phải là mê tín, việc này chúng ta cần phải phân biệt cho rơ ràng. Phật-pháp là sư đạo, không phải thần đạo, cho nên Phật-giáo là giáo dục chứ không phải là tôn giáo. Phật-giáo mấy ngàn năm trước đă biết được nghệ-thuật-hóa giáo-dục, do đó thấy trong Tự Viện Am đường h́nh tượng của Phật, Bồ-Tát, có tượng đất, tượng vẽ, h́nh h́nh sắc sắc, đa dạng chủng loại. Mấy năm qua ở Đài Loan, có rất nhiều đạo tràng lạy Vạn Phật Danh Kinh. Trong bộ Kinh này, Phật đă giảng cho chúng ta nghe hơn một ngàn hai trăm danh hiệu, không nói đến danh hiệu của chư Phật, Bồ-Tát. Những danh hiệu đó đều là đức năng nơi tự tánh của mỗi chúng sanh vốn đầy đủ. Ví dụ danh hiệu của Thích-Ca Mâu-Ni Phật, âm tiếng Phạn dịch ra, “Thích Ca” là nhân-từ, dịch là năng-nhẫn, “Mâu Ni” dịch là tịch-diệt, chính là ư thanh-tịnh. Do đây mà biết, nhân-từ cùng thanh-tịnh là đức năng trong tự tánh của chúng ta vốn đầy đủ. Cái đức năng này, nhất định phải dùng danh hiệu để làm cho nó rơ ràng hơn. Chúng ta nghe danh hiệu th́ khi đối nhân xử thế tiếp vật phải nhân-từ; đối với chính ḿnh phải thanh-tịnh, dùng tâm thanh tịnh đối đăi chính ḿnh, dùng tâm từ bi đối đăi với người khác. Cho nên khi nghe danh hiệu hoặc nh́n thấy h́nh tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, chúng ta liền được nhắc nhở ư niệm này, đó là giáo học, là nghệ thuật biểu thị mọi lúc mọi nơi, nhắc nhở tánh đức chúng ta phải không ngừng lưu xuất ra ngoài.

Danh hiệu của Bồ-tát biểu thị tu đức, cũng chính là Phật, Bồ-Tát. Đức năng chúng ta vốn đầy đủ, nhưng hiện tại chúng ta bị mê, tuyệt nhiên không phải mất đi mà chỉ bị mê. Khi mê, tánh đức của tự tánh không hiển hiện, chẳng hạn bản tánh của chúng ta là đại từ đại bi, hiện tại chúng ta đối với người với vật, một chút tâm từ bi cũng không có; tự tánh của chúng ta vốn thanh tịnh, hiện tại một ngày từ sớm đến tối vọng tưởng lung tung, vọng niệm không ngừng, mang đến biết bao phiền năo, v́ chúng ta đă đánh mất đi tánh đức của chính ḿnh, bị mê muội. Nhất định phải dựa vào tu hành mới có thể hồi phục, do đó Bồ-tát đại biểu tu đức.

Tánh và tu không hai, tu đức cũng vô lượng vô biên, bởi v́ chúng ta mê đă quá sâu, do đó phương pháp lư luận của tu đức cũng không cùng tận. Bồ-tát đại biểu tu đức, Phật đại biểu tánh đức, cho nên danh hiệu h́nh tượng chư Phật, Bồ-Tát đều có tác dụng nhắc nhở chúng ta tánh tu. Chúng ta cúng h́nh tượng Phật, Bồ-Tát với mục đích chính như vậy.

Ngày trước trong lúc giảng dạy, tôi thường hay nói rơ với đại chúng, đệ tử Phật cúng dường h́nh tượng Phật, Bồ-Tát không ngoài hai ư. Ư thứ nhất là kỷ niệm, Phật là đạo-sư ban đầu của chúng ta, chúng ta tiếp nhận giáo dục của ngài, đạt được công đức lợi ích thù thắng từ giáo học này th́ đối với vị đạo-sư sáng lập, chúng ta luôn cảm ân, mỗi niệm không quên. Đây thuộc về ư kỷ niệm, gọi là trở về nguồn cội. Ư thứ hai là học tập với Ngài, thấy người hiền mà noi theo. Chúng ta nh́n thấy h́nh tượng phải học theo Ngài. Nghe được danh hiệu, cũng phải học Ngài. Chúng ta cúng dường h́nh tượng Phật, Bồ-Tát cần có tâm trạng này. Cho nên sự cúng dường nhất định không phải là mê tín.

Chúng ta cúng dường Bồ-tát Địa-Tạng, Bồ-tát Địa-Tạng đại biểu hiếu kính “hiếu thân tôn sư”. Nh́n thấy “Địa” là tâm địa, “Tạng” là bảo tạng, Mỗi chúng sanh chúng ta, tâm địa đều đầy đủ vô lượng trí tuệ, vô lượng đức năng, đó là ư nghĩa của “Địa-Tạng”. Do đó thờ cúng h́nh tượng Phật, Bồ-Tát phải khai mở Tâm Địa Bảo Tạng Tự Tánh của chúng ta. Dùng phương pháp ǵ để khai mở ? Dùng giáo dục, mà căn bản của giáo học chính là “hiếu thân tôn sư”, cho nên Kinh Địa-Tạng là Hiếu Kinh của Phật môn.

Học Phật bắt đầu từ đâu ? Từ Địa-Tạng mà học, đây là ư nghĩa cúng dường Bồ-tát Địa-Tạng. Tuyệt nhiên không thể nói :“Tôi cúng dường Bồ-tát Địa-Tạng, mỗi ngày lạy ngài, ngày ngày cúng dường ngài. Ngài sẽ đến bảo hộ tôi”, đó là mê tín, tánh đức của bạn vĩnh viễn không xuất hiện. Chúng ta phải học tập Bồ-tát Địa-Tạng, học lư luận trong Kinh Địa-Tạng đă dạy. Phải hiểu tường tận lư luận và phương pháp, phải thiết thực làm cho được những phương pháp đó, có như vậy mới là Bồ-tát Địa-Tạng, chân thật gia tŕ chúng ta, chân thật bảo hộ chúng ta. Nếu chúng ta không hiểu được ư này, không y theo phương pháp mà làm, chỉ mê tín, th́ một tí lợi ích cũng không có được. Không những không có được, trái lại c̣n có lỗi do đem Phật, Bồ-Tát xem thành thần linh để cúng vái, để hối lộ đút lót, nịnh hót nhờ họ, cho rằng họ có thể bảo hộ ḿnh; đem Phật, Bồ-Tát xem thành tham quan, ô lại để đối đăi. Bạn nghĩ xem, tâm trạng này chính là tội ác, việc này chúng ta không thể không thông hiểu, nhất định không được sai lầm, v́ sai một li, đi một ngàn dặm.

Việc bái lạy Thiên-địa, quỷ-thần trong lễ xưa của Trung Hoa đều có. Đây là phép tu kính, chúng ta đối với thiên-thần, quỷ-thần không hề cầu mong thứ ǵ, nhưng v́ sao phải bái lạy ? Chúng ta nên tôn trọng họ, cung kính họ. Chữ “kính” này là tánh đức. Làm thế nào để bồi dưỡng tánh đức, làm thế nào mở rộng tánh đức? Đối với Thiên-địa quỷ-thần, sự cung kính của chúng ta phải thật tâm, cung kính với tất cả mọi người, mọi việc, mọi vật, vậy mới đúng. Cho nên thời xưa, cúng bái Thiên-địa quỷ-thần, ư nghĩa thiết thực đều thuộc về giáo học, tuyệt đối không có mong cầu ǵ với quỷ-thần. Có mong cầu với quỷ-thần là quan niệm sai lầm, không có trong ư nghĩa của cúng bái vào thời xưa.

2. Vấn đề thứ hai : Thường thấy có rất nhiều người mua hoa tươi trái cây đồ cúng ở tự viện hoặc ở gia đ́nh để cúng dường Phật, Bồ-Tát, đồng thời cũng đốt hương, đốt đèn sáp, đều cầu Phật, Bồ-Tát bảo hộ b́nh an khỏe mạnh, thăng quan phát tài. Vậy dụng ư đúng nghĩa là ǵ ? Có phải Phật, Bồ-Tát cần dùng những thứ này chăng ?

Xin nói với các vị, Phật, Bồ-Tát nhất định không cần những thứ này, vậy ư nghĩa chân thật của những thứ này là ǵ? Vẫn là ở giáo học. Nếu dùng lời hiện đại mà nói, tất cả những thứ cúng dường này chính là công cụ giáo học, để khi chúng ta tiếp xúc liền có thể thức tỉnh. Ví dụ khi ở trước tượng Phật, ư nghĩa của tượng Phật mọi người đều biết, cúng Phật đại biểu tánh đức của tự tánh, Bồ-tát đại biểu tu đức, thông thường chúng ta cúng một vị Phật, hai vị Bồ-tát, bởi v́ tánh đức chỉ có một, không có hai, tu đức th́ nhiều phương diện. Nhiều phương diện đem gom lại, không ngoài hai loại lớn : Tri và Hành, nhà Phật gọi là giải hành, gồm giải môn và hành môn, cho nên dùng hai vị đại Bồ-tát làm đại biểu, việc này tiên sinh Vương Dương Minh gọi là “Tri hành hợp nhất”, thực tế mà nói đều từ trong khai thị của Phật pháp mà có được những linh cảm này.

Giải môn, ví dụ phần đông chúng ta thường cúng Thích-Ca Mâu-Ni Phật và Bồ-tát Phổ-Hiền, Bồ-tát Văn-Thù. Phật biểu thị tánh đức, Văn-Thù, Phổ-Hiền biểu thị tu đức. Văn-Thù biểu thị giải môn, ngài đại biểu trí tuệ. Phổ-Hiền biểu thị hành môn, ngài đại biểu thực hành. Do đó hai vị Bồ-tát này đại biểu cho tất cả.

Đồng tu tịnh độ, phần nhiều thờ Tây Phương Tam Thánh. Phật th́ thờ Phật A-Di-Đà. Ư nghĩa của danh hiệu này là vô lượng giác, “A” ư nghĩa là “Vô”, “Di Đà” ư nghĩa là “Lượng”, “Phật” là “Giác-ngộ”. Tất cả mọi người, mọi việc, mọi vật, tận hư không khắp pháp giới đều phải giác-ngộ, đây là tánh đức cứu-cánh viên-măn. Bồ-tát biểu thị tu đức gồm Quan-Âm, Thế-Chí. Bồ-tát Quan-Âm biểu thị thực hành, đại biểu “hành”, Bồ-tát Thế-Chí biểu thị trí tuệ, đại biểu “giải”, cho nên vẫn là vừa hành vừa giải. Thế nhưng Pháp môn Tịnh độ lại để “hành” phía trước, “giải” ở phía sau, đây là điểm không giống nhau trong cúng dường tượng Phật. Chúng ta chú trọng thực hành, nên đem để ở phía trước. Hiểu rơ ư này, chúng ta sẽ không đến nỗi sanh ra quan niệm sai lầm.

Cúng hoa trước tượng Phật, hoa đại biểu nhân. Thế xuất thế gian pháp đều không rời nhân quả, Phật thường nói trong các Kinh Đại-thừa “vạn pháp giai không, nhân quả bất không”, nhân quả là sự chuyển biến của vạn pháp. Nhân sẽ biến thành quả, quả sẽ biến thành nhân, nhân quả thay đổi lẫn nhau, tiếp nối không ngừng, ám chỉ sự thay đổi vô cùng vô tận, do đó nói “nhân quả bất không”. Do v́ nở hoa trước kết quả sau, hoa là nhân, sau đó là quả, nên cúng hoa là đại biểu tu nhân, hoa tốt th́ chúng ta nghĩ quả nhất định sẽ tốt. Thấy hoa, ta liền phải nghĩ đến việc tu nhân thiện, tương lai mới có thể được quả báo tốt. Hoa biểu thị ư này.

Cúng quả, quả biểu thị quả báo, là cái chúng ta mong cầu. Hoa xinh đẹp, nhắc nhở chúng ta phải tu. Trong Phật pháp Đại-thừa, hoa đại biểu lục độ, “bố thí, tŕ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ”, gọi là hoa lục độ, sau đó mới có thể đạt được quả báo viên măn. Hoa cúng trước Phật biểu thị ư này, cũng như học sinh trên lớp học hiểu được hoa biểu thị nhân hành, nhưng sau khi rời khỏi Phật điện, chúng ta ra ngoài nh́n thấy hoa, có c̣n nghĩ đến ư này không ? Đều phải có khái niệm như vậy. Hiểu Phật pháp, chỉ cần nh́n thấy hoa, liền nhắc nhở chính ḿnh tu nhân thiện, phải tu nhân tốt. Thậm chí quần áo mặc trên người, khi in lên những hoa văn, nh́n thấy hoa liền biết chính ḿnh phải tu hành. Giờ giờ khắc khắc, nhắc nhở chính ḿnh tu nhân thiện mới có thể được quả tốt. Đây là ư nghĩa của việc cúng dường hoa tươi trái cây.

C̣n cúng dường thực phẩm, thực tế mà nói không ư nghĩa, không quan trọng. Thực phẩm chỉ biểu thị chút ḷng thành của ḿnh. Chúng ta cần thực phẩm ngon, chúng ta cũng đem thực phẩm ngon cúng dường Phật, Bồ-Tát, đây là ư kỷ niệm, cũng là ư tượng trưng.

Đốt hương, hương đại biểu tín hương, là một loại tín hiệu, việc này thời xưa ứng dụng rất phổ biến. Nếu các vị đi du lịch đến Trung Hoa Đại Lục th́ nên đến tham quan Trường Thành. Mỗi đoạn Trường Thành có một phong hỏa đài dùng để truyền tín hiệu. Phong hỏa đài cũng giống như cái bếp ḷ, thời xưa việc truyền tín hiệu rất khó, người ta mới nghĩ cách dùng phong hỏa đài, đốt lửa hun khói. Mật độ của khói không giống b́nh thường, gió không dễ thổi tan, do đó khói được giữ lâu, ở nơi rất xa có thể nh́n thấy và nhận biết nơi đó báo hiệu có biến cố xảy ra. Chúng ta dùng cách biểu đạt đốt hương phát tín hiệu đến chư Phật, Bồ-Tát, để cảm ứng được thông nhau. Thế nhưng hàm ư chân thật, chúng ta thường nói :“Giới định chân hương, ngũ phần pháp thân”, ư này rất sâu. Đốt hương nhắc nhở bạn học nhiều, chúng ta nh́n thấy khói hương, ngửi được mùi hương, liền nghĩ chính ḿnh phải tu giới, định, huệ. Cho nên đốt hương đại biểu “giới định chân hương”, đại biểu “ngũ phần pháp thân”, ngũ phần pháp thân gồm giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến.

Đèn tượng trưng cho trí tuệ quang minh. Thời xưa dùng đèn dầu, đèn cầy, ư này càng rơ ràng. Đèn dầu chân thật đốt cháy chính ḿnh để soi sáng người khác, đèn cầy lại càng đặc biệt rơ ràng hơn. Chúng ta phải cầu trí tuệ, có thể xả ḿnh v́ người; lấy trí tuệ, kỹ năng của chính ḿnh phục vụ xă hội, giúp đỡ tất cả chúng sanh mà không cầu báo đáp, đây là lời Phật dạy. Cho nên đốt hương, đèn cầy đều là biểu pháp, nếu chân thật làm đúng như vậy, tự nhiên liền được b́nh an, khỏe mạnh, sống lâu, cho đến thăng quan phát tài. Đó là do trong mạng của bạn đă có theo mối quan hệ nhân quả. C̣n trong mạng không có th́ Phật, Bồ-Tát cũng không ban được.

Nếu trong mạng của bạn không có tiền tài, Phật, Bồ-Tát có thể giúp bạn phát tài, trong mạng của bạn không có quan vị, Phật, Bồ-Tát ban cho quan cao, th́ định luật nhân quả đă bị đánh đổ, làm ǵ có đạo lư này. Chư Phật, Bồ-Tát trí tuệ có lớn hơn, năng lực có mạnh hơn cũng không cách nào thay đổi được tí ǵ nhân quả. Thế gian pháp xây dựng trên nền tảng của nhân quả, Phật pháp cũng xây dựng trên nền tảng của nhân quả, chúng ta phải hiểu tường tận. Kinh Pháp Hoa, Nhất Thừa Nhân quả, Kinh Hoa Nghiêm, Ngũ Châu Nhân quả, bạn xem tất cả Kinh luận đều không ĺa định luật nhân quả. Phật, Bồ-Tát có thể giúp chúng ta phát tài không ? Có thể ! V́ Phật, Bồ-Tát dạy chúng ta lư luận phát tài, dạy chúng ta phương pháp tu học phát tài. Chúng ta hiểu rơ lư luận, y theo phương pháp này mà tu học, th́ tự nhiên đạt được. Không thể nói Phật, Bồ-Tát dạy cho bạn, bạn liền trực tiếp phát tài, mà bạn  – chính ḿnh – phải làm. Ví dụ bạn muốn ăn dưa, Phật, Bồ-Tát dạy bạn làm thế nào để trồng dưa, làm thế nào chọn hạt giống, làm thế nào để vun xới đất, bón phân cho cây tươi tốt, mau phát triển, bạn làm theo th́ tương lai nhất định có thu họach tốt. Không thể nói bạn cầu dưa th́ Phật, Bồ-Tát liền mang dưa đến cho bạn, không hề có như vậy, đó là mê tín !

Cho đến cầu b́nh an, cầu khỏe mạnh, Phật cũng dạy bảo chúng ta làm thế nào mới có thể chân thật đạt tự tại, hạnh phúc, mỹ măn, trong đó đă bao hàm b́nh an, khỏe mạnh, sống lâu. Phật dạy chúng ta tất cả phải thuận theo tự nhiên, “tự tại tùy duyên”. Ví dụ người hiện đại nói “hoàn cảnh sinh thái”, mọi người đều biết trên địa cầu này không luận động vật, thực vật đều hỗ tương lẫn nhau tồn tại, nếu một phương diện nào đó bị phá hoại, nhất định ảnh hưởng đến thứ khác. Hoàn cảnh sinh hoạt tự nhiên của chúng ta đang bị phá hoại nghiêm trọng, không chỉ động vật mà thực vật cũng không c̣n hoàn cảnh để sinh tồn. Có một số thực vật động vật đă bị tiệt chủng, đây đều do hoàn cảnh sinh thái không cân bằng. Trên con người chúng ta, nhục thể là một bộ phận sinh lư, c̣n một bộ phận nữa là tinh thần, cũng giống như đại tự nhiên không hề khác nhau. Nếu bạn thuận với đại tự nhiên th́ bạn nhất định sẽ khỏe mạnh sống lâu, bạn sẽ trải qua đời sống an vui. Nhưng nếu trái với tự nhiên, bạn phá hoại sinh thái tự nhiên, th́ bạn sẽ đau khổ bệnh tật cho đến bị một số tai nạn không thể tránh khỏi.

Phật tâm chúng ta vốn thanh tịnh, tâm rỗng không. Thế nhưng bạn lại không t́m ra, cho nên Phật pháp dùng bánh xe để biểu thị. Bánh xe tṛn biểu thị tâm phải tṛn đầy, nhưng sự tṛn đầy của tâm là bất khả đắc. Bạn nói đến một điểm th́ cái điểm này đă biến thành diện tích, cho nên điểm chỉ là một khái niệm trừu tượng. Tâm viên là một điểm, nhất định có, do đó Phật bảo chúng ta tâm phải thanh tịnh v́ tâm chính là tâm viên, là trung tâm vũ trụ, cũng là một trung tâm sinh mạng con người. Tâm tuy nhất định nhưng có cái không thể chứa được, trong tâm nếu ôm chứa một thứ ǵ th́ tâm liền bị hư. Trong tâm bạn có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, có lo lắng, dính mắc th́ tâm đă hư, bạn đă trái với nguyên tắc của tự nhiên. C̣n nếu bạn buông bỏ tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, lo lắng, dính mắc, tâm của bạn liền hồi phục b́nh thường, đây gọi là tùy thuận phép tắc tự nhiên, do đó tâm phải thanh tịnh, nhất định không có thứ ǵ.

Thân th́ sao ? Thân phải hoạt động, thân là một ṿng tṛn, ṿng là động, nếu không động th́ hư. Thân phải động, tâm phải tịnh, đây là đạo dưỡng thân, cũng là chân đế dưỡng thân. Thế nhưng hiện tại đặc biệt là người giàu có th́ hoàn toàn trái với đạo này. Bạn xem, tâm phải thanh tịnh, phải vô nhất vật. Lục-tổ thiền-tông nói “Bổn lai vô nhất vật”, ư nói cái tâm chân thật của chính ḿnh xưa nay vốn là thanh tịnh, không dính mắc với vật nào hết. Chỉ v́ chạy theo vọng tưởng, phân biệt, chấp trước mà quên cái tâm chân thật của chính ḿnh ! … Vậy thân cần phải động, bạn muốn sống th́ phải động, không động không thể sống. Nhưng nhiều người không muốn động thân, lại cứ động tâm. Thế là, thân tâm họ làm sao tránh khỏi bệnh tật. Bệnh tật từ đây mà ra !

Trong Phật pháp có một phương pháp tu hành là lạy Phật. Mỗi ngày lạy mấy trăm lạy thậm chí mấy ngàn lạy. Người lạy nhiều nhất đến ba ngàn lạy. Khi lạy Phật, thân đang vận động, tất cả bộ phận đều vận động là dưỡng thân. Ngoài việc lạy Phật ra, lao động cũng là dưỡng thân. Tâm thanh tịnh, không vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, không lo lắng, dính mắc, tự nhiên con người hạnh phúc khỏe mạnh sống lâu. Cho nên Phật pháp giảng đạo lư, dạy bạn những phương pháp này đều phù hợp với chân tướng sự thật, tương ưng với hoàn cảnh sinh thái tự nhiên, bạn mới có thể chân thật đạt khỏe mạnh sống lâu, cho đến phước báu khác. Mỗi người đều có thể đạt đến hạnh phúc mỹ măn bất luận giàu có hay bần tiện. Giàu có hay bần tiện là do tu đức. Tiền của từ bố thí tài mà ra. Bố-thí tài là nhân, được tiền của là quả báo. Bạn tu nhân nhất định được quả báo. Nếu đời quá khứ hoặc hiện tại không tu nhân, bạn muốn phát tài cũng không thể. Hăy đọc qua Liễu Phàm Tứ Huấn sẽ hiểu, chân thật là “Một bữa ăn, một ngụm nước đều do tiền định”.

Trong mạng đă có, dù bỏ cũng không mất; trong mạng không có, dù cầu cũng không được. Phật, Bồ-Tát, Thiên-địa quỷ-thần cũng không cách ǵ. Bạn cầu Phật, Bồ-Tát, cầu quỷ-thần, cầu phát tài, quả nhiên liền phát tài, thành thật mà nói đó là trong mạng của bạn đă sẵn có, vừa khéo ngay lúc này gặp được cơ duyên, chứ không phải Phật, Bồ-Tát linh hiển. Nếu quả thật Phật, Bồ-Tát quỷ-thần có linh th́ một trăm người cầu phát tài, một trăm người đều phát tài, mới gọi là linh. Một trăm người cầu, mà chín mươi chín người phát tài, c̣n một người chưa th́ vẫn không linh. Cho nên đầu óc chúng ta phải b́nh lặng, không để bị người lừa gạt, càng không nên bị quỷ-thần lừa gạt. Bị người lừa gạt c̣n có thể tha thứ, nhưng bị quỷ-thần lừa gạt là một việc không thể tha thứ. Phải có lư tánh, có trí-tuệ mà quán sát, chúng ta mới có thể đạt được lợi ích chân thật !

Tóm lại, cúng dường Phật, Bồ-Tát những đồ cúng đều là biểu pháp, tuyệt đối không phải v́ các ngài cần, mà nhờ vào những thứ này, mỗi giờ mỗi khắc nhắc nhở chính ḿnh, để sáu căn của ḿnh tiếp xúc với cảnh giới sáu trần niệm niệm đều có thể đạt được giác không mê, chánh không tà, tịnh không nhiễm. Chẳng hạn gia đ́nh nghèo khó, không có khả năng mua sắm đồ cúng, vậy chúng ta ở trước mặt tượng Phật, cúng dường đơn giản nhất một ly nước. Đây là vật cúng quan trọng nhất trong các đồ cúng, nước biểu thị cái ǵ ? Nước biểu thị cho tâm, nước trong sạch biểu thị tâm thanh tịnh. Nước không nổi sóng là b́nh, biểu thị b́nh đẳng. Cúng dường một ly nước, nh́n thấy nước nghĩ ngay đến thanh tịnh b́nh đẳng, đây là đồ cúng vô cùng quan trọng. Bạn có thể không cần thắp hương, không đốt đèn nến, cũng không cần hương hoa trái cây cúng dường, nhưng không thể không cúng một ly nước v́ nó đại biểu tâm thanh tịnh, tâm b́nh đẳng. Nh́n thấy nước liền nghĩ ngay đến chính ḿnh, trong tất cả cảnh duyên, hoàn cảnh nhân sự, hoàn cảnh vật chất, phải biết thanh tịnh b́nh đẳng. Tâm thanh tịnh b́nh đẳng là tâm Phật, cũng chính là chân tâm.

3. Vấn đề thứ ba : cũng là một hiện tượng phổ thông hiện tại. Họ nói :“Người thông thường trước khi chính thức cúng dường h́nh tượng Phật, Bồ-Tát đều phải cử hành nghi thức khai quang điểm nhăn. Ư nghĩa của khai quang là ǵ ? Có cần thiết hay không ? Khi khai quang th́ tượng Phật liền linh; không khai quang th́ tượng Phật không linh, rốt cuộc người như thế nào mới đủ tư cách để khai quang cho h́nh tượng Phật, Bồ-Tát ?

Vấn đề này, ngày trước khi tôi giảng kinh cũng đă nhiều lần nhắc đến. Thông thường khai quang đều hướng đến h́nh thức mê tín, làm cho ư nghĩa của sự khai quang hoàn toàn bị sai lệch. Thực tế, việc khai quang rất quan trọng, ư nghĩa chân thật của nó là nói rơ ư cúng dường một h́nh tượng Phật, Bồ-Tát ở đâu. Việc này cũng giống như h́nh tượng một vĩ nhân ở thế gian, chúng ta xây dựng xong th́ cử hành một đại lễ khai mạc. Ngay trong đại lễ, nhất định phải thuyết minh rơ cho đại chúng, nói rơ nhân vật đó khi c̣n ở đời, sự nghiệp vĩ đại của họ, họ có cống hiến đối với đại chúng trong xă hội, có cống hiến cho quốc gia dân tộc. Phải giảng giải rơ ràng, tường tận để xă hội đại chúng thấy được h́nh tượng liền khởi tâm niệm muốn làm theo, đây chính là ư nghĩa khai quang của Phật-giáo. Ví dụ chúng ta cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm, làm xong h́nh tượng Bồ-tát Quán Thế Âm, chúng ta phải thờ cúng, cúng dường lễ lạy. Khi thờ cúng, chúng ta nhất định phải nói rơ với đại chúng, v́ sao chúng ta cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm, ư nghĩa của việc cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm là ǵ ? Vậy nhờ vào tôn tượng mà khai mở ánh sáng tự tánh của chính ḿnh. Cho nên không phải người đến khai quang cho Phật, Bồ-Tát mà nhờ vào h́nh tượng của Phật, Bồ-Tát để khai quang cho chúng ta.

Nếu như nói :“Phải mời một vị Pháp-sư đến khai quang cho tượng Bồ-tát Quán Thế Âm này th́ Ngài mới linh, không khai quang th́ Ngài không linh”, rất nhiều người cũng t́m đến tôi nhờ khai quang cho Phật, Bồ-Tát. Tôi liền thành thật nói với họ :“Bạn không cần cúng dường Phật, Bồ-Tát”. Họ hỏi v́ sao ? Tôi trả lời :“Tôi bảo họ linh th́ họ linh, bảo họ không linh th́ họ không được linh, vậy th́ tôi linh hơn họ, bạn cúng dường tôi là tốt rồi, cúng dường họ làm ǵ ?”. Bạn thử nghĩ xem có đúng không, đây gọi là mê tín. Nếu tôi làm bộ làm tịch họa họa vẽ vẽ cho họ th́ họ liền linh, các vị thử nghĩ xem, há chẳng phải tôi c̣n linh hơn họ hay sao ? Ngay đến điểm này mà nghĩ không thông, vậy th́ ngu si mê muội của bạn đă lên đến tột cùng, người đầu óc b́nh lặng thông minh, vừa nh́n là hiểu rơ mọi việc, liền thông suốt chân tướng sự thật. Khai quang cho Phật, Bồ-Tát hiển linh là lừa gạt chúng sanh.

Khai quang là nêu rơ ư nghĩa mà vị Phật, Bồ-Tát này biểu thị. Ví dụ cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm, đại biểu của Bồ-tát Quán Thế Âm là đại từ đại bi cứu độ tất cả chúng sanh. Chúng ta cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm phải nên học theo loại bi nguyện đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn của Phật, Bồ-Tát. Do đó khi nh́n thấy h́nh tượng của Bồ-tát Quán Thế Âm, nghe đến danh hiệu Ngài, th́ tâm đại từ bi của chúng ta được khai mở. Chúng ta đối với tất cả mọi người, mọi việc, mọi vật, phải dùng đại từ-bi chân thật thương yêu quan tâm giúp đỡ.

Từ danh hiệu và h́nh tượng Phật, Bồ-Tát, chúng ta được khai mở ánh sáng từ bi trong tự tánh, đây gọi là khai quang, ư nghĩa như vậy, nhất định không nên hiểu sai, trở thành mê tín. Mê không thể giải quyết vấn đề, chỉ có trí tuệ mới có thể giải quyết được, việc này người học Phật không thể không biết.

Người như thế nào mới có tư cách khai quang cho tượng Phật ? Người đối với kinh luận của Phật, Bồ-Tát, khởi nguồn lịch sử, ư nghĩa mà các Ngài biểu đạt đều có thể thông suốt tường tận, v́ mọi người giải thích rơ ràng, giảng nói minh bạch. Tuyệt đối không ở trên h́nh thức. Mỗi h́nh thức đều có ư nghĩa giáo dục rất sâu, đều phải đem nó giảng giải rơ ràng, tường tận, mới không đến nỗi đi vào mê tín, xem Phật, Bồ-Tát thành quỷ-thần để tôn thờ, sùng bái, mong cầu ban phước. Đó là quan niệm sai lầm.

4. Vấn đề thứ tư : Họ nói thời nay trên toàn thế giới, mật tông tương đối thịnh hành. Thế nhưng có vài việc khiến mọi người lo lắng, đó là quán đảnh. Ư nghĩa của việc quán đảnh là thế nào ? Tiếp nhận quán đảnh có thể tiêu trừ nghiệp chướng hay không ? Thượng sư mật tông dùng quán đảnh để tiêu trừ nghiệp chướng cho mọi người ? Và làm thế nào mới có thể mau tiêu trừ nghiệp chướng ?

Quán đảnh có ư nghĩa quan trọng mà chúng ta không thể không biết. Nếu quán đảnh trên h́nh thức, rưới vài giọt nước lên đầu bạn, nghiệp chướng của bạn liền được tiêu trừ, bạn có thể tin được hay không ?

Trước tiên tôi muốn hỏi bạn, nghiệp chướng là ǵ ? Bạn phải hiểu rơ ràng về nghiệp. Nghiệp là tạo tác của bạn, đơn giản mà nói, bạn đối với vũ trụ nhân sanh có cách nghĩ sai lầm, có cái thấy sai lầm, cách nói sai lầm, cách làm sai lầm, bạn ở ngay đó tạo tác gọi là “nghiệp”. Những nghiệp này chướng ngại thanh tịnh của bạn, chướng ngại tự tánh giác của bạn, gọi là “nghiệp chướng”. Vậy thượng sư quán đảnh cho bạn, nghiệp chướng của bạn có được tiêu trừ hay không, bạn liền được tâm thanh tịnh hay không ? Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của bạn có thảy đều tiêu hết, bạn đối với vũ trụ nhân sanh quá khứ, hiện tại, vị lai không ǵ không biết, không ǵ không thể ? Được như thế mới chân thật là nghiệp chướng được tiêu trừ. Sau khi được quán đảnh, bạn thử quán sát xem, vọng tưởng phân biệt chấp trước của bạn có phải đă được tiêu trừ, hoặc giảm ít cũng là rất tuyệt. C̣n nếu sau khi được quán đảnh, vọng tưởng phân biệt chấp trước không hề giảm, thậm chí c̣n tăng thêm, th́ do đây mà biết, hoàn toàn không hề có hiệu quả.

Trong chú giải Kinh Vô Lượng Thọ của lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ đă nói rất rơ ràng, minh bạch, bởi v́ bản thân ông là thượng sư của mật tông nên lời ông nói chân thật, không hề gạt người. “Quán” mang ư từ bi gia tŕ, sự quan tâm, thương yêu, giúp đỡ bạn, đây là ư nghĩa của việc quán đảnh. “Đảnh” là đại pháp chí cao vô thượng, nói cách khác, đem đại pháp chí cao vô thượng truyền thụ cho bạn, gọi là “quán đảnh”. Không phải đem vài giọt nước rưới lên đầu bạn là “Quán đảnh”, nếu quán đảnh như vậy, buổi tối mỗi ngày bạn vào nhà tắm tắm rửa, vậy th́ gọi là đại quán đảnh rồi, thoải mái dường nào.

Không nên mê tín, đó chỉ là biểu pháp của việc lấy nước cam lộ để quán đảnh. Cam lộ đại biểu Phật pháp chí cao vô thượng. Nếu mọi người hiểu được đạo lư này sẽ biết được Kinh Vô Lượng Thọ là đại pháp chí cao vô thượng trong tất cả kinh điển. Bạn đọc qua một lượt từ đầu đến cuối Kinh Vô Lượng Thọ, tức là không chỉ Phật A-Di-Đà quán đảnh một lần cho bạn mà mười phương tất cả chư Phật vốn đều hoằng dương pháp môn này, nên mười phương tất cả chư Phật quán đảnh cho bạn mặc dù bạn không hề biết. Đây là chân thật quán đảnh, không hề lừa gạt bạn. Bạn không hiểu được đạo lư này mà cứ đi cầu mật tông thượng sư rảy vài giọt nước lên đầu rồi bạn liền cho rằng có thể tiêu nghiệp chướng, thực tế nghiệp chướng không hề tiêu, mà c̣n không ngừng tăng thêm, bởi v́ tâm bạn là tâm mê hoặc, điên đảo; cách làm này của bạn là cách làm sai lầm, chính bạn hoàn toàn không hề biết. Bạn rơi vào con đường mê tín th́ làm sao có thể được công đức lợi ích, làm sao bạn có thể tiêu nghiệp chướng, việc này cần phải hiểu rơ.

5. Vấn đề thứ năm : Câu hỏi “Trong xă hội hiện đại, mật tông, thiền tông đều rất thịnh hành. Mật tông th́ nói ‘tức thân thành Phật’, thiền tông lại nói ‘minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật’, vậy rốt cuộc việc thành Phật là như thế nào ?”

Chữ “Phật” là từ âm tiếng Phạn Ấn-Độ mà dịch ra, kỳ thật chữ này có thể đem dịch sang Trung văn, nhưng tại sao lại không dịch ? V́ trong trung tâm dịch kinh thời xưa quan niệm có năm loại không dịch. Từ này thuộc về ḷng tôn kính nên không dịch. Chỉ có thể dịch âm, ư nghĩa là trí tuệ, giác ngộ. Tuy nhiên hàm ư trong danh từ “Phật” vượt ra ngoài lư giải của chúng ta. Trí tuệ của ngài là trí tuệ viên măn, giác ngộ của ngài là triệt để giác ngộ. Nói cách khác, đối với cả vũ trụ nhân sinh, thậm chí đến quá khứ vị lai, chân thật không ǵ không biết, không ǵ không giác. Phải đạt đến cảnh giới như vậy mới gọi là thành Phật.

Nếu các vị hiểu rơ hàm ư của chữ Phật này th́ liền biết “tức thân thành Phật” của mật tông có thể thành được hay không ? Ngay trong đời hiện tại, hoặc trong thời gian tu học ngắn ngủi của bạn, bạn có thể tường tận thông suốt được chân tướng của vũ trụ nhân sinh hay không ? Không hề tường tận là không thể thành Phật ! Lời nói của thiền tông so với “tức thân thành Phật” của mật tông, tôi cảm thấy ư nói tiến bộ thêm một chút. V́ nó có điều kiện, điều kiện là minh tâm kiến tánh, kiến tánh mới thành Phật. Ai có thể đạt đến được minh tâm ? Do đây mà biết, tâm chúng ta bị vô-minh che đậy, hiện tại tâm này bị mê hoặc. Yêu cầu tu học của thiền tông là phá trừ mê hoặc, hồi phục tự tánh. Khi mê, Phật pháp gọi là “tâm”, khi giác ngộ th́ gọi là “tánh”. Các vị phải biết “tâm” cùng “tánh” là một thể. Nếu tâm sáng suốt th́ gọi là bổn tánh, nhà Phật gọi là “chân như”. Lúc nào bạn đă kiến tánh, minh tâm th́ lúc đó gọi bạn là Phật, bạn không c̣n là phàm phu nữa. Khác biệt giữa phàm phu và Phật ở chỗ này. Phàm phu chúng ta phải mặc áo ăn cơm, Phật, Bồ-Tát cũng mặc áo ăn cơm; phàm phu chúng ta có công việc, Phật, Bồ-Tát mỗi ngày cũng làm việc, trên sự tướng th́ không hề khác nhau, khác biệt chính là cảnh giới. Họ có trí tuệ chân thật, chân thật không ǵ không biết, không ǵ không thể. Nếu chúng ta hiểu rơ th́ liền hiểu được hai câu nói này.

Tuy trong kinh luận, trong chú sớ của đại đức xưa có, nhưng trên thực tế th́ tuyệt đối không phải người thông thường có thể làm được. Nói đến “tức thân thành Phật” của mật tông, trong Văn Sao của Ấn Quang Đại Sư đă nói rất rơ ràng, chúng ta không cần phải bàn nhiều. Trước khi lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ văng sanh không lâu, tôi có gặp ông, ông cũng là truyền nhân của mật tông, bản thân ông là Kim Cang Thượng sư. Ông rất thành thật nói với tôi : “Vào thời đại này, căn cơ để học mật đă không c̣n nữa”, nói cách khác, học mật nếu muốn ngay đời này thành tựu th́ không thể t́m ra. Mật tông không thể thành tựu, thiền tông cũng rất khó tương tự. Kinh Đại Tập, Phật nói : “Thời kỳ mạt pháp chỉ có pháp môn Tịnh độ đới nghiệp văng sanh”, pháp này dễ dàng thành tựu, hơn nữa c̣n thành tựu ổn định. Chúng ta tuân theo lời giáo huấn của Phật Thích-Ca Mâu-Ni chính là học sinh tốt của Phật, chăm chỉ nỗ lực niệm Phật, y theo ba kinh một luận của Tịnh độ mà tu tập, tương lai nhất định có kết quả tốt đẹp.

Từ xưa đến nay, niệm Phật văng sanh đă có rất nhiều tướng lạ không thể nghĩ bàn. Những người này biểu hiện rơ ràng để chúng ta xem. Mật tông “tức thân thành Phật”, chúng ta chưa hề thấy qua, cũng không hề nghe nói. Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cũng không dám nói ḿnh “tức thân thành Phật”. Lăo Pháp-sư Đàm Hư sống đến hơn chín mươi tuổi mới văng sanh. Sinh tiền ông nói với người rằng ông gặp qua rất nhiều vị thiện tri thức của thiền tông, gặp qua người có được thiền định, nhưng chưa gặp qua người khai ngộ, cũng chính là người “minh tâm kiến tánh”. Không những không thấy qua mà c̣n không hề nghe nói. Do đây có thể biết, mật và thiền rất khó, tuyệt đối không phải người thông thường có thể thành tựu.

Đại sư tổ thứ sáu thiền tông (Huệ-Năng) nói rất hay, đối tượng mà ngài tiếp dẫn là người thượng thượng căn. Chúng ta tự nghĩ xem ḿnh có căn khí thượng thượng căn hay không ? Thế nào gọi là thượng thượng căn ? Phiền năo nhẹ, trí tuệ lớn. Nói cách khác, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước rất ít; sáu căn thông lợi, mắt vừa thấy, tai vừa nghe, thân vừa tiếp xúc liền thông đạt, liền thông suốt, hơn nữa không có sai lầm. Căn tánh như vậy mới xem là người thượng thượng căn, bạn mới có duyên phận tiếp nhận tu học pháp môn này.

Điều kiện của mật tông th́ cao hơn. Trong kinh đại-thừa, mật tông nói “tức thân thành Phật”, lời nói này cũng không phải giả, học Phật không học mật nhất định không thể thành Phật, có thể thấy được mật rất quan trọng. Mật không phải là bí mật, Phật pháp không có bí mật. Phàm có bí mật, th́ đó không phải là việc tốt, tại sao ? V́ không thể nói với người th́ sao là việc tốt được ? Phật pháp nói cái mật này là thâm mật, không phải thiển trí, không phải người huệ ít mà có thể lănh ngộ, cho nên gọi nó là mật. Vậy lúc nào mới có thể chính thức bắt đầu học mật ? Pháp đại-thừa nói, khi thành Bát-Địa Bồ-tát. Liệu bạn đang là Bồ-tát địa thứ mấy? Bồ-tát Bát-Địa chính thức học mật v́ họ đă chứng được bất động địa.

Thông thường chúng ta nói tu hành thành Phật cần phải trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp, người hiện đại gọi con số này là con số thiên văn, không phải tính từ hiện tại, cũng không tính từ đời đời kiếp kiếp trong quá khứ của chúng ta, mà tính từ ngày bạn phá được nhất phẩm vô-minh, thấy một phần chân tánh. Rơ ràng hơn, nếu bạn đoạn kiến tư phiền năo, siêu việt sáu cơi luân hồi, chứng được quả A-La-Hán, đă là rất tốt, vậy cũng không tính. Bạn có thể tiến thêm một bước, phá trần sa vô-minh siêu việt mười pháp giới, vẫn chưa tính. Cần phải tiến thêm một bước nữa, phá nhất phẩm vô-minh, chứng một phần pháp thân, lúc đó bắt đầu tính từ ngày này, thực tế chính là bốn mươi mốt vị pháp thân đại sĩ mà Kinh Hoa Nghiêm đă nói. Ba A-tăng-kỳ kiếp là nói đối với họ, không phải nói với chúng ta, chúng ta không có phần.

Một A-tăng-kỳ kiếp tu măn ba mươi ngôi thứ, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, đây là Viên Giáo. A-tăng-kỳ kiếp thứ hai tu măn bảy ngôi thứ, từ sơ địa đến thất địa. A-tăng-kỳ kiếp thứ ba tu măn ba ngôi thứ, bát địa, cửu địa, thập địa, càng lên cao, càng khó khăn. Vậy Bồ-tát Bát-Địa, việc tu hành của họ đă tiến vào thời kỳ đầu của ba A-tăng-kỳ kiếp, lúc này họ mới chính thức học mật, làm ǵ có phần của chúng ta. Không thể nói truyền cho bạn mấy câu chú, ngày ngày tŕ chú, học vài thủ ấn th́ gọi là học mật. Đó chỉ là h́nh thức của mật, không phải thật. Những thường thức này chúng ta nhất định phải hiểu, về sau mới không sanh ra quan niệm sai lầm.

6. Vấn đề thứ sáu : Những năm gần đây, trong lẫn ngoài nước, tôi thường nghe các vị đồng tu nói : có một vị Pháp-sư, một vị đại đức, một vị Lạt-Ma nào đó tự xưng họ chính là Bồ-tát tái sanh, Phật tái sanh. Người ta đến hỏi tôi rằng những lời nói này rốt cuộc là thật hay giả ?

Thực tế họ đă hỏi sai người, tôi làm sao biết được. Nếu tôi biết được th́ chẳng phải tôi đă thành Phật rồi. Tôi chưa thành Phật, làm sao tôi biết họ thành Phật; tôi không phải là đại Bồ-tát tái sanh th́ làm sao tôi biết họ là đại Bồ-tát tái sanh. Do đó, những truyền thuyết này đă mê hoặc rất nhiều đồng tu học Phật trong xă hội, đặc biệt là sơ học. Thậm chí không chỉ sơ học, ngay đến lăo tu cũng bị họ mê hoặc. Tuy không biết họ là thật hay giả, nhưng trên Kinh Phật có thuyết minh, chư Phật, Bồ-Tát ứng hóa ở thế gian này đích thực rất nhiều. Khi chúng sanh có khổ nạn to lớn, chư Phật, Bồ-Tát đại-từ đại-bi ứng hóa ở thế gian, cùng ḥa ḿnh với tất cả đại chúng, không nhất định dùng thân phận ǵ. Giống như trong Phổ Môn Phẩm đă nói, Bồ-tát Quán-Thế-Âm hiện ba mươi hai tướng, nên dùng thân ǵ để độ, ngài liền hiện ra thân đó, nam nữ già trẻ, trong các nghề nghiệp đều có Phật, Bồ-Tát hóa thân.

Thế nhưng có một nguyên tắc, họ nhất định không để lộ ra thân phận, nếu lộ ra thân phận, họ lập tức phải ra đi, không thể lưu lại thế gian này ! Việc này chúng ta đă xem thấy trong lịch sử, thân phận vừa lộ, mọi người biết, họ liền ra đi, đó chính là thật. C̣n nếu nói thân phận lộ ra mà họ vẫn không đi, th́ việc này trở nên kỳ lạ, không hề tương ưng với kinh, do đó mà biết không phải thật. Không phải thật chính là giả mạo Phật, Bồ-Tát lừa gạt chúng sanh, thu danh vọng lợi dưỡng, tạo tội nghiệp. Chúng ta hiểu những thường thức này th́ sẽ không đến nỗi bị lừa !

Gần đây nhất, mọi người mới biết Đại sư Ấn Quang là Bồ-tát Đại Thế-Chí hóa thân tái sanh. Bạn xem hành nghiệp cả đời Ngài cùng với người phổ thông phàm tục không hề khác biệt. Thế nhưng xem việc tu hành của Ngài, xem Ngài giáo hóa chúng sanh, đích thực rất tương ưng với nguyên lư nguyên tắc trong Đại Thế-Chí Bồ-tát Viên Thông Chương. Việc Ngài là Bồ-tát Đại Thế-Chí tái sanh do một vị cư sĩ nói trong sách Vĩnh Tư Tập. Trước khi Đại sư văng sanh bốn năm, lúc đó vị cư sĩ này là một học sinh sơ trung, chưa hề tiếp xúc Phật-giáo cũng không tin Phật-giáo. Cô gặp qua một giấc mộng thấy Bồ-tát Quán-Thế-Âm mặc áo trắng nói với cô rằng : Bồ-tát Đại Thế-Chí đang giảng kinh thuyết pháp tại Thượng Hải, khuyên cô đi nghe. Cô hỏi :“Vị nào là Đại Thế-Chí Bồ-tát ?”. Ngài liền nói: “Vị ấy là Pháp-sư Ấn Quang”. Sau đó cả nhà đi gặp Pháp-sư Ấn Quang, đem sự việc nằm mộng nh́n thấy được nói ra. Pháp-sư Ấn-Quang mắng cô một trận v́ tội yêu ngôn hoặc chúng, về sau không được phép nói nữa, nếu nói nữa th́ cô đừng đến chỗ Ngài. Cô mất hồn không dám nói nữa. Bốn năm sau, Ấn-Quang Đại sư văng sanh, cô mới đem việc này công bố ra.

Cho nên chân thật là người tái sanh nhất định sẽ không để bộc lộ thân phận. Bộc lộ thân phận mà không đi, là có vấn đề. Pháp-sư Ấn Quang một mực phủ nhận, làm ǵ có việc tự ḿnh xưng là Phật, Bồ-Tát tái sanh. Chúng ta phải cẩn thận để ứng phó.

7. Vấn đề thứ bảy : xă hội lưu hành phổ biến tập tục cúng bái. Ở Đài-Loan, phương Nam Trung-Hoa từ xưa thường chọn ngày mùng một và mười lăm đi lễ chùa, mục đích cầu phước, cầu khỏe mạnh sống lâu, thăng quan phát tài. Có hiệu quả không ?

Những sự lư này, b́nh thường trong lúc giảng kinh chúng tôi đều đă nói qua nhiều lần. Xin nói với các vị, không có hiệu quả. Tuyệt đối không phải bạn đi bái lạy th́ chân thật có thể tiêu tai được phước, làm ǵ dễ đến vậy ? Chúng ta nhất định phải hiểu đạo lư nhân quả. Tai nạn có nhân duyên của tai nạn, phước đức có nhân duyên của phước đức. Trồng nhân thiện nhất định được quả thiện, viễn ly tất cả nhân ác th́ bạn sẽ không gặp phải tai nạn. Nhân duyên quả báo là chân lư, chúng ta phải tin tưởng.

Người thế gian, đặc biệt là những quốc gia đang mở cửa, đời sống nhân dân giàu có, khi giàu có th́ tăng thêm ḷng tham sân si. Trước tiên là phải cầu sống lâu, cầu không già, Tần Thủy Hoàng, Hán Vơ Đế thời xưa cầu sống lâu không già, hiện tại nhân gian cũng đều đang mong cầu sống lâu không già, nhưng có thể cầu được hay không ? Tần Thủy Hoàng chết rồi, Hán Vơ Đế cũng chết rồi, chúng ta phải tin tưởng sanh ra th́ nhất định phải chết, ai có thể thoát được cửa này.

Xă hội hiện tại xem tướng, đoán mạng, xem phong thủy th́ làm ăn sẽ đặc biệt hưng vượng. Tướng mạng phong thủy có hay không ? Đích thực là có, tướng mạng là số, phong thủy là hoàn cảnh cư trú. Người thông thường không có sức định, không có trí tuệ, tâm tùy cảnh chuyển, cho nên hoàn cảnh cư trú ảnh hưởng tâm trạng của họ, vậy th́ hoàn cảnh cư trú không thể không xem trọng, không thể không chọn lựa. Nhưng tốt xấu của phong thủy th́ tuyệt nhiên không hề nhất định, ông này ở đây th́ rất tốt, ông kia ở đây lại chưa hẳn thích hợp. Do đây mà biết, hoàn cảnh cư trú đều do nhân của người mà khác nhau, nó không cố định.

Ngạn ngữ có câu “Người phước ở đất phước, đất phước người phước ở”, lời nói này rất có đạo lư. Nếu bạn chân thật có phước báu, phong thủy nơi bạn ở vốn dĩ không tốt, nó tự nhiên sẽ đổi tốt, cảnh tùy tâm chuyển, việc này Phật đă nói. Cảnh chính là phong thủy, là hoàn cảnh cư trú, tùy theo tâm chuyển. Chúng ta nương vào nguyên tắc này để xem hoàn cảnh địa cầu của chúng ta hôm nay, đại hoàn cảnh mà chúng ta đang cư trú. Tâm người hiện tại tham-sân-si-mạn đang gia tăng tốc độ, làm cho đại hoàn cảnh của chúng ta vốn dĩ tốt đẹp, nhưng hiện tại đă bị tàn phá, đây không phải là phong thủy tùy theo tâm chuyển hay sao ? Đại hoàn cảnh mà như vậy, th́ hoàn cảnh nhỏ cũng không ngoại lệ.

Kim Sơn Hoạt Phật là Pháp-sư Diệu Thiện, chùa Kim Sơn Trấn Giang đầu năm dân quốc, con người này khi c̣n ở đời, h́nh tướng của ngài gần giống Tế Công Trưởng lăo thời xưa, biểu hiện khùng khùng điên điên, nhưng lời Ngài nói, việc Ngài làm, chân thật là sự nghiệp Như Lai. Ngài đă từng có một đoạn nói đến việc đoán mạng :“Tiên sinh đoán mạng, ngay đến mạng của chính ḿnh cũng không biết th́ làm sao có thể biết được mạng của người khác”. Họ làm nghề xem tướng đoán mạng v́ muốn kiếm tiền sinh sống th́ họ làm ǵ đoán đúng được. Đoán mạng chuẩn xác chỉ có Phật Thích-Ca Mâu-Ni, ngài là bậc cao minh đoán rất chuẩn. Ngài kết luận, không nên tin tưởng mạng, phải tin tưởng nghiệp, v́ mạng do nghiệp tạo. Không làm việc ác, mạng của bạn liền sẽ tốt; c̣n bạn không ngừng tạo ác, vẫn hại người lợi ḿnh mà c̣n mong mạng ḿnh tốt, làm ǵ có đạo lư này ? Chúng tôi trong lúc giảng kinh cũng thường hay nhắc nhở đồng tu, hại người nhất định không thể lợi ḿnh. Chỉ cần bạn b́nh lặng quan sát từ lịch sử đến xă hội hiện đại, phàm hễ làm những việc hại người lợi ḿnh, đến sau cùng đều thất bại thê thảm, Phật pháp gọi là “báo ứng hiện đời”. C̣n quả báo đời sau th́ nhất định ở ba đường khổ, c̣n ǵ khổ hơn ?

Pháp-sư Diệu Thiện nói :“Chúng ta phải tin tưởng nghiệp, không cần lo nghĩ đến vấn đề vận mạng”, không cần thiết phải xem tướng đoán mạng cũng không cần phải xem phong thủy ! Chúng ta cần phải ghi nhớ điều này !  Nếu trong hoàn cảnh cư trú này, bạn cảm thấy rất tốt th́ đó chính là phong thủy tốt, thích hợp với bạn. Bày trí giường đơn, bàn ghế sao cho thích hợp, bạn cảm thấy thoải mái chính là phong thủy tốt đối với bạn. Mời thầy xem phong thủy rồi bày trí theo ư ông ta, như vậy vận mạng của bạn đă bị người khác sắp xếp, khống chế. Bạn sẽ thật tội nghiệp. Tuy bạn có tiền của, có địa vị, có phú quư, nhưng bạn ngu si, mặc t́nh cho người khác bỡn cợt. Đây là người đáng thương mà Kinh Phật đă nói. Phật dạy người phải đội trời đạp đất, dạy người tự làm chủ thể, không nên nghe người sắp đặt. Những mê tín này nhất định phải phá trừ.

8. Vấn đề thứ tám : đại chúng trong xă hội thường hiểu lầm và hoài nghi việc niệm Phật cầu sanh thế giới Tây phương Cực-Lạc !

Người niệm Phật đương nhiên không hoài nghi đối với những ǵ Phật đă nói. Phật dạy người không vọng ngữ, vọng ngữ là đại giới của nhà Phật th́ Phật làm ǵ vọng ngữ. Phật nói thế giới Tây phương Cực-Lạc nhất định là chân thật. Hiện tại khoa học kỹ thuật phát triển cũng phát hiện ra vô lượng tinh cầu trong thái hư không. Hiện nay cũng thường nghe nói đến người ngoài hành tinh, người ngoài thái không, sự việc này càng ngày càng nhiều. Địa cầu của chúng ta có người ở, lẽ nào tinh cầu khác không có người ở. Thế giới Tây phương Cực-Lạc chẳng phải là một tinh cầu khác hay sao, đều là việc rất có thể. Đấy là chúng ta dùng khoa học cạn cợt nhất để trắc nghiệm, nó nhất định không phải giả. Nếu dùng khoa học kỹ thuật cao hơn để nói sẽ làm chúng ta càng dễ dàng lư giải. Khoa học gia chứng minh không gian là đa duy thứ, chúng ta gọi không gian ba chiều, bốn chiều. Chúng ta hiện đang ở trong không gian ba chiều, người ở trong không gian bốn chiều được xem như thần tiên. Khoa học gia chứng thực chí ít có đến mười một chiều không gian, cách nói này rất thú vị, rất giống trong Phật pháp nói về mười pháp giới. Do đây mà biết, nhà Phật nói mười pháp giới thực tế chính là không gian duy thứ không đồng nhau. Duy thứ càng cao, hoàn cảnh sinh hoạt của cảnh giới đó càng thù thắng, không gian sinh hoạt của họ càng rộng lớn. Đến duy thứ cao nhất, cứu cánh viên măn th́ không gian hoạt động của họ là tận hư không khắp pháp giới, khoa học gia cũng phát hiện ra.

V́ sao h́nh thành vấn đề này, họ tuyệt nhiên không biết; làm thế nào đột phá, họ cũng không biết. Nhưng Kinh Phật lại nói rất thấu triệt, mười pháp giới h́nh thành do vọng tưởng phân biệt chấp trước. Vậy làm thế nào để đột phá ? Dùng công phu thiền định, đem không gian trùng trùng vô hạn độ này đột phá, sau đó bạn mới thấy được chân tướng của vũ trụ nhân sanh, đó gọi là pháp giới nhất chân, tương ưng với khoa học gia đă phát hiện.

9. Vấn đề thứ chín : trong pháp môn Tịnh độ, lại có người hỏi rằng :“Đại đức xưa đă nói ‘sanh th́ nhất định sanh, đi th́ thật không đi’, vậy rốt cuộc có văng sanh hay không ?”

Sanh th́ nhất định sanh, đi th́ thật không đi, v́ sao thật không đi ? Bạn tuyệt nhiên không hề rời khỏi pháp giới này! Chúng ta có thể dùng ti vi làm thí dụ, màn h́nh ti vi chỉ lớn như vầy, qua màn h́nh, bên này là Đài Loan, bên kia là nước Mỹ, bạn thấy một người mang hành lư lên máy bay đến nước Mỹ. Cảnh giới nước Mỹ hiện ra trước mặt, nhất định anh ta đă đi đến nước Mỹ, nhưng anh ta không hề rời khỏi màn h́nh. Cũng vậy, kênh đài hiện tại của chúng ta là thế giới Ta-bà, khi vừa chuyển kênh liền đến cơi nước Phật A-Di-Đà ở thế giới Cực-Lạc, nhưng thực ra vẫn ở b́nh diện này, vẫn trong pháp giới này. Cho nên từ nhất chân pháp giới mà nói, không có đến đi. Từ văng sanh mà nói, chuyển đổi kênh là thật, mười pháp giới là mười kênh không giống nhau. Tuy kênh đài không giống nhau, nhưng đều trong pháp giới này, cũng đều đang ở trong một màn h́nh, không hề rời khỏi. Bạn từ thí dụ này mà thể hội. Bạn đối với chân tướng sự thật ít nhiều có thể lư giải đôi chút, sau đó mới biết ḿnh có muốn văng sanh Tịnh độ hay không. Chỉ có sanh đến thế giới Tây phương Cực-Lạc, chúng ta mới có thể đột phá được thời không duy thứ vô hạn. Việc này khoa học gia măi đến hôm nay vẫn không cách ǵ đột phá. Họ biết nếu có thể tiến vào không gian bốn chiều, năm chiều, liền có thể trở về quá khứ hay tiến vào vị lai. Vậy th́ dục giới thiên, sắc giới thiên, vô sắc giới thiên, duy thứ của họ không giống với duy thứ chúng ta. Ở trong cảnh giới đó, họ biết được quá khứ cũng biết được vị lai. Họ có thể hóa thân ở đời quá khứ cũng có thể ứng thân đến đời vị lai, thật được đại tự tại. Cho nên trùng trùng cảnh giới mà Kinh Phật nói, dần dần được khoa học hiện đại chứng thực. Tuy nhiên khoa học không biết được lẽ đương nhiên của nó, cũng không biết dùng phương pháp ǵ có thể đột phá, có thể tiến vào cảnh giới này. Chỉ có Phật pháp cao minh, hiểu rơ lẽ đương nhiên, cũng biết dùng phương pháp ǵ để đột phá, chúng ta nhờ đó liền khẳng định đối với thế giới Tây phương Cực-Lạc. Vậy văng sanh thế giới Tây phương Cực-Lạc có tiêu cực không ? Không tiêu cực ! Bạn nói nó tiêu cực, nó trốn tránh hiện thực, là hoàn toàn sai lầm, đây là thiên kiến. Phật đặc biệt nói rơ Kinh Vô-Lượng-Thọ không phải Kinh tiểu-thừa mà là Kinh đại-thừa. Không những đại-thừa mà đại-thừa ngay trong đại-thừa, nhất-thừa ngay trong nhất-thừa, là kinh điển cứu cánh liễu nghĩa, nên mới được mười phương tất cả chư Phật tán thán, tất cả chư Phật tuyên dương, đây là chân tướng sự thật, làm ǵ trốn tránh hiện thực.

Đến thế giới Tây phương Cực-Lạc không phải đi hưởng thụ, nếu bạn vẫn c̣n ư niệm hưởng lạc th́ cái vọng tưởng này khiến bạn không thể đi. Điều kiện đi thế giới Tây phương là “Tâm tịnh thời cơi nước tịnh”. Niệm Phật là phương pháp cần phải đạt đến tiêu chuẩn nhất định mới có thể văng sanh. Tiêu chuẩn là tâm thanh tịnh, dùng phương pháp niệm Phật tu tâm thanh tịnh mới có năng lực và tư cách văng sanh Tịnh độ. Tâm không thanh tịnh, vọng tưởng phân biệt chấp trước vẫn tồn tại, th́ mỗi ngày bạn niệm mười vạn Phật hiệu cũng không ích ǵ, người xưa nói “đau mồm rát họng chỉ uổng công”. Cũng giống như người đọc sách, học tập rất dụng công, báng mạng mà học, khi thi th́ không đạt tiêu chuẩn, vậy có ích ǵ. Cho nên phải chú trọng hiệu quả thực tế. Tiêu chuẩn Kinh Di-Đà là “Nhất tâm bất loạn”, chúng ta dùng phương pháp “Chấp tŕ danh hiệu” để đạt đến nhất tâm bất loạn !

Sanh đến thế giới Tây phương Cực-Lạc là cầu học, đến nơi đó để hoàn thành học vị, để làm Phật, đồng nghĩa thành tựu trí tuệ cứu cánh viên măn, học đến bản lĩnh đầy người, không ǵ không biết, không ǵ không thể. Sau đó bạn mới có thể ở hư không khắp pháp giới, giúp đỡ tất cả chúng sanh khổ nạn, gọi là Phật độ chúng sanh, giúp chúng sanh phá mê khai ngộ, hiểu rơ chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Đây là giá trị chân thật, nhất định phải niệm Phật cầu sanh thế giới Cực-Lạc. Lời nói này tuyệt đối không gạt người, là lời tâm huyết của tất cả chư Phật hết mực chân thành khẩn thiết khuyên dạy chúng ta. Phật không có yêu cầu ǵ, không cần chúng ta phải cung kính Phật cũng không cần chúng ta cúng dường, Phật vô điều kiện. Phàm hễ giả dối lừa gạt người là họ luôn có mục đích, luôn có ư đồ. Chư Phật, Bồ-Tát đối với tất cả chúng sanh không có bất cứ ư đồ ǵ, cũng không có bất cứ điều kiện ǵ, mỗi câu đều là lời chân thật.

KHAI  THỊ  PHÁP  MÔN  TỊNH  ĐỘ

 Phần 1 : Rộng Mở Tâm Lượng

Trong việc tu học Phật pháp, muốn tự nâng cao cảnh giới của chính ḿnh, có rất nhiều phương pháp. « Mở rộng tâm lượng » là một trong các phương pháp đó.

Trong đại-thừa kinh điển, chúng ta thấy các vị pháp thân đại sĩ, tức là những người đă minh tâm kiến tánh, tâm lượng của các Ngài rộng lớn như hư không, bao trùm cả pháp giới, v́ thế, cái nh́n của các Ngài đối với tất cả chúng sanh trong hư không và khắp pháp giới đều b́nh đẳng. Thế nào là b́nh đẳng ? Vô niệm là b́nh đẳng, c̣n có niệm là không b́nh đẳng. Phật trụ vô niệm.

Trong Kinh Kim Cang có câu : « Ưng vô sở trụ, sở trụ vô trụ » . « Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm », vô trụ tất cả là Phật trụ, mà vô trụ là vô niệm.

Chúng sanh trong chín pháp giới c̣n có chỗ để trụ. Ví như :

+ Chư Bồ-Tát trụ ở cảnh giới Lục Độ.               

+ Duyên-Giác trụ ở Nhân Duyên.                      

+ Thanh-Văn trụ ở Tứ Đế.                                 

+ Ngạ-quỷ trụ ở cảnh giới Tham.                            

+ Địa-ngục trụ nơi Sân.                                       

+ Súc-sinh trụ ở cảnh Si Mê.

Tâm của tất cả chúng sanh nầy đều c̣n chỗ để trụ, để dính mắc. Nói cách khác là tâm của chúng ta như thế nào, th́ cảnh giới của chúng ta như thế đó.

Phàm phu chúng ta muốn trụ nơi cảnh giới vô trụ của Phật, là điều không thể đạt được. Tuy nhiên, Phật thường dạy cho chúng ta một phương pháp vô cùng thù thắng và tiện lợi, để có thể dự vào cảnh giới vô trụ của các ngài. Đó là Pháp môn niệm Phật.

Bồ-Tát trụ ở nơi Lục độ ; chúng ta trụ nơi Phật trụ. Như vậy chúng ta được nâng cao hơn đẳng cấp của Bồ-tát, thế nhưng, tiếng niệm Phật của chúng ta phải tương ưng. Thế nào gọi là tương ưng ? Mỗi một tiếng niệm Phật, chúng ta phải trải ḷng từ bi của ḿnh đến với tất cả chúng sanh trong hư không và lan rộng đến khắp pháp giới. Mỗi tiếng niệm Phật đều v́ lợi ích chúng sanh, đều mang ḷng ban vui cứu khổ đến cho mọi loài.

Có người hỏi : « Tiếng niệm Phật của chúng ta thực tế có lan rộng đến hư không khắp pháp giới hay không ? » Khẳng định là có !

Trong Kinh Phật nói : « Tướng không rời tâm, tâm không rời tướng ». Cái chân tâm của chúng ta, nguyên gốc của nó rộng khắp hư không, trùm khắp pháp giới. Sở dĩ tiếng niệm Phật của chúng ta không ḥa nhập vào với hư không, là v́ chúng ta c̣n nhiều vọng tưởng, phân biệt và chấp trước làm chướng ngại bản năng tự nhiên của ḿnh. Nếu âm ba của tiếng niệm ḥa nhập với âm ba của tâm, tức chân tâm lan rộng vào hư không, tiến sâu vào khắp các pháp giới, cho dù chư Phật thuyết pháp ở xa xôi, bất luận nơi nào, một khi tâm đă lắng động, không c̣n chướng ngại chúng ta vẫn có thể nghe được âm thanh lời pháp của các Ngài rơ ràng, v́ tâm từ bi của các Ngài luôn trải rộng đến cơi Ta-Bà này của chúng ta, cũng như chúng sanh ở các pháp giới khác. Đây là sự thật, không hề hư dối.

Vậy th́ âm ba của Phật có thể rộng khắp, âm ba phàm phu của chúng ta cũng có thể rộng khắp, cho nên mở rộng tâm lượng trong pháp môn niệm Phật là một phương pháp rất vi diệu, rất đặc biệt thù thắng, có thể khiến phàm phu trong một kiếp được b́nh đẳng, được thành Phật.

Người thật sự biết niệm Phật, sự lợi ích, niềm an lạc mà họ đạt được, phàm phu chúng ta không thể nào hiểu thấu, mà họ cũng không thể giải thích rơ cho chúng ta, v́ có giải thích, chúng ta cũng không hiểu. Giống như ai uống nước, tự người đó biết nóng hay lạnh, mùi vị ngọt đắng ra sao vậy. Nguyên tắc thuyết pháp của chư Phật cũng thế ! Những điều chúng sanh có thể hiểu được, các Ngài mới nói ; nếu không hiểu được, tuyệt đối đều không nói.

Tóm lại, công phu niệm Phật có đắc lực hay không, chúng ta có thể thấy biết qua cảnh giới tâm lượng và sắc tướng của người đó.

Một khi công phu niệm Phật đắc lực rồi, chắc chắn trên gương mặt của chúng ta sẽ luôn tỏ ra niềm vui an lạc tự tại, trong đạo Phật gọi là pháp hỷ sung măn.

Chúng ta đọc kinh sách thường nghe những người tu hành chứng quả A La Hán, là hàng thánh đạt tới mức chánh định, thân tâm an ổn, không c̣n thối chuyển. Tất cả những người do công phu thiền định mà tâm không ô nhiễm chuyện buồn lo, thân xa ĺa cảnh vui khổ của thế gian, đều được chứng nhập vào cảnh giới tam ma địa, tức là cảnh giới không c̣n sanh diệt. Phàm phu chúng ta nếu c̣n một phẩm vô-minh chưa dứt đoạn muốn chứng vào cảnh giới cao cấp này, chỉ c̣n cách nương theo pháp môn tiện lợi nhất, đó là niệm Phật cầu sanh Tịnh độ.

Phần 2 : Pháp Môn Tha Lực

 

Chỉ cần sanh về thế giới Tây phương Cực-Lạc, chúng ta sẽ chứng cảnh giới tam ma địa. Tất cả cảnh bất sinh diệt này, sự chứng đắc này thật ra hoàn toàn không phải do công phu ở chính ḿnh, mà do một phần tha lực của Đức Phật A-Di-Đà hỗ trợ, cho nên pháp môn Tịnh độ c̣n gọi là pháp môn tha lực. Nói một cách rơ hơn, tự lực là năng lực của chính ḿnh, y theo lời dạy của chư Phật mà niệm Phật để có thể hàng phục được những tập khí.

Một khi công phu niệm Phật thành khối, nhờ sức gia tŕ của Phật A-Di-Đà, sanh về thế giới Cực-Lạc, vào được cảnh giới Tây phương gọi là tha lực.

Pháp môn nhị lực này là pháp môn duy nhất được chư Phật đề cập trong Tịnh độ tông. Ngoài sự chứng nhập cảnh giới tam ma địa, c̣n đạt nhất thiết Đà-La-Ni. Đà-La-Ni là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là tổng tŕ. Tổng là hợp tất cả các pháp. Tŕ là giữ, làm theo tất cả giáo lư của Phật. Nói theo danh từ hiện nay tổng tŕ Đà-La-Ni là toàn bộ nguyên tắc dạy chúng ta làm tất cả điều thiện, xa ĺa các điều ác.

Hôm nay chúng ta cùng nhau tụ về nơi này để niệm Phật, cũng có thể gọi là thực hành môn tổng tŕ Đà-La-Ni, bởi v́ suốt một ngày một đêm, chỉ duy nhất giữ câu A-Di-Đà-Phật. Tất cả những vọng niệm, suy nghĩ khác không c̣n nữa. Vọng niệm không c̣n, những việc ác không thể xảy ra, như vậy là xa ĺa tất cả ác. Một câu vạn đức hồng danh thiện pháp cao tột của thế gian và xuất thế gian, chúng ta chấp tŕ từng câu liên tiếp không ngừng, để tăng trưởng thiện căn, đó là tất cả điều thiện.

Mỗi tuần 1 ngày đến niệm Phật, niệm liên tiếp ba năm, công phu của chúng ta đáng nể phục lắm. Khi có th́ giờ rổi rảnh, mỗi ngày đều niệm Phật trong ṿng ba năm thôi, chúng ta sẽ thành Phật ngay. Bao nhiêu nghiệp tội trong bao nhiêu lượng kiếp đều dứt sạch. Trong quyển Văng Sanh Truyện, những người niệm Phật được văng sanh ngay trong kiếp hiện tại này của chúng ta thật nhiều vô số kể. Người niệm Phật văng sanh có nhiều h́nh thức : Có người đứng, có người ngồi tự biết trước giờ ra đi, không một chút bịnh hoạn, ra đi một cách vui vẻ tự tại, đẹp đẽ trang nghiêm. Kết quả văng sanh này đều do công phu niệm Phật chuyên cần.

Phần 3 : Giải Trừ Nghiệp Chướng

 

Pháp môn Tịnh độ, một pháp môn hiển bày bốn chữ tiện lợi dễ dàng một cách rơ rệt. Nếu quư vị không hiểu những lư luận trong kinh, cũng không thành vấn đề, vẫn có thể thành tựu. Nếu bảo không cần hiểu nghĩa lư trong kinh, chỉ một ḷng thành tâm niệm Phật, mà có thể thành tựu, vậy tôi vẫn phải giảng kinh thuyết pháp nữa để làm chi ? Sở dĩ tôi vẫn phải mỗi ngày thuyết giảng không ngừng, đem những lời hay ư đẹp của đức Thế Tôn ra nói là v́ mong quư vị hiểu, mong quư vị giác ngộ, bởi v́ quư vị đây không đủ phước báo, suốt ngày vọng tưởng, suy nghĩ lung tung. Vậy ai là người có đủ phước báo ? Là những người thật thà chất phác, suốt ngày chỉ ôm giữ một câu A-Di-Đà-Phật, việc ǵ cũng không nghĩ tưởng. Do đó công phu niệm Phật của quư vị có thể đến lúc không c̣n vọng niệm, chỉ c̣n một câu A-Di-Đà-Phật, th́ lúc đó tam tạng, mười hai bộ kinh điển mà Thế Tôn suốt 49 năm thuyết pháp đều là dư thừa, quư vị không cần đến đây nghe tôi giảng giải nữa.

Cho nên Phật độ chúng sanh có hai hạng người dễ độ : Một là những người thượng căn lợi trí. Vừa nghe qua liền thông đạt, liễu ngộ dứt sạch vọng niệm.

Hai là những người thật thà ngu dốt, họ không cần t́m hiểu nhiều. Bảo họ niệm Phật là họ cứ ngoan ngoăn, thật t́nh chấp tŕ, không nghĩ tưởng điều ǵ ngoài niệm Phật. C̣n loại Thứ ba là những người lưng chừng thích khiêng vác ôm đồm, t́m hiểu suy nghĩ lung tung. Quư vị biết không ? Chúng ta thuộc loại người thứ ba này đó, loại người nhiều rắc rối.

Cho nên đức Thế Tôn suốt trong 49 năm khổ nhọc mỗi ngày không ngừng nói pháp cũng v́ những người nhiều rắc rối như chúng ta. Ngài phải đem pháp ly ác giảng nói tỉ mỉ ra cho chúng ta, mong rằng sau khi quư vị đă hiểu rơ rồi th́ phải biết buông xả. Trên thế gian này, người biết buông xả, không có vọng niệm là người có đại phước báo ; tuyệt đối không phải có nhiều tiền tài, địa vị cao. Người có địa vị tiền tài chỉ được hưởng thụ đời sống vật chất độ vài ba năm, sau khi chết rồi sẽ ra sao ? Tam đồ lục-đạo phải chịu luân hồi, như thế có phải là phước đâu ? Nếu tâm không chút vọng tưởng, suốt ngày chỉ câu A-Di-Đà-Phật, người này chỉ vài năm sau là đă thành Phật được rồi. Hiểu được như vậy th́ quư vị mới biết công đức niệm Phật thật vô cùng thù thắng, không ǵ sánh bằng !

Đức Thế Tôn sở dĩ phải bày ra phương tiện nói ra ba thừa, chỉ v́ muốn dẫn độ chúng sanh mà thôi. Mục đích duy nhất của Ngài là mong cho chúng ta một đời có thể thành Phật. Có người hoài nghi rằng :“Tôi rất ngu si, chậm hiểu, nghiệp chướng lại sâu dày, có thể thành Phật được không ?”. Trong kinh điển, Phật thường nói :“Chỉ cần một câu danh hiệu Phật có thể tiêu trừ 80 ức kiếp sanh tử trọng tội !”. Chúng ta thử nghĩ xem : Suốt một ngày một đêm ở niệm Phật đường, chúng ta đă niệm được rất nhiều tiếng, vậy thử tính xem tội chướng của chúng ta đă tiêu trừ được biết bao nhiêu rồi. Điều này chắc thật không sai ! V́ lời Phật nói không hề hư dối, chắc chắn có hiệu quả tốt, không thể nghĩ bàn. Thế nhưng, v́ sao nhiều người niệm Phật suốt một ngày đêm mà nghiệp chướng vẫn c̣n đầy ? Bởi v́ nghiệp chướng của người này quá nhiều. Do đó, công đức niệm Phật một ngày đêm dù giúp họ tiêu trừ đi rất nhiều, mà chưa dứt hẳn. Cho nên cần phải mỗi ngày đều niệm Phật, mỗi ngày giảm bớt đi nghiệp chướng. Phật dạy chúng ta rằng :“Năng lực quan trọng nhất để giải trừ nghiệp chướng trong lúc niệm Phật là không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn”. Với ba yếu tố này, năng lực của không xen tạp mạnh nhứt. Nếu chúng ta giữ được liên tục, không gián đoạn trong 3 năm, cho dù nghiệp chướng sâu dày bao nhiêu của vô lượng kiếp đều có thể giải trừ hết. Làm sao biết được không c̣n nghiệp chướng ? Hăy nh́n lúc quư vị văng sanh, có thể ra đi bằng cách ngồi hoặc đứng rất là tự tại. Sau khi về cơi Tây phương Cực-Lạc, không phải trụ ở cảnh giới phàm thánh đồng cư, cũng không phải trụ ở tứ độ văng sanh mà dự vào hạng thượng phẩm văng sanh.

Câu danh hiệu Phật giải trừ nghiệp chướng thật là bất khả tư ngh́. Cho nên ngài Từ Vân Quán Đảnh Pháp-sư, trong lời chú giải của bộ Kinh Vô Lượng Thọ nói :“Chúng sanh nào từ vô lượng kiếp tạo tội, tạo nghiệp cực ác, cực sâu dày, bao nhiêu kinh luận, tất cả các sám pháp đều không thể sám trừ được, cuối cùng vẫn c̣n một phương pháp để có thể cứu văn, đó là phương pháp niệm Phật”. Cho thấy công đức niệm Phật thật là to lớn, thù thắng vô cùng !

Phần 4 : Pháp Môn Tịnh Độ

 

Trong kinh điển chỉ dạy rất nhiều phương pháp để chúng ta đi vào, nhưng không phải phương pháp nào cũng thích hợp với chúng ta cả. Muốn tu học phải biết tự nhận rơ căn tánh của ḿnh, tŕnh độ lư giải của ḿnh. Nói theo danh từ hiện nay là tŕnh độ hiểu biết, kèm theo khả năng trí nhớ, v́ hai yếu tố này có quan hệ mật thiết với hoàn cảnh sống và việc làm của chúng ta. Cho nên từ trong rất nhiều phương pháp khác nhau, chúng ta phải chọn lấy một phương pháp phù hợp nhất với điều kiện của ḿnh. Có như vậy việc tu học mới mong đạt kết quả dễ dàng.

Tuy nhiên chúng ta tự ḿnh rất khó biết phải hạ thủ công phu từ đâu. Làm cách nào để lựa chọn phương pháp ? Phật nói đến 8 vạn 4 ngàn pháp môn (84.000), làm sao biết được pháp môn nào là thích hợp ? Một khi lựa chọn không đúng pháp môn, th́ chẳng những dụng công nhiều mà kết quả lại ít, sự tu học khó nhọc ở thế gian này cũng chẳng được một phần công đức nào, điều này là thật.

Chính bởi t́nh trạng như vậy, cho nên đức Thế Tôn mới v́ chúng sanh thời mạt pháp này chỉ bày ra một con đường. Đó là Pháp môn Tịnh-độ. Pháp môn Tịnh độ cũng là pháp môn của chư Phật giúp chúng ta lựa chọn, thế nhưng pháp môn này cũng có rất nhiều phương pháp tu học. Tất cả chư Phật đều nhất khẩu đồng thanh chỉ dạy và giúp chúng ta lựa chọn phương pháp tŕ danh niệm Phật.

Trong Kinh A Di Đà dạy chúng ta tŕ danh niệm Phật. Kinh Vô Lượng Thọ cũng dạy chúng ta tŕ danh niệm Phật. Trong Quán Kinh nói nhiều hơn. Ngoài tŕ danh niệm Phật ra, c̣n quán tưởng niệm Phật, quán tượng niệm Phật. Như vậy chúng ta thấy rơ ràng trong ba bộ Kinh A Di Đà, Vô Lượng Thọ và Quán Kinh, Phật đều khuyên chúng ta giữ phương pháp chấp tŕ danh hiệu Phật. Chính v́ thế chúng tôi lựa chọn và đề xướng phương pháp này.

Qua phương pháp tŕ danh niệm Phật, những người được lợi ích rất nhiều, kết quả văng sanh vô số kể. Nếu theo phương pháp này mà chân chính tu hành sẽ rất cận kề với Hoa Nghiêm Tam Muội, lại hội đủ nguyên tắc hiện thực Bách Thiên Tam Muội. Thật là một pháp môn không thể nghĩ bàn, một pháp môn đơn giản, dễ dàng, chắc chắn, mau chóng. Chỉ cần buông xả vạn duyên, giữ chặt câu Phật hiệu & niệm tới.

Một số người niệm Phật, công phu không được đắc lực, v́ không buông xả được vạn duyên, tự tạo cho ḿnh một chướng ngại trầm trọng. Chướng ngại này, người khác không thể nào giúp. Chư Phật, Bồ-Tát cũng không thể giúp. Nhất quyết phải do chính bản thân ḿnh chịu buông xả. Bất luận điều ǵ không nên chấp giữ trong ḷng, chỉ giữ một câu Phật hiệu : Nam mô A-Di-Đà-Phật. Trong tâm nương theo Phật mà niệm Phật, hiện tiền, tương lai nhất định thành Phật !

Phần 5 : Tự Hành Hóa Tha

 

Chư cổ đức thường nói : « Phát Bồ-Đề tâm nhất hướng chuyên niệm câu A-Di-Đà-Phật là một pháp môn vô cùng thù thắng, mau chóng và chắc chắn ». Mau chóng ở chỗ nào ? Trong Quán Kinh nói thị tâm thị Phật, có nghĩa tâm này tức là Phật. Thị tâm thị Phật, có nghĩa tâm này làm Phật.

Hai câu này vô cùng quan trọng, và gồm thu vô lượng vô biên các pháp môn mà chư Phật đă nói. Thị tâm thị Phật, nói về Lư, nghĩa là tất cả chúng sanh đều có tâm, tâm của chúng sanh hữu t́nh là Phật tâm. C̣n tâm của chúng sanh vô t́nh th́ gọi là pháp tâm. Phật tâm và pháp tâm là một, chẳng phải hai. Thế nhưng một tâm sao lại biến thành hai h́nh tướng khác nhau ? Bởi v́ một bên có tư có tưởng nên trở thành hữu h́nh. Ngược lại, th́ biến thành vô t́nh chúng sanh.

Trong Pháp Tướng Tông nói rất rơ : « Tất cả chúng sanh bản lai là Phật ». Vậy nguồn gốc đă là Phật, hiện giờ lại phát tâm niệm Phật, làm Phật, có lư nào lại không thành Phật ! Do đó vấn đề then chốt để làm Phật là phải niệm Phật, v́ niệm Phật là phương pháp chính yếu, phương pháp trực tiếp. Câu hỏi đặt ra là v́ sao bảo chúng ta niệm Phật A-Di-Đà, mà không niệm danh hiệu các vị Phật khác ? Chúng ta đọc Kinh Vô Lượng Thọ sẽ thấy rơ ràng là Phật A-Di-Đà là Quang Trung Chí Tôn, Phật Trung Chi Vương. Một vị Phật vĩ đại với quả đức vô cùng mỹ măn cứu cánh và thiết thực, mà tất cả mười phương chư Phật đều đồng thanh tán thán.

Thưa quư vị, tất cả pháp đều do tâm nghĩ tưởng đến Phật A-Di-Đà, niệm Phật A-Di-Đà, chúng ta sẽ là Phật A-Di-Đà. Lư do khuyên bảo quư vị không nghĩ tưởng điều ǵ ngoài sự nhất tâm chuyên niệm A-Di-Đà-Phật là như vậy.

Hơn nữa trong Kinh Đại Tạng đă nói rất rơ ràng đầy đủ là « nhất giải nhất thiết giải » . Nghĩa là khi ta niệm một danh hiệu Phật A-Di-Đà, là niệm đủ mười phương ba đời tất cả chư Phật, do đó đừng lo ngại hay phân biệt, chấp trước rằng, niệm Phật này là bỏ Phật kia. Không phải thế !

Sau khi chúng ta đă nhận định rơ ràng sự thật được rồi, kế tiếp là phải vững tâm bền chí dũng mănh dựa vào Phật thất trong niệm Phật đường. Phương pháp thường được nhắc đến trong niệm Phật đường là tự hành hóa tha, nghĩa là tự ḿnh tu hành và lợi lạc độ cho người khác, do đó phải vào niệm Phật đường, cần phải cùng nhau tu tập.

Phần 6 : Niệm Phật Đối Trị Vọng Tưởng

 

Niệm Phật phải lấy kinh hành làm chính. Khi nào chúng ta mỏi th́ ngồi xuống nghỉ ngơi. Giờ giấc ngủ nghỉ cố giảm thiểu tới mức tối đa, bởi v́ ngủ là hôn trầm. Người nào ngủ nhiều, chứng tỏ người đó c̣n nhiều hôn trầm. Hôn trầm là lạc vào vô-minh, nhiều vọng tưởng, lạc vào trạo cử. Không riêng ǵ trong lúc niệm Phật, khi làm việc mà hôn trầm, hoặc trạo cử đều bị chướng ngại. Trong nhà Phật gọi hai thứ chướng ngại này là : Hôn trầm và trạo cử.

Trạo cử là tâm xao xuyến, không định, bị nhiều vọng tưởng chi phối. Hôn trầm là u mê, không sáng suốt, ngủ gục.

B́nh thường, ta không thấy có vọng niệm, nhưng khi ngồi yên xuống, vọng niệm mới nổi lên rất nhiều. Có người cho là do niệm Phật mà có. Thưa quư vị, không phải như thế ! Không phải do niệm Phật mà sanh nhiều vọng niệm đâu ! Thực tế trong lúc b́nh thường, chúng ta đă có rất nhiều vọng niệm rồi, nhưng chúng ta không để ư đó thôi. Khi ngồi yên lặng xuống niệm Phật, muốn thu nhiếp tâm lại, mới phát giác rơ ràng như thế. Với loại chướng ngại này, Phật đă chỉ cho chúng ta hai phương pháp đối trị :

Thứ nhất là dùng phương pháp chỉ tịnh để đối trị vọng tưởng, nghĩa là trụ ở một chỗ, hoặc trụ nơi danh hiệu Phật, hay niệm ở trong tâm cũng được, nếu không niệm thành tiếng. Cũng có thể nghe người khác niệm, chỉ cần dụng tâm chuyên nhất, vọng niệm tự nhiên tan biến. Tuyệt đối không nên tạo tác thêm vọng niệm, nghĩa là đừng nên có ư nghĩ miễn cưỡng dập tắt vọng tưởng, nếu không sẽ có vọng tưởng tan theo vọng tưởng. Do đó dù có tưởng nhiều bao nhiêu cũng mặc kệ, đừng để ư đến làm ǵ. Hăy dồn hết tinh thần ư chí, tập trung vào câu danh hiệu Phật, hoặc tập trung vào quán tưởng, quán tượng. Quán tưởng điều ǵ đây ? Tưởng h́nh Phật. Hai mắt nhắm lại nghĩ đến h́nh ảnh của Phật, đến tướng hảo của Phật. Tóm lại cần phải tập trung tinh thần, ư chí mới có thể điều phục được vọng tưởng. Hầu hết tất cả các nguyên tắc dụng công vào nhằm một đích tiêu trừ vọng tưởng, hôn trầm, tạp niệm. để hồi phục lại bản tánh giác ngộ của ḿnh. Nói chung, trong nhà Phật bất luận sự dụng công nào đều hy vọng đạt được 3 mục đích này.

Phương pháp thứ hai là đối trị hôn trầm. Nếu trong lúc ngồi niệm Phật bị hôn trầm, tốt hơn hết hăy đứng lên lạy Phật. Lạy Phật và kinh hành niệm Phật là phương pháp đối trị hôn trầm rất có hiệu quả. Lạy Phật làm cho tinh thần tỉnh thức. Trong lúc lạy Phật, điểm đặc biệt cần lưu ư là lạy Phật để sám hối, bởi v́ nghiệp chướng, tập khí của chúng ta rất là nặng nề. Cho nên trong niệm Phật đường, nhất là người sơ học nên mỗi ngày đạt tiêu chuẩn trên 300 lạy là rất tốt, rất có lợi.

Chúng ta thường nghe trong đại-thừa kinh điển nói rằng : « Tu hành trong thời mạt pháp, niệm Phật là pháp môn thù thắng nhứt » . Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni bày nói 8 vạn 4 ngàn pháp môn, nói vô lượng pháp môn, đó không phải là bổn ư của ngài, chỉ v́ ứng cơ thuyết pháp để dẫn độ chúng sanh mà thôi !

Phần 7 : Văng Sanh Tây Phương Cực-Lạc

 

Trong Văng Sanh Truyện chúng ta thấy có rất nhiều người công phu niệm Phật được văng sanh tự tại, biết trước giờ giấc ra đi, không một chút bịnh hoạn, gương mặt lại tươi đẹp hơn b́nh thường. Nhiều người không hiểu lại cho rằng niệm Phật mới ba năm là văng sanh, là phải chết. Ai da ! Tôi sợ lắm ! Thôi ! thôi đừng bảo tôi niệm Phật nữa ! Những người có ư nghĩ như vậy, v́ họ không hiểu được ư nghĩa giá trị cao đẹp của sự văng sanh, nên mới bị những suy nghĩ tham sống sợ chết, luyến tiếc trần cảnh, phải chịu trôi lăn măi trong lục đạo luân hồi.

Pháp môn niệm Phật không có sanh tử. Văng sanh không phải là chết. Văng sanh là sống mà ra đi, c̣n chết là không thể văng sanh, cho nên pháp môn này c̣n được gọi là pháp môn không sanh không diệt. Bởi v́ trong lúc văng sanh, quư vị sẽ tỉnh táo và thấy Phật tới rước, rồi theo Phật ra đi, lúc đó cái xác tạm bợ của thế gian này không c̣n dùng nữa. Sau khi lên đến cơi Tây phương Cực-Lạc, quư vị sẽ được thân tướng trang nghiêm đẹp đẽ y như Đức Phật A-Di-Đà. Như vậy là tuyệt đối không phải là chết, cho nên tôi thường nói với quư vị rằng pháp môn này là pháp môn không già, không bịnh, không chết. Quư vị hăy yên tâm dừng bước, lắng ḷng, nhất hướng mà chuyên niệm. Tôi nói đây là sự thật, chẳng phải dối gạt quư vị để làm ǵ. Chỉ cần quư vị chuyên tâm niệm Phật, tới lúc tâm được thanh tịnh, th́ tất cả chuyện khổ đều không c̣n nữa. Gương mặt lúc nào cũng tự tại vui tươi. V́ vui tươi nên không già.

Người xưa có câu : « Ưu tư khiến cho người mau già » . Lo buồn khiến quư vị rất dễ lăo hóa. Hiện giờ chúng ta c̣n đang mang cái nghiệp báo thân này, sống chết không một chút tự do. Những lúc khổ quá mà thọ mạng chưa hết, muốn chết mà vẫn phải sống ; đến khi có phước báo nhiều rồi muốn sống thêm vài năm hưởng thụ, nhưng thọ mạng đă dứt, chừng đó muốn sống thêm vẫn phải chết. Do đó khi quư vị phát tâm niệm Phật, hoặc vào niệm Phật đường niệm Phật, thân tâm thế giới vạn duyên bên ngoài, tất cả đều buông xả hết, chỉ cần câu hồng danh Nam mô A-Di-Đà-Phật, với niềm vui đạo hạnh tràn ngập trong ḷng, đó gọi là pháp hỷ sung măn.

Sự chuyên cần tu tập đến lúc công phu thành khối, quư vị sẽ không bị ràng buộc bởi cái khổ, cái bệnh, già và chết, chừng đó sanh tử tự tại, muốn ra đi lúc nào tùy ư, muốn ở lại thế gian sống thêm vài ba năm nữa cũng được, lúc này cái sống của quư vị hoàn toàn mang ư nghĩa cao đẹp, và tự biết ḿnh sẽ phải làm những điều ǵ.

Người đạt tới mức sanh tử tự tại là người hội đủ phước báo lên thế giới Tây phương để hưởng thụ, nhưng họ không ra đi mà t́nh nguyện ở lại v́ xét thấy c̣n rất nhiều người có duyên với ḿnh, ḿnh phải giúp đỡ họ, phải độ cho họ, hy vọng có thể dẫn dắt thêm nhiều người cùng nhau về Tây phương.

Lư do sống chính đúng là như thế. Tuyệt đối không phải v́ tham sống sợ chết, hay sống để hưởng thụ ở thế gian này. Thật ra sự hưởng thụ trên thế gian này làm sao sánh bằng thế giới Cực-Lạc ở Tây phương. Cái mà chúng ta cho là đẹp và sang trọng nhất, đối với người ở Tây phương Cực-Lạc, họ thật không màng đến, bởi v́ nhà cửa của họ là thất bảo, cung điện. Sàn nhà toàn bằng lưu ly, cẩm thạch, đường đi trải bằng vàng, thức ăn chỉ cần nghĩ đến liền hiện ra, đồ đạc mọi thứ đều do tâm nghĩ tưởng mà hiện h́nh, do tập khí ở thế gian nên có lúc khởi niệm ăn uống, đến khi giác ngộ lại, thức ăn liền biến mất. Cho nên nhà cửa ở cơi Tây phương Cực-Lạc trống không, sạch sẽ vô cùng, và không cần có nhà bếp. Quư vị thấy cuộc sống như vậy có sung sướng tự tại hay không ?

C̣n chúng ta đây, đồ đạc chất chứa đầy nhà, muốn dọn dẹp cho gọn gàng sạch sẽ cũng phải mất nhiều th́ giờ và phiền phức vô cùng. Cho nên người niệm Phật đến khi công phu thành tựu rồi, nếu xét ḿnh không đủ duyên hóa độ chúng sanh ở thế gian nầy, họ đều mong sớm lên Tây phương Cực-Lạc để hưởng phước. Sau khi lên đến thế giới Cực-Lạc rồi, mỗi ngày được thấy Phật, được cúng dường mười vạn ức chư Phật. Trong Kinh A-Di-Đà Phật nói mười vạn ức Phật, thực tế quư vị có thể cúng dường vô lượng hằng hà sa số Phật. Sở dĩ Ngài nói như vậy v́ Phật rất từ bi, Ngài biết sự tỉnh thức của chúng sanh c̣n rất hạn chế, lên đó rồi mà đôi lúc c̣n khởi tâm nghĩ nhớ về ngôi nhà cũ và những người thân ở thế gian, do đó Ngài mới phương tiện nói cúng dường con số ít hơn thật tế như vậy, và bảo chúng ta có thể trở lại thăm thế gian bất cứ lúc nào đều có thể được.

Thế giới Tây phương Cực-Lạc trang nghiêm đẹp đẽ, đi đến đâu cũng có những thành tựu tốt đẹp như thế, v́ sao chúng ta không tranh thủ đi sớm ? Một pháp môn có thể thành tựu dễ dàng như vậy, đối với các Bồ-tát thành tựu ở những pháp môn khác không nhập vào cảnh giới này đều cho là một pháp môn khó tin, khó hiểu. Cũng như chúng ta nói với mọi người rằng : “Niệm Phật đường là nơi rất tốt, rất thù thắng để tu tập”. Họ nghe qua dễ ǵ tin ngay, nhưng sau vài ngày đến đây niệm Phật rồi họ mới chịu tin. Một việc nhỏ như vậy ở thế gian này, mà người đời c̣n không hiểu, không tin được, c̣n nói làm chi đến cảnh giới thù thắng viên măn ở Tây phương Cực-Lạc xa xôi.

Từ chuyện nhỏ suy rộng đến chuyện lớn, chúng ta có thể nhận thức được phần nào để tăng trưởng thêm niềm tin và thiện căn của ḿnh, hầu đem hết tâm nguyện của ḿnh ra niệm Phật, cầu sanh Tịnh độ, chắc chắn sẽ được thành tựu !

Phần 8 : Tri Ân Báo Ân

 

Hôm nay có vị đồng tu đưa ra câu hỏi : « Làm cách nào để siêu độ thân bằng quyến thuộc của ḿnh ? » Cho thấy đây là một vấn đề quan trọng, được nhiều người quan tâm đến. Những người đă chết, niềm mong mỏi tha thiết duy nhất của họ là trông nhờ vào sự giúp đỡ của con cháu. Do đó con cháu cần phải tu học Phật Pháp, theo đúng phương pháp của Phật đă dạy để tu hành, đây là cách thức giúp đỡ có hiệu quả nhất.

Nhưng trong Phật Pháp có 8 vạn 4 ngàn pháp môn, mà pháp môn tŕ danh niệm Phật là phương pháp dễ tu và mau chóng đạt được kết quả nhất. Nếu chúng ta thật sự phát tâm muốn cứu thân bằng quyến thuộc vĩnh viễn xa ĺa ác đạo, th́ chúng ta phải mạnh dạn bước vào niệm Phật đường, chân thật niệm Phật, đồng thời phải có tâm kiên cố.

Trong cuộc sống dầu có nhiều bận rộn, một tuần chúng ta phải đến niệm Phật đường một ngày. Niệm Phật v́ ai ? V́ giúp đỡ thân bằng quyến thuộc hiện kiếp, cũng như thân nhân nhiều đời nhiều kiếp đă qua. Công đức này thật là to lớn vô cùng. Hiện nay trong niệm Phật đường của chúng ta, mỗi tuần niệm Phật một ngày (24 giờ). Một ngày như vậy, chúng ta hăy buông xả thân tâm vạn duyên thế giới bên ngoài, dùng tấm ḷng chân thành thanh tịnh từ-bi, đồng thời với tâm niệm báo ân để đến niệm Phật. Được như thế, việc niệm Phật của chúng ta mới mong kết quả tốt, và nhất là đối với ông bà, tổ tiên, cha mẹ đă quá cố của chúng ta sẽ được vô cùng lợi lạc, và công đức của chúng ta cũng thật là to lớn. Trong đây có người thắc mắc :«Làm sao biết được thân bằng quyến thuộc lúc nào thoát khỏi ác đạo ?» - Xin thưa rằng : Ngay lúc quư vị phát tâm chân thành niệm Phật, họ lập tức thoát khỏi ác đạo. Bởi v́ việc làm của quư vị chân thật không giả dối, th́ liền được cảm ứng, chứ không phải chờ đến khi quư vị niệm Phật đến lúc công phu của quư vị thành khối họ mới được siêu thoát. Tuy nhiên nếu công phu của quư vị thành khối, nghĩa là tâm không xen tạp, không gián đoạn, có thể gọi là chứng tiểu quả, th́ phước báo của họ sẽ được sanh lên thượng thiên đạo, tức là Trời, Người, A-tu-la.

Trường hợp công phu niệm Phật của quư vị không ngừng nâng cao, th́ thân bằng quyến thuộc của quư vị sẽ không bao giờ trở lại ác-đạo. Đến đây quư vị đủ hiểu rơ hai mặt lư và sự của công đức niệm Phật, rồi từ đây quư vị sẽ tự biết ḿnh nên làm thế nào.

Khi phát tâm đền công ơn sâu dày đối với cửu-huyền thất-tổ, thân bằng quyến thuộc, th́ pháp môn niệm Phật là điều rất tốt, tuy nhiên nếu không có ngoại duyên hỗ trợ, và v́ nghiệp chướng tập khí của ḿnh, th́ công phu không được đắc lực. Một niệm Phật đường chân chính là một tăng thượng duyên giúp chúng ta tu hành. Duyên này rất thù thắng. Hôm qua có một vị đồng tu người Mỹ đến nói với tôi rằng :« Tôi vào niệm Phật đường thấy chung quanh đều có h́nh Phật, tôi có cảm giác như chính ḿnh cũng là Phật ». Cảm giác này thật không sai. Điểm thù thắng khác nữa là ở niệm Phật đường là được mỗi ngày nghe giảng kinh thuyết pháp. Sau khi nghe và hiểu được nghĩa lư trong kinh, rồi siêng năng tu hành, đây gọi là giải hành tương ưng. Nếu một niệm Phật đường hằng ngày không được giảng kinh thuyết pháp, người niệm Phật không thể nào giải hành tương ưng được th́ đa số dễ lạc vào h́nh thức niệm Phật. Như vậy hiệu quả sẽ khác nhau lắm.

Hiện nay có một số đạo tràng ở những nơi khác đến tham dự Phật Thất và áp dụng phương thức niệm Phật ở đây vào đạo tràng của họ, thật là quư hóa vô cùng. Tôi hy vọng mỗi đạo tràng ở những nơi khác đều có thể xây niệm Phật đường, hầu giúp mọi người cùng nhau niệm Phật. Tuy nhiên một nhân tố cần thiết không thể thiếu, đó là phải hiểu rơ lư lẽ. Muốn hiểu rơ lư phải có người giảng kinh thuyết pháp không gián đoạn. Nếu quư vị không t́m được người giảng pháp, có thể đến đạo tràng của chúng tôi lấy băng về nghe. Mỗi ngày nên mở băng nghe hai giờ đồng hồ, như vậy niệm Phật đường của quư vị đối với chúng tôi không có sai khác. Công phu niệm Phật của chúng ta một khi đă thành khối, không những thân bằng quyến thuộc của kiếp này, thậm chí đến nhiều đời nhiều kiếp trước của chúng ta mà chúng ta không biết hoặc không thể nhớ, họ vẫn được siêu độ.

Nghĩ đến việc này, nếu chúng ta không siêng năng nỗ lực tu hành, chúng ta thật có lỗi với ông bà tổ tiên, thân bằng quyến thuộc vậy.

Do đó khi vào niệm Phật đường, chúng ta phải mang tâm tri ân báo ân để niệm Phật. Chính cái tâm này là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy chúng ta tinh tấn không ngừng. Hôm nay những chúng sanh này vẫn c̣n kẹt trong ác-đạo, không có khả năng giải thoát, nên họ hoàn toàn trông cậy ở chúng ta. Những người hiểu Phật Pháp, hiểu giáo lư chân thật nên y giáo phụng hành. Không những giúp họ ra khỏi cảnh khổ, mà mọi tai kiếp hiện nay trên thế giới đều có thể hóa giải, có thể đạt đến chỗ quốc thới dân an như lời Phật nói. Cho nên, niệm Phật không phải chỉ v́ ḿnh mà thôi, mà c̣n v́ thân bằng quyến thuộc, và v́ tất cả chúng sanh !

Phần 9 : Giữ Chánh Niệm Phục Ma Vương

 

Đa số chúng ta đều biết Phật có tướng hảo quang minh ; ma cũng có tướng hảo quang minh. Phước báo của Phật vô cùng to lớn ; phước báo của ma cũng không kém. Phật có hào quang kim sắc ; ma cũng có hào quang kim sắc. Tuy nhiên hào quang của Phật nhu ḥa, khiến cho chúng ta mỗi khi tiếp xúc đến có cảm giác nhẹ nhàng tươi mát, an ổn, vui vẻ, tự tại. Ma cũng có hào quang kim sắc, nhưng với ánh sáng chói lọi của ma, con người sẽ thấy sợ hăi không yên.

Tóm lại hào quang của ma so sánh với hào quang của Phật không có khác về h́nh tướng, chỉ có khác ở chỗ, sau khi con người tiếp xúc rồi, có những cảm giác hoàn toàn trái ngược nhau. Làm thế nào để tránh khỏi ánh sáng của ma, không bị ma làm tổn hại ?

Điều này hết sức quan trọng, chúng ta không thể không hiểu rơ. Phương pháp hữu hiệu nhất để đối phó là : Chúng ta phải luôn luôn giữ chánh niệm. Khi giữ được chánh niệm, chẳng những Ma không làm tổn hại được ; ngược lại sanh ḷng tôn kính và hộ pháp.

Khi xưa Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni khéo thị hiện tám tướng thành đạo, ma Ba-Tuần đến và dùng mọi thủ đoạn uy hiếp cản trở, Đức Thế Tôn chánh niệm phân minh, như như bất động, sau cùng ma không c̣n cách nào để phá hại nữa, nên sanh ḷng tôn kính bái phục, nguyện làm hộ pháp cho Ngài. Do đó tâm niệm của chúng ta cần phải tương ứng với Giới, Định, Huệ, ba môn học. Đây là phương thức quan trọng nhất để đối trị với sức cản trở lay động của ma.

Những người nào dễ bị ma làm tổn thương nhất ?

Xă hội ngày nay, những người tu học Phật Pháp, đặc biệt là giới thanh niên bị ma nhập rất nhiều. Những ai thích có thần thông cảm ứng đều dễ bị kết duyên với ma. Ma sẽ lợi dụng nhược điểm đó của quư vị, mà đến lay động quấy phá. Cho nên người tu học Phật Pháp trong thời đại này, cần phải có cảnh giác cao độ : Khi niệm Phật phải giữ tâm cho chân thật. Không nên mong cầu cảm ứng.

Trong kinh điển Phật dạy chúng ta như thế nào, chúng ta ngoan ngoăn làm theo. Điều ǵ Phật dạy chúng ta không nên làm, chúng ta quyết định không làm. Phật dạy chúng ta văng sanh Tây phương Cực-Lạc, th́ chúng ta cầu sanh Tịnh độ. Phật dạy chúng ta liễu sanh thoát tử, thoát khỏi luân hồi, chúng ta tuyệt đối không luyến tiếc với lục đạo. Thuận theo lời chỉ dạy của Phật, ma sẽ không làm ǵ được chúng ta. Giới trẻ ngày nay đa số muốn có thần thông, muốn có cảm ứng, nhưng đâu ngờ đă tự ḿnh làm hư hoại đến tương lai tốt đẹp của chính ḿnh. Thật là điều đáng tiếc vô cùng !

Quư vị nên hết sức thận trọng, nhất là phải có sự cảnh tỉnh đối với con cháu, bà con quyến thuộc, bởi v́ trong lúc quư vị khởi tâm mong cầu thần thông cảm ứng, Ma liền có dịp giả h́nh dáng Bồ-tát, giả Phật A-Di-Đà để mê hoặc và lừa gạt dắt quư vị đi theo. Nhiều vị đồng tu lo rằng : Lỡ khi lâm chung Ma giả Phật A-Di-Đà đến rước th́ sao ? Nếu chúng ta không phân biệt được giữa Ma với Phật, th́ công phu niệm Phật nỗ lực tu hành bấy lâu sẽ chẳng c̣n ǵ !

Đối với điều này, xin quư vị hăy yên tâm. Ma tuy lường gạt người, nhưng nhất quyết chúng không thể giả dạng Bổn Tôn, tức Phật A-Di-Đà. Bởi v́ Phật có thần hộ pháp. Khi chúng ta phát tâm chân thật niệm Phật đều được các vị thần hộ pháp bảo hộ cho chúng ta. Thần hộ pháp nhất quyết không dung thứ cho các loài yêu, ma quái giả dạng Bổn Tôn. Nếu chúng dám giả mạo sẽ bị tội nặng. Ngược lại, nếu chúng giả dạng các vị Phật khác đến gạt quư vị, chúng không phạm tội. Cho nên quư vị niệm Phật A-Di-Đà, đến lúc lâm chung nhất định phải chờ Phật A-Di-Đà đến tiếp dẫn. Nếu thấy Phật Thích Ca, Phật Dược Sư đến rước, đó đều là ma giả dạng lường gạt. Trong t́nh trạng như vậy, quư vị phải tập trung tinh thần hướng niệm hồng danh Nam mô A-Di-Đà-Phật, và mặc nhiên không thèm để ư đến, tức thời những h́nh ảnh đó sẽ tự biến mất.

Những kiến thức này hết sức quan trọng, quư vị nên lưy ư. Người niệm Phật thỉnh thoảng mơ thấy Phật A-Di-Đà, như vậy là công phu niệm Phật được cảm ứng. Nếu thường xuyên thấy Phật th́ không đúng, đó là công phu có vấn đề. Nhiều người hỏi : « Trong lúc niệm Phật tôi thường nghe, thấy Phật A-Di-Đà, nay niệm Phật đă nhiều năm rồi lại không hề thấy, như vậy có phải tôi bị thối chuyển so với lúc ban đầu hay không ? » Trả lời : Cũng có thể thối chuyển nếu không bị thối chuyển cũng không nên thường xuyên mơ thấy. Thường xuyên mơ thấy là ma cảnh. Cho dù quả thật mơ thấy Phật cảnh hiện ra, cũng không nên sanh tâm chấp trước, sanh tâm tham và vui mừng. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có chỗ chỉ dạy cho chúng ta một phương pháp đối phó với ma cảnh như sau : Khi gặp cảnh giới hiện ra phải giữ tâm không để ư đến, không t́m hiểu sâu vào. V́ sao ? Bởi v́ khi ma hiện ra, có nghĩa là công phu của quư vị đă đạt tới mức khả quan. Nếu không, ma chẳng thèm tới để làm ǵ ! Mục đích của chúng đến là để chướng ngại phá, cho chúng ta tan mất công phu tu tập và đạo tâm của chúng ta. Cho nên ư nghĩa hồng danh A-Di-Đà-Phật giúp chúng ta giữ tâm như-như bất động trước ma cảnh. Ma cảnh là rất quan trọng mật thiết với công phu tu tập của chúng ta.

Phần 10 : Phát Tâm Bồ-Đề

 

Nếu chúng ta muốn ngay trong một kiếp này thật sự thành tựu được công phu niệm Phật, th́ lúc xử thế tiếp xúc với người và vật, cái tâm duy nhứt mà chúng ta cần phải có đó là chân tâm.

Khi bị người khác lừa dối hiếp đáp, chúng ta phải nghĩ như vầy : Đó là chuyện của họ, không dính dáng ǵ tới ta cả. Việc của ta là phải dùng tâm chân thật để đối xử lại. V́ sao ? Bởi v́ ta quyết định trong một kiếp này cầu văng sanh Tịnh độ. Làm thế nào để cầu sanh Tịnh độ ? Trong Kinh Vô Lượng Thọ nói rất rơ : « Phát Bồ-Đề tâm nhất hướng niệm Phật ». Nếu chúng ta không phát Bồ-Đề tâm, chỉ nương vào nhất hướng chuyên niệm, kết quả không văng sanh. Điều này chúng ta nên thận trọng !

Ngài Lư Bỉnh Nam nói : « Một vạn người niệm Phật, thật sự văng sanh chỉ có vài ba người ». V́ sao số người văng sanh quá ít như vậy ? V́ không phát tâm Bồ-Đề, nên tâm không thanh tịnh. Bởi tâm không thanh tịnh nên c̣n thị phi, nhân ngă, tham, sân, si, mạn, nghi … Những thứ này không tương ứng với thế giới Cực-Lạc một chút nào. Tây phương Cực-Lạc là nơi tụ hội của chư thượng thiện nhân, tức là chỗ của những người thiện lành bậc nhất. Cho dù chúng ta niệm Phật rất siêng năng đến đâu, hoặc một ngày có thể niệm đến trăm ngàn lần, nhưng tâm của chúng ta không thiện, làm sao có thể lên Tây phương ở cùng chỗ của các bậc thượng thiện nhân được ?

Do đó phát Bồ-Đề tâm quan trọng hơn cả việc nhất tâm chuyên niệm là như vậy. Người thật sự phát Bồ-Đề tâm, khi lâm chung niệm một niệm hoặc mười niệm, quyết định sẽ được văng sanh. V́ sao ? V́ họ đă là thượng thiện nhân rồi, đầy đủ phước đức rồi, chỉ cần chợt khởi tâm muốn văng sanh là được ngay.

Cho nên những lời nói trong kinh điển chúng ta phải hiểu lư, suy nghĩ kỹ lưỡng, tuyệt đối không nên tụng niệm một cách hàm hồ.

Đoạn văn trên, chúng ta nói đến chân tâm. Chân tâm là thể của Bồ-Đề tâm. Kế tiếp nói đến thâm tín là dụng của Bồ-Đề tâm. Tự dụng đối với chính ḿnh là luôn giữ tâm hiền thiện hiếu đức, tức là thích làm điều thiện. Đối với chúng sanh th́ đại từ đại bi, nhân từ hiền thiện. Hiếu đức là việc làm không thể miễn cưỡng, hoặc làm cho có h́nh thức bên ngoài, mà nó phải lưu xuất một cách tự nhiên từ bên trong. Cho nên người phát tâm Bồ-Đề, mỗi khi khởi tâm động niệm đều nghĩ đến việc làm lợi ích cho chúng sanh. Nghĩ đến việc giúp đỡ phá mê khai ngộ, thoát khỏi cảnh khổ, được an vui, không hề có một niệm nghĩ đến lợi ích cho cá nhân ḿnh, Nếu c̣n một niệm ích kỷ tự lợi là c̣n ngă chấp nặng nề. Ngă chấp là gốc rễ của lục đạo luân hồi. Không bứng sạch gốc rễ này th́ không cách nào ra khỏi lục đạo. Cho nên ngay từ bây giờ, chúng ta cần phải buông xả. Phải nghĩ tới người khác, nghĩ tới chúng sanh, đến những người đang đau khổ, đang gặp nạn trên thế giới. Tuyệt đối không nên nghĩ đến chuyện lợi ích cho riêng cá nhân ḿnh nữa.

Trong suốt thời gian thuyết pháp đă qua, tôi nhiều lần nhắc quư vị phải phát Bồ-Đề tâm. Trong kinh điển, đức Thế Tôn cũng từng lập đi lập lại không biết bao nhiêu ngàn lần, v́ sao Thế Tôn không ngừng lập đi lập lại như vậy ? Bởi v́ chúng sanh vẫn c̣n chưa thức tỉnh, vẫn c̣n u mê, cho nên Thế Tôn vẫn phải lập đi lập lại một cách không mệt mỏi để kêu gọi, thức tỉnh chúng ta. Một khi chúng ta phát khởi Bồ-Đề tâm liền được chư Phật hộ tŕ, v́ tâm của chư Phật là tâm Bồ-Đề. Tóm lại, như vậy tâm của chúng ta, cùng tâm Chư Phật, không hề khác nhau, và mục đích duy nhất của Ngài là mong chúng ta một đời có thể thành Phật.

Hôm nay th́ giờ đă hết, tôi xin giảng đến đây. Nam Mô A-Di-Đà-Phật !

MƯỜI  ĐIỀU  TRỌNG  YẾU  CỦA  SỰ  TU  HÀNH

1. Hiếu Dưỡng Cha Mẹ :

Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹ là pháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người. Chúng ta nghĩ thử ngay cả loài chim muông c̣n biết báo ân nuôi mớm. Nếu như chúng ta không hiếu dưỡng cha mẹ th́ chẳng phải không bằng loài cầm thú hay sao ?

Cha mẹ là ruộng phước lớn nhất đời này của chúng ta. Công đức hiếu dưỡng cha mẹ và công đức cúng dường Đức Phật như nhau, không hiếu dưỡng cha mẹ th́ bị coi là sai lầm lớn nhất của đời người. Người bất hiếu một chút tư cách cũng không có nói ǵ đến học Phật ?

Ngoài ra, chúng ta c̣n phải khuyên cha mẹ có Tín, Nguyện, Niệm Phật cầu sanh về Tây-phương Cực-Lạc để thoát khỏi sanh-tử luân-hồi, đó mới là hiếu đạo cứu cánh viên măn !

2. Làm Tṛn Bổn Phận :

Làm người ở thế gian, ai cũng có bổn phận và trách nhiệm của ḿnh. Người học Phật trên cương vị công việc của ḿnh phải nỗ lực tinh tấn làm gương mẫu cho gia đ́nh, xă hội và quốc gia. Hiếu thuận với cha mẹ, giáo dục con cái, yêu thương gia đ́nh, làm lợi ích cho xă hội, báo đáp cho quốc gia mới đúng là người học Phật. Tự ḿnh trốn tránh trách nhiệm, không làm tṛn bổn phận, học Phật mà nói khoác lác đều là dối ḿnh lừa người th́ không thể thành tựu được.

3. Tin Sâu Nhân Quả :

Cốt lơi của toàn bộ Phật pháp, chính là hai chữ “nhân quả”. Chúng ta trồng nhân thiện được quả thiện, trồng nhân ác nhất định chịu quả ác, báo ứng nhân quả không sai tí nào, không phải là không có báo ứng mà chỉ v́ thời gian chưa đến. Người học Phật phải tin sâu nhân quả, lấy giới làm thầy, mỗi ngày tự kiểm điểm, luôn luôn sửa đổi. Ngoài ra, người niệm Phật tin sâu trồng nhân thiện niệm Phật, chắc chắn được quả thiện thành Phật. Đây là nhân quả rất thâm diệu.

4. Không Sát Sanh, Nên Ăn Chay :

Người học Phật không làm các việc ác, nỗ lực đoạn trừ tất cả hành vi tội ác. Trong tất cả tội ác, tội ác nặng nhất là sát sanh, ăn thịt. Bởi v́, mạng của chúng sanh rất quư báu, không nên v́ thân mạng ḿnh mà giết, ăn thịt nó th́ nó vô cùng căm hận, kết oán thù sâu nặng, đời sau nó sẽ giết lại chúng ta báo thù đ̣i nợ, máu trả nợ máu, quả ác rất là thảm khốc. V́ thế, chúng ta không làm các việc ác, không sát sanh, nên ăn chay là việc cần gấp.

5. Phóng Sinh Cứu Mạng :

Người học Phật phải làm các điều thiện, bất cứ việc thiện nào, chỉ cần có cơ hội th́ ra sức làm. Trong tất cả việc thiện, phóng sanh là đứng đầu. Bởi v́, phóng sanh là hành vi cứu mạng cấp bách, công đức rất lớn, chẳng phải việc thiện nhỏ có thể so sánh được. Thân mạng chúng sanh rất quư, chúng ta thả nó, cứu nó th́ nó vô cùng cảm kích, kết thiện duyên tốt với nó th́ đời sau chúng ta được quả báo thiện, phước đức không thể nghĩ bàn. Cho nên, trong các điều thiện lấy phóng sanh cứu mạng làm đầu.

6. Chí Tâm Thành Kính :

Chí tâm thành kính là nền tảng thành tựu bất cứ sự nghiệp nào trong thiên hạ. Đại sư Ấn Quang chỉ dạy chúng ta phải dốc hết tâm lực, lấy hai chữ thành kính làm điểm quan trọng. Chúng ta có một phần thành kính th́ có một phần công đức, có mười phần thành kính th́ có mười phần công đức. Đây là bí quyết tuyệt vời học Phật thành công, mọi người tuyệt đối phải ghi nhớ kỹ trong ḷng.

7. Phát Tâm Bồ-Đề :

Công đức nhiều hay ít của người học Phật theo tỉ lệ thuận với tâm lượng của ḿnh, tâm lượng rộng lớn th́ công đức được nhiều. V́ thế, người học Phật phải có tâm lượng rộng lớn, làm bất kỳ việc ǵ tuyệt đối không nên v́ tự tư tự lợi, nhất định phải phát xuất từ tâm chân thành, chân thật v́ lợi ích cho tất cả chúng sanh. Chúng ta trên cầu Phật đạo, phát tâm thành Phật; sau đó, có năng lực độ khắp chúng sanh. Chúng ta dưới th́ hóa độ chúng sanh bằng cách phát tâm hễ gặp cơ duyên th́ nhất định phải đem điều tinh yếu của Phật pháp truyền bá cho đại chúng. Ngoài ra, tâm phải chí thành niệm Phật cầu sanh về thế giới Tây phương Cực-Lạc; đó là chân chính phát tâm Bồ-Đề.

8. Lạy Phật Sám Hối :

Chúng ta từ vô thủy kiếp đến nay tạo nhiều tội nghiệp, nếu có h́nh tướng th́ khắp hư không cũng chẳng dung chứa hết; bởi v́, chúng ta là phàm phu xấu ác nghiệp chướng sâu nặng. Do đó, người học Phật phải phát tâm hổ thẹn và chí thành sám hối, siêng năng lạy Phật. Bởi v́ lạy Phật một lạy chí thành th́ tội diệt như số cát sông Hằng, lạy Phật sám hối là bày tỏ tâm chí thành cung kính của chúng ta. Phương pháp tốt nhất là hổ thẹn tự xét lỗi ḿnh.

9. Tín, Nguyện Và Niệm Phật :

Pháp môn Tịnh độ là nương tựa Phật lực cứu giúp. Tín là tin thế giới Tây phương Cực-Lạc có Phật A-Di-Đà. Nguyện là mong muốn ḿnh mau sanh về thế giới Cực-Lạc kia, chán ĺa thế giới Ta-bà này. Hạnh là phải chí thành niệm, giữ một câu thánh hiệu Nam mô A-Di-Đà-Phật. Chỉ cần đầy đủ ba tư lương Tín, Nguyện, Hạnh th́ sẽ nương theo đại thệ nguyện lực của Phật A-Di-Đà cứu giúp, ra khỏi sanh tử, vĩnh viễn đoạn trừ luân hồi. Đây là pháp môn vô cùng thâm diệu và tiện lợi nhất trong tất cả pháp môn mà Đức Phật đă dạy.

Nói theo lư, một câu Nam Mô A-Di-Đà-Phật là nhờ Phật lực cứu vớt, chắc chắn bảo đảm văng sanh về Tây phương. Nhưng v́ sao ngày nay người niệm Phật nhiều mà người được văng sanh lại ít ? Đây là vấn đề rất quan trọng và nghiêm túc, ngày nay người niệm Phật nhưng không được văng sanh quan trọng là do “thiếu Tín, Nguyện lại sợ chết, căn bản là không muốn văng sanh”. Ngày nay, người niệm Phật chỉ cầu sống lâu, cầu mạnh khỏe b́nh an, cầu giàu sang, công việc thuận lợi, cầu tất cả lợi ích ở thế gian; nhưng không cầu văng sanh về Tây-phương Cực-Lạc.

Một chữ Chết th́ có thể kiểm nghiệm người niệm Phật có đầy đủ Tín, Nguyện hay không ? Hăy tự hỏi ḷng ḿnh, chúng ta có sợ chết không ? Nếu như chết ngay lập tức th́ Phật A-Di-Đà liền đón chúng ta văng sanh về Tây phương Cực-Lạc, chúng ta có bằng ḷng không? Một người niệm Phật thật sự là người chán ĺa cơi Ta-bà này, thích cầu về cơi Cực-Lạc th́ nhất định cho sự chết là như trở về. Bất cứ lúc nào, họ cũng mong sớm theo Phật A-Di-Đà về thế giới Tây phương Cực-Lạc th́ tuyệt đối không sợ chết, luôn mong muốn văng sanh liền. C̣n người niệm Phật giả tạo trong ngoài khác nhau, Tín, Nguyện không thật là người tham sống sợ chết, không muốn chết, không muốn văng sanh, cầu sống lâu, có rất nhiều lư do ràng buộc. Chúng ta nên biết tâm người nào sợ chết, không muốn chết, không muốn cầu văng sanh th́ trái với tâm Phật A-Di-Đà, không đủ ba tư lương Tín, Nguyện, Hạnh th́ làm sao họ thành tựu văng sanh về Tây phương Cực-Lạc được ?

Ngày nay, một ngh́n người niệm Phật th́ có chín trăm chín mươi chín người niệm Phật giả. Nếu người niệm Phật thật sự th́ một chữ Chết thường ở trong tâm, tự ḿnh luôn kiểm nghiệm, chỉ cần người niệm Phật không sợ chết, thích chết, bất cứ lúc nào cũng đón cái chết, luôn mong cầu sớm được văng sanh về Cực-Lạc; đây là người niệm Phật thật sự “chán ĺa Ta-bà, thích cầu Cực-Lạc”. Như thế, một ngh́n người niệm Phật, ngh́n người văng sanh; vạn người niệm Phật vạn người văng sanh, không một người nào mà không sanh về Tây phương Cực-Lạc !

10. Nỗ Lực Thực Hành :

Phật pháp quan trọng nhất là thực hành. Có bà cụ một chữ cũng không biết, hoàn toàn không hiểu kinh dạy, chỉ biết ăn chay, lạy Phật, chí thành niệm một câu Nam mô A-Di-Đà-Phật mà được văng sanh. Bà học Phật thành tựu văng sanh, hơn hẳn những nhà thông thái biện tài vô ngại, tinh thông tam tạng, quan trọng là có nỗ lực thực hành hay không. Người có tài năng, hiểu biết mà không thực hành, giống như điểm binh trên giấy, nói tên món ăn, đếm của báu cho người, đều là vô ích.

Nói tóm lại, chúng ta học Phật chỉ cầu chuyên nhất, sợ nhất là xen tạp; chỉ cần nắm chắc những điểm quan trọng rồi nỗ lực thực hành th́ nhất định đạt được lợi ích chân thật của Phật pháp !

TAM  PHƯỚC  CỦA  NGƯỜI  TU  TỊNH  NGHIỆP

1. Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm không sát hại, tu mười thiện nghiệp :

a. Hiếu dưỡng cha mẹ : Điều này, tôi giảng rất nhiều lần, chúng ta học kinh không thuộc và không hiểu ư nghĩa của kinh rơ ràng, tâm hạnh trái với lời dạy trong kinh dạy; đây là đại bất hiếu v́ không cung kính, chúng ta cần phải biết rơ.

b. Phụng sự sư trưởng : Chúng ta là người học Phật, vị thầy đầu tiên là Đức Phật Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni. Đức Bổn Sư dạy chúng ta học theo Phật A-Di-Đà nên Đức Phật A-Di-Đà cũng là Bổn Sư của chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta khởi tâm động niệm, tâm ḿnh có giống như tâm Phật không ? Suy nghĩ có giống như Phật nghĩ không ? Làm thế nào giống như tâm Phật, nghĩ như Phật ? Những điều này, trong Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A-Di-Đà nói là tâm chân thật của Phật, là mẫu mực của Phật. Chúng ta có thật sự hiểu không ? Có thật sự tinh tấn tu hành không ?

Tu hành là dựa theo tiêu chuẩn Đức Phật dạy, chúng ta phải sửa đổi cách nghĩ, cách nh́n sai lầm của ḿnh trong cuộc sống hằng ngày th́ gọi là tu hành. Nếu như hằng ngày chúng ta làm ra vẻ như người học Phật, nhưng trên thực tế th́ lừa ḿnh dối người, như thế nhất định có cảm ứng với ma, ma sẽ đến hộ tŕ cho bạn mà không phải là Phật. Dụng ư của ma đến hộ tŕ bạn để làm ǵ ? Để chúng hủy diệt Phật pháp và gây chướng ngại cho Phật pháp.

Chẳng những ngay trong đời này bạn không được tự tại, không được như ư mà quả báo đời sau lại càng đáng sợ. Chúng ta có ư thức được điều này không ? Chúng ta có cảnh giác không? Cho nên tôi thường khuyên các vị đồng tu, cơ duyên của chúng ta thù thắng không ai bằng, nếu trong chốc lát mất thân người bị đọa vào ba đường ác th́ thật là đáng tiếc, nói ra thật khó nghe, thật rất oan uổng !

V́ thế, nền tảng của Phật pháp, căn bản của căn bản là ‘hiếu kính’, nghĩa của hai chữ hiếu kính này rất rộng lớn. Hiếu kính với tất cả chúng sanh, đó là học Phật. Nếu chúng ta làm được việc hiếu kính đối với tất cả chúng sanh, như thế th́ chúc mừng bạn rồi, chẳng những bạn ra khỏi luân hồi mà c̣n thoát ra khỏi chín pháp giới. Bởi v́, chân thật hiếu kính tất cả chúng sanh chỉ có pháp thân Bồ-Tát mới làm được. Kinh Hoa Nghiêm nói :“Sơ trụ Viên giáo trở lên mới thực hành được”. Do đó, không thể không phát tâm này, sau khi phát tâm này rồi cần phải thật sự nỗ lực thực hành, quyết tâm làm cho được.

c. Từ tâm không sát hại : Trong các tội nghiệp, hành vi sát sanh là tội nghiệp nặng nhất; cho nên, Đức Phật tổng hợp trọng tâm của giới luật dạy cho chúng ta “ḷng từ không sát hại”. Trong đạo Phật thường nói :“Từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa”. Chúng ta phải vun bồi tâm từ bi, tuyệt đối không được sát hại, cho đến làm tổn hại tất cả chúng sanh. Người không có tâm từ bi th́ không thể học Phật, làm tổn hại chúng sanh th́ nhất định sẽ gây kết oán thù rất nặng; do đó mà có những oan gia trái chủ báo thù lẫn nhau không dứt.

d. Tu mười thiện nghiệp : Người giác ngộ tuyệt đối không được kết oán thù với chúng sanh. Một khi kết oán thù với chúng sanh đều là do mê hoặc điên đảo, bị vô-minh phiền năo che lấp. V́ thế, chúng ta phải tu mười thiện nghiệp, đây là nền tảng của sự tu tập, chúng ta đem nó áp dụng vào cuộc sống thường ngày, tiêu chuẩn đều là lời dạy trong kinh luận, từ nền tảng này chúng ta bước vào cửa Phật.

2. Thọ tŕ tam-quy, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi :

a. Thọ tŕ tam quy : Chúng ta bước vào cửa Phật, trước tiên phải thọ Tam quy-y. Đây là điều Đức Phật dạy cho chúng ta ra khỏi sáu đường luân hồi, mục tiêu là hướng đến Bồ-Đề Niết-bàn gọi là Tam-Bảo. Tam-Bảo là Giác, Chánh, Tịnh. Bất cứ nơi nào, lúc nào chúng ta vẫn luôn luôn giữ tâm giác ngộ của ḿnh. Giác là không mê, xưa nay chúng ta chỉ mê mà không giác, ngày nay quay đầu lại gọi là quy-y, “trở về nương tựa Phật, Pháp,Tăng”.

Đức Phật lại dạy, do chúng ta chấp vào tri kiến và cách nghĩ, cách nh́n sai lầm nên phải quay đầu lại, nương theo chánh tri, chánh kiến. Tri kiến như thế nào gọi là chánh ? Chư Phật, Bồ-tát hoàn toàn không nói :“Tri kiến của ta là chánh tri, chánh kiến, c̣n tri kiến của các ông là tri kiến sai lầm”. Không có Phật, Bồ-tát nào nói như thế.

Các ngài dạy :“Tri kiến tương ứng với tự tánh là chánh tri, chánh kiến; tri kiến trái với tự tánh là tà tri, tà kiến”. Cách nói như thế, chúng ta mới khâm phục; bởi v́, chúng ta chưa minh tâm kiến tánh nên phải thừa nhận cách nh́n, cách nghĩ của chúng ta đều là sai lầm. Cho nên, khi mới học Phật chúng ta không thể không nương theo Đức Phật, nhưng Phật lại dạy rất hay là chúng ta không thể nương theo Ngài măi măi mà chỉ có thể nương theo một thời gian. Sau khi chúng ta minh tâm kiến tánh th́ không cần nương theo Ngài nữa; trước khi chúng ta chưa kiến tánh mà không nương theo Ngài th́ chẳng c̣n phương pháp nào tốt hơn được.

Vậy được minh tâm kiến tánh có dễ không ? Là phải đoạn trừ phiền năo, phá phiền năo chướng. Phiền năo gây chướng ngại cho tự tánh của chúng ta. Bạn c̣n phiền năo th́ nhất định không thể nào kiến tánh được, vẫn phải tu học theo pháp môn. Tu học theo pháp môn cũng là phá sở tri chướng, v́ sở tri cũng làm chướng ngại tự tánh. Trừ sạch hai chướng ngại lớn này th́ mới minh tâm kiến tánh.

Chúng ta nói điều này th́ rất dễ dàng, nhưng thực hành th́ rất khó; cho nên, Đức Phật dạy hàng phàm phu chúng ta c̣n bị nghiệp chướng này sâu nặng, căn tánh của phàm phu ám độn chỉ có phát nguyện cầu sanh về Tịnh độ. Phương pháp này rất tuyệt diệu, có thể tạm thời không cần đoạn Kiến, Tư phiền năo mà vẫn văng sanh về Tịnh độ, cũng không cần tu học vô lượng pháp môn; chỉ cần đầy đủ ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh th́ được văng sanh về thế giới Tây phương Cực-Lạc diện kiến Phật A-Di-Đà, sau đó nỗ lực học với Ngài. Về cơi này chúng ta tu đoạn phiền năo, lại học pháp môn th́ đạt được cứu cánh giải thoát viên măn.

Do đó, khi thọ tŕ tam-quy, chúng ta phải quy-y Phật A-Di-Đà và nương theo kinh điển Tịnh tông. Kinh điển Tịnh tông hiện nay chỉ có năm bộ Kinh và một bộ luận Văng Sanh. Nếu bạn quy-y theo hết các kinh luận này th́ rất tốt, c̣n như chê nhiều th́ trong sáu bộ này, bạn chọn bất kỳ một bộ nào để thực hành cũng được. Có lẽ sẽ có người hỏi: “Một bộ th́ có ít quá không ?”. Chúng ta đọc Văng sanh truyện hay Tịnh Độ Thánh Hiền Lục thấy từ xưa đến nay có rất nhiều người ngay một bộ Kinh cũng chẳng biết, suốt đời chỉ biết niệm một câu  Nam mô A-Di-Đà Phật mà họ vẫn có thể đứng văng sanh hoặc ngồi văng sanh ...

Niệm một câu hiệu Nam mô A-Di-Đà Phật c̣n thành tựu được, huống ǵ một bộ Kinh ?  Chúng ta phải tin việc này chân thật, như trong Kinh Kim cang nói :“Tín tâm chẳng trái nghịch” th́ mới có thể thành tựu !

Tăng-Bảo là chúng ta quy-y Bồ-tát Đại-Thế-Chí và Bồ-tát Quán-Thế-Âm. Chúng tu ta theo Tịnh tông, quy-y Tam-Bảo thực tế là trên sự tướng. Đại-Thế-Chí biểu hiện lư trí chẳng phải t́nh cảm; Quán-Thế-Âm biểu hiện từ bi. Cho nên, chúng ta quy-y Tăng là quy-y từ bi theo lư trí chẳng phải từ bi theo t́nh cảm; từ bi theo t́nh cảm là việc không tốt. Từ bi phải lấy lư trí làm nền tảng, được như thế mới gọi là thọ tŕ tam-quy.

b. Đầy đủ các giới, không phạm oai nghi : Chúng ta có thể giải thích giới là những giới điều mà Đức Phật đă dạy trong tất cả kinh điển mà chúng ta tuân thủ, nhưng không phải chấp chặt những giới điều. Chúng ta phải xem kỹ những giới điều trong kinh dạy, tất cả giới điều đều bao hàm trong đó, không hề thiếu sót. Từ trên nền tảng này mà khế nhập vào pháp môn của Bồ-tát.

3. Phát tâm Bồ-Đề, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại-thừa, khuyến tấn hành giả :

+ Pháp đầu tiên của Bồ-tát là phát đại-tâm, phát Bồ-Đề tâm : Chúng ta muốn văng sanh về thế giới Tây-phương Cực-Lạc phải nhớ kỹ trong kinh Phật giảng, điều kiện để chúng ta được văng sanh có hai câu tám chữ. Tam bối văng sanh trong Kinh Vô Lượng Thọ nói bất luận là thượng bối, trung bối và hạ bối đều không khác nhau, đều là :“Phát Bồ-Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”.

Thế nào là phát tâm Bồ-Đề ? Là tâm độ khắp chúng sanh, “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Nếu như bạn ghét chúng sanh này, thích chúng sanh kia th́ bạn có đến được thế giới Tây phương Cực-Lạc không ? Chắc chắn là không thể đến được, cho dù mỗi ngày bạn niệm mười vạn câu danh hiệu Phật cũng không thể văng sanh được. V́ sao ? V́ bạn không có tâm Bồ-Đề; điều này không thể không chú ư !

Trước đây thầy Lư Bỉnh Nam thường nói người ngày nay niệm Phật, một vạn người niệm Phật khó có được hai, ba người văng sanh. Không phải họ không tinh tấn, suốt ngày xâu chuỗi chẳng rời tay, từ sáng đến tối miệng không ngừng niệm Nam mô A-Di-Đà Phật, Nam mô A-Di-Đà Phật, nhưng v́ sao họ không văng-sanh được ? V́ họ không phát tâm Bồ-Đề nên không phù hợp tiêu chuẩn văng sanh. “Nhất hướng chuyên niệm” th́ họ làm được, nhưng “Phát tâm Bồ-Đề” th́ họ không làm được, do đó họ không thể văng sanh !

Hôm qua Quán Trưởng nói chuyện với tôi về Khổng Lăo Phu Tử. Đức học của Phu Tử có từng giai đoạn rất rơ ràng, đây là tấm gương tốt cho chúng ta. Lăo Phu Tử nói “Tam thập nhi lập”. Lập cái ǵ ? Lập chí hướng ! Lập chí theo nhà Nho nói giống như Phật pháp của chúng ta nói phát tâm. Phu Tử lập chí là chí đối với sự học, suốt đời theo nghiệp học vấn. Hôm nay chúng ta lập chí là độ khắp chúng sinh, chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, chúng ta đích thực lập chí này. Tứ hoằng thệ nguyện là lập chí, chúng ta có thật sự lập được không ?

Nhà Nho nói nếu không lập chí th́ việc ǵ cũng không thành tựu được. V́ sao ? Bởi v́ chúng ta không có phương hướng, không có mục tiêu, dù cho có nỗ lực cũng không thể có kết quả. Pháp xuất thế gian so với pháp thế gian càng phải nghiêm túc hơn nhiều, chúng ta không phát nguyện th́ làm sao hành ? Cho nên trước tiên phải phát nguyện, phát tâm Bồ-Đề chính là phát đại nguyện. Quá tŕnh đức học của Phu Tử quả là tấm gương cho chúng ta noi theo !

+ Điều sau cùng là “Tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại-thừa”: Hiện tượng trong mười pháp giới y chánh trang nghiêm là quả báo. Quả phức tạp là theo mức độ phức tạp mà nói th́ nhân tất nhiên sẽ tỷ lệ thuận với quả. V́ trong nhân quả phức tạp như thế nên chúng ta cần phải cẩn thận chú ư, luôn cảnh giác chính ḿnh từng thời từng khắc, tuyệt đối không được tạo nhân xấu.

Khi c̣n trẻ, mới tiếp xúc Phật pháp, tôi vô cùng khâm phục Đức Phật, Ngài chỉ dạy mọi người hăy nh́n ḿnh, không nên nh́n người khác. Điều này làm tôi khâm phục năm vóc lạy sát đất. Đức Phật dạy là dạy cho bạn, không phải dạy cho người khác. Nếu như bạn không vào từ cửa này mà muốn sớm thành tựu đạo nghiệp th́ tuyệt đối làm không đến. Bởi v́, trọng tâm tu học Phật pháp là thiền định, là tâm thanh tịnh. Nếu như tâm bạn luôn nghĩ đến hoàn cảnh bên ngoài rồi phân biệt nó th́ đến khi nào bạn mới đạt được định ? Sẽ không bao giờ đạt được mục đích ấy !

Bạn muốn thành tựu thiền định, thành tựu tâm thanh tịnh thật sự th́ hoàn toàn không duyên theo cảnh bên ngoài, trở lại duyên bên trong; đây là Phật pháp cao minh; v́ thế Phật pháp được gọi là “nội học” là dạy bạn không phan duyên bên ngoài. Cảnh giới bên ngoài, thuận cảnh cũng tốt, nghịch cảnh cũng được; người tốt cũng được, người xấu cũng chẳng sao, bạn không cần để ư. Bạn đối với cảnh bên ngoài tâm luôn chân thật cung kính, thuận cảnh cũng như thế mà nghịch cảnh cũng như vậy; đối xử người thiện và người ác b́nh đẳng như nhau, tuyệt đối không được phân biệt, chỉ có tâm chân thành. Bạn vận dụng được tâm này th́ không những người tốt, người thiện ca ngợi bạn mà người xấu cũng tán dương bạn; người xấu được bạn cảm hóa, đoạn ác tu thiện. V́ thế, Lục Tổ Huệ Năng nói rất hay :“Nếu là bậc chân tu th́ không thấy lỗi của người !”

Người thường thấy lỗi thế gian là tự rước họa vào thân. Ngày nay, chúng ta mắc chứng bệnh nặng này rất phổ biến; từ sáng đến tối luôn thấy lỗi của người khác mà không thấy lỗi ḿnh. Khi nào chúng ta không thấy lỗi người khác mà chỉ thấy lỗi ḿnh th́ chúng ta thành công.  Công phu tu tập của bạn đạt được hiệu quả, bạn được thọ dụng thật sự !

Người khác th́ thế nào ? Họ tự có nhân quả của họ, quan trọng là chính ḿnh. Nhân quả của họ, bạn không thể chịu thay cho họ, cũng không thể giúp họ thay đổi. Huống ǵ ở thời buổi này, ai chịu nói lỗi của người khác ? Người xưa cũng không nói. Chúng ta đọc Lễ kư, tác phẩm đời Hán ghi, người nào nói lỗi của bạn ? Chỉ có cha mẹ của bạn và thầy giáo của bạn. V́ họ có trách nhiệm dạy dỗ nên mới nói lỗi của bạn, bạn không được căi lại. Bạn nói lỗi của bạn đồng học th́ bị họ oán hận, thù hiềm ŕnh chờ cơ hội báo thù. Do đó, ai chịu nói lỗi cho ḿnh? Không có người nào chịu cả.

Phật, Bồ-tát giảng kinh, thuyết pháp một cách khéo léo để chúng ta nghe rồi nghĩ lại, ḿnh có lỗi hay không, nếu có lỗi th́ hăy mau mau tự ḿnh phản tỉnh; đây gọi là “có lỗi th́ sửa, không có lỗi th́ khen ngợi”. Các Ngài không nói thẳng lỗi của chúng ta mà các Ngài chỉ nói một cách khéo léo để chúng ta tự ḿnh phản tỉnh, tự giác ngộ, v́ tâm của các Ngài thanh tịnh. V́ thế trong kinh luận nói lỗi lầm của hàng phàm phu rất nhiều, nhưng trên thực tế Đức Phật chẳng thấy lỗi lầm của người nào; đây là sự tài t́nh trong cách dạy học của Đức-Phật nên Ngài chẳng mất tâm thanh tịnh.

Chúng ta phải hiểu rơ những điều này để tự ḿnh phản tỉnh, hiểu được ḷng từ bi chân thành của Chư Phật, Bồ-Tát thật bao la. Chỉ cần chúng ta tự nỗ lực, tu hành đúng lời dạy của các Ngài, không cần quan tâm đến hoàn cảnh th́ tự nhiên có Phật hộ niệm; Hộ pháp, Thiện-thần ủng hộ chúng ta. Chúng ta không cần lo lắng có người đến phá hoại, gây chướng ngại. Bằng không, dù người khác không đến gây chướng ngại mà chính ḿnh lại tự gây chướng ngại trước. Chúng ta nghĩ làm việc ǵ th́ đó chính là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước làm hỏng chính ḿnh trước tiên; điều này chúng ta cần phải nh́n kỹ mà buông xả.

Chúng ta phải tin chắc có sự hộ niệm của Chư Phật. Sự hộ niệm này chính là tất cả chư Phật thường nhớ nghĩ và quan tâm chúng ta; đây là sự thật. Hộ pháp, Thiện thần tôn kính, khâm phục nên luôn luôn ủng hộ chúng ta. C̣n nếu ḿnh luôn nghi ngờ th́ chẳng những Đức Phật không hộ niệm mà Thiện thần, Hộ pháp cũng không che chở. Chúng ta phải tự xét kỹ, bằng không th́ chịu thiệt tḥi rất lớn.

V́ thế, hai chữ “tin Phật” thật không dễ dàng, tin Phật rồi, chúng ta có c̣n vọng tưởng không? C̣n lo âu, c̣n bận tâm không ? Tất cả đều không c̣n, như thế mới nhất tâm hướng về đạo. Đạo ở đâu ? Đạo chính là ngay trong cuộc sống, là chuyện ăn cơm, mặc áo. Chúng ta đọc đoạn mở đầu trong Kinh Kim Cang ghi :“Đức Phật Thích-Ca đắp y, ôm bát, vào thành Xá-Vệ khất thực”; đây chính là đạo. Do đó, chúng ta có thể biết trong cuộc sống thường ngày chẳng có ǵ thay đổi, công việc hằng ngày cũng như vậy; những việc xử sự, đăi nhân tiếp vật, xă giao vẫn như thường.

Phật, Bồ-tát khác với phàm phu ở điểm nào ? Phàm phu khởi tâm động niệm trong tất cả cảnh duyên v́ phân biệt chấp trước nên trái với đạo. C̣n Phật, Bồ-tát ngay trong cuộc sống không khởi tâm động niệm, không phân biệt, không chấp trước, hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức. Cuộc sống của các Ngài tự tại, giao tiếp tự tại, được đại tự tại, được đại viên măn.

Đại tự tại, đại viên măn đều từ trong tâm thanh tịnh sanh ra. Kinh Kim Cang nói rất hay :“Tín tâm thanh tịnh th́ sanh thật tướng” tức là sanh trí tuệ thật tướng Bát-nhă. Trí tuệ thật tướng Bát-nhă hiện ra th́ làm sao mà không được tự tại ! Làm sao mà không viên măn !  Rốt cuộc đều do tâm thanh tịnh !

V́ thế, người tu hành ở bất cứ lúc nào, nơi nào cũng luôn luôn giữ tâm thanh tịnh, cũng chính là Giác, Chánh, Tịnh mà phần trước nói là Tam-quy. Giác là không mê, Chánh là không tà, Tịnh là không nhiễm. Đạo lư niệm Phật cầu sanh về Tịnh độ như thế, lẽ nào chúng ta không được văng sanh ?

Nói về nhân duyên ở đời, như trong kinh Đức Phật dạy :“Chúng ta có thể làm được việc thế gian, nhưng không được làm theo ư thế gian”. Hai câu nói này thật là hay. Việc thế gian chúng ta có thể làm được, Kinh Hoa nghiêm ghi:“Lư sự vô ngại, sự sự vô ngại”.Vậy chướng ngại ở đâu ? Chướng ngại ở ư thế gian. Ư thế gian là ǵ ? Là vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Bạn phải đoạn trừ những thứ này. Ư nghĩa hai câu này rất là sâu rộng.

Đức Phật thuyết pháp suốt 49 năm, giảng kinh hơn ba trăm hội. Ngài giảng điều ǵ ? Chính là giảng những điều này, muôn ngh́n lời nói, nói không cùng, đối với người, đối với việc, đối với sự vật; chúng ta nghĩ như thế nào ? Nghĩ là sai lầm, nghĩ là rơi vào trong ư thức, nghĩ chính là vọng tưởng.

Có lẽ bạn hỏi : Chẳng phải mọi người đều phải suy nghĩ đó sao ? Không sai ! Mọi người đều là phàm phu, đều có vọng tưởng. Có phải ai cũng như thế không ? Chỉ trừ Phật, Bồ-tát không suy nghĩ như vậy. Đáng tiếc là bạn chưa thấy, những điều bạn thấy đều là phàm phu; cho nên, bạn cho việc ḿnh suy nghĩ b́nh thường.

Tại sao Phật, Bồ-tát không có suy nghĩ như thế? Bởi v́, các ngài biết vạn pháp đều không. Trong Kinh Kim cang ghi :“Không thể nắm bắt được tâm ba thời”. Các ngài biết nghĩ là không, các pháp do duyên sinh, duyên sinh là tánh không, nên nghĩ cũng là không th́ có ǵ đâu để mà suy nghĩ ! Các ngài không suy nghĩ, nhưng đối phó sự việc lại có thể chu đáo mọi mặt. Tại sao các ngài làm chu đáo ? Là phát xuất từ trí tuệ.

Tôi nêu ra một ví dụ, khi chúng ta đọc kinh điển thấy lời Đức Phật dạy có hay không ? Rất có thứ tự, lớp lang không một chút lộn xộn; bất luận là giảng lư hay sự, đều đâu ra đó. Phật không khởi ư niệm :“Lần này, Ta phải giảng pháp như thế nào ?”. Chưa hề, Ngài không khởi tâm, không động niệm, hoàn toàn tùy thuận tự tánh, từ trong tâm tánh phát ra tự nhiên như thế.

Chúng ta c̣n khởi tâm động niệm nên hành động c̣n nhiều thiếu sót. V́ sao nhiều người giảng mà chẳng có ai thành công, tại sao nhiều người viết sách mà chẳng có ai viết hay ? Cho nên, chúng ta học Phật là học không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, mọi việc đều dùng tâm chân thành. Tâm chân thành tất nhiên phát sinh trí tuệ, nên tự nhiên được chư Phật gia tŕ. Sự gia tŕ này chính là sự hộ niệm, sự quan tâm của chư Phật.

Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Tứ hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật, đồng đức đồng tâm. Chúng ta có hiểu được ư nghĩa này không ? Ngay trong cuộc sống thường ngày chúng ta làm được bao nhiêu phần ? Đây chính là điều chúng ta tu hành. Tại sao chúng ta hành không đạt hiệu quả ? V́ sao không cải thiện được cuộc sống của chúng ta ? Nguyên nhân là ở tại chỗ này.

Chúng ta xét kỹ lại ḿnh, tự kiểm điểm ḿnh th́ thấy chúng ta làm sai rồi ! Hôm nay chúng ta thuận theo phiền năo, tùy thuận tập khí. Phiền năo là tham, sân, si. Chúng ta tùy thuận mấy thứ này; mắt thấy sắc đẹp, tai nghe tiếng hay, liền khởi tâm tham đắm, khởi tâm kiêu mạn, việc ǵ không vừa ư th́ nổi giận; những điều này đều là ngu si.

Thế nên, có người này nh́n bề ngoài dường như là học Phật, nhưng trên thực tế đối với người, đối với việc, đối với sự vật th́ luôn khởi tâm động niệm chẳng có chút ǵ sửa đổi.   Trong kinh Đức Phật dạy hai chữ “thọ tŕ”; chẳng những chúng ta không làm được mà không hiểu ư nghĩa hai chữ này, nếu có hiểu th́ lại hiểu sai; cho rằng mỗi ngày tôi tụng kinh một lần là thọ tŕ. Chúng ta biết sai ở đâu không?

Tôi nói thật, chúng ta muốn đạt được hiệu quả công phu tu tập là cải thiện cuộc sống của chúng ta, chẳng những cải thiện đời sống hiện tại mà c̣n cải thiện đời sau. Cuộc sống đời sau, ư nghĩa này thật là rất dài. Theo cách sống hiện tại của chúng ta đúng như trong Kinh luận, Đại-thừa, Tiểu-thừa Đức Phật dạy : sau khi chúng ta mất thân người, đời sau muốn được thân người, thật là khó ! Vậy chúng ta sẽ đi về đâu ? Phần đông đọa trong ba đường ác !

Làm sao chúng ta biết ḿnh đọa vào ba đường ác ? Chỉ cần nghe mọi người nói một câu th́ biết rơ :“Chết rồi làm quỷ”. Mọi người đều cho rằng, sau khi chết rồi đều làm quỷ. Tôi chưa nghe ai nói chết rồi làm người mà chỉ nghe nói sau khi chết rồi làm quỷ.

Đức Phật thường dạy chân lư :“Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”. Theo cách nghĩ của bạn người chết đều thành quỷ. Bạn có ư nghĩ, quan điểm như vậy th́ nhất định bạn đi làm quỷ rồi! Có bao nhiêu người suy nghĩ sau khi chết được làm người, hoặc sanh lên cơi Trời hay làm Phật, Bồ-tát; điều này rất ít nghe nói đến, chỉ có nghe người chết đều bị làm quỷ. Chúng ta không nên cho câu nói này là b́nh thường, chưa chắc là đúng. Thật ra câu nói này là đúng, câu nói này thật không b́nh thường.

Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh, Kinh Hoa-Nghiêm ghi :“Duy tâm sở hiện, duy thức sở biến”. Đây cũng là lời Đức Phật dạy, con người sau khi chết, được thân người lại rất khó; huống ǵ theo nguyên lư kinh Phật đă dạy, đời sau muốn được làm thân người th́ nhất định phải đầy đủ điều kiện của năm giới. Năm-giới với năm-thường của nhà Nho so sánh cũng gần giống nhau. Năm thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

1. Nhân : Là nhân từ chúng ta làm được không ? Đối với người, đối với vật chúng ta có ḷng nhân từ chưa ?

2. Nghĩa : Đối với người, đối với sự vật, chúng ta có tận tâm làm tṛn nghĩa vụ chưa ? Tuy có thù lao, nhưng không xem trọng thù lao mà cho là việc bổn phận của ta. Chúng ta phải tận tâm tận lực làm cho tốt; đây là đạo nghĩa, nhưng không nên xem là trả thù lao. Thù lao nhiều th́ tôi làm nhiều, thù lao ít th́ tôi làm ít, hạng người này không có nghĩa.

3. Lễ : Giữa người với người phải có lễ phép qua lại.

4. Trí : Nói đơn giản là lư trí, chẳng phải theo t́nh cảm mà làm việc.

5. Tín : Là tín dụng, chữ tín rất quan trọng là “không dối ḿnh, không lừa người”. Tự lừa dối ḿnh là lương tâm bị mê muội. Chúng ta thường nghe tục ngữ nói “Người không có lương tâm”. Người không có lương tâm th́ bàn đến chữ tín làm ǵ ? Bên trong lương tâm mê muội; bên ngoài dùng nhiều thủ đoạn tinh vi lừa gạt người khác.

Người nào phạm năm điều này th́ đời sau không làm được thân người. Chúng ta làm được năm điều này th́ lương tâm không có hổ thẹn, chắc chắn đời sau được làm thân người. Chúng ta xem những người này trong xă hội ngày nay, lại so với ḿnh, điều quan trọng nhất là tự kiểm điểm ḿnh, tự ḿnh có làm được hay không ? Tự ḿnh đời sau có được thân người không ? Nếu như chúng ta không có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín th́ đời sau nhất định đọa trong ba đường ác.

Như tôi vừa nói, mọi người đều nói sau khi chết làm quỷ, trong sáu đường luân hồi, không đến đường khác mà cứ khăng khăng chọn đường quỷ, nhưng đă nói đến đường quỷ th́ phải có lư của nó. Điều kiện của đường ngạ quỷ là tâm tham; tham danh tiếng, tham lợi dưỡng, tham sắc đẹp; đối tượng tham rất nhiều, chỉ cần nặng tâm tham là nghiệp nhân của đường ngạ-quỷ. Tâm nặng sân hận, ganh tỵ là nghiệp nhân của đường địa-ngục. Không có trí tuệ, không phân biệt được thật-giả, chánh-tà, thiện-ác là nghiệp nhân của đường súc-sinh. Tham, sân, si là nghiệp nhân của ba đường ác. Chúng ta tự xét ḿnh có tham, sân, si không ? Tham, sân, si, ư niệm này có nghiêm trọng không ? Nếu như ư niệm này nặng th́ chúng ta phải luôn cảnh giác. Nếu không cảnh giác th́ tương lai của chúng ta sẽ tăm tối, chúng ta muốn nghĩ đến niệm Phật cầu sanh về thế giới Tây phương Cực-Lạc th́ nhất định phải diệt tham, sân, si; siêng tu ba tư-lương là Tín, Nguyện, Hạnh theo đúng lời Phật dạy mà tu hành.

Đời nay, chúng ta không để thời gian trôi qua uổng phí, nhân duyên đời này thù thắng không ǵ sánh bằng. Chúng ta thật sự gặp được Phật pháp, lại gặp được pháp môn Tịnh độ rất thù thắng. Duyên phận này không thể nghĩ bàn, trong bài kệ khai kinh ghi :“Trăm ngh́n vạn kiếp khó gặp được”. Chúng ta đă gặp được rồi, nhân duyên thiện căn, phước-đức đầy đủ; nếu như tự ḿnh không nắm bắt để nó trôi qua th́ thật là đáng tiếc.

Đức Phật của chúng ta cách nay hơn 2500 năm mà Ngài đă biết trước được những chướng ngại của chúng sanh tu học Phật pháp trong thời kỳ mạt pháp, những lời vàng ngọc của Ngài vẫn c̣n lưu lại trong kinh điển. Điều đó chứng tỏ Ngài đúng là bậc Nhất-Thiết-Trí, Vô-Thượng Tôn-Sư. Nếu Ngài không phải là bậc Nhất-Thiết-Trí, Vô-Thượng Tôn-Sư th́ không nói được như thế !

V̀  SAO  CẦN   PHẢI  SIÊU  ĐỘ  VONG   NHÂN

Nguồn gốc việc siêu độ :

Trong nhà Phật, việc siêu độ vô cùng phổ biến. Có thể nói thời đại này, vong nhân là đối tượng chủ yếu của Phật sự. Trước đây Phật-giáo dạy người sống, Phật-giáo ngày nay lại độ cho người chết.

Đó là lư do Phật-giáo bị nh́n nhận dưới góc độ mê tín dị đoan. Nhiều người cho rằng Phật-giáo là tôn giáo thấp kém, họ kịch liệt bài xích. Trong khi Phật-giáo đích thực không phải để siêu độ người chết.

Lăo Pháp-sư Đạo An đă từng giảng, nguồn gốc của việc siêu độ bắt đầu từ thời đại Đường Minh Hoàng. Thời Đức Phật không có, Phật-giáo truyền đến Trung Quốc thời kỳ đầu cũng không ghi chép sự việc này. Đến thời đại của Đường Minh Hoàng, v́ vua Đường sủng ái Dương Quí Phi, khiến nhân dân và triều thần bất măn, mới có loạn An Lộc Sơn nổi tiếng trong lịch sử suưt nguy cấp đến cả quốc gia dân tộc. Với sự đắc lực của Quách Tử Nghi, một vị đại tướng đương thời đă b́nh định cuộc nổi loạn, tuy nhiên, quân dân tử thương rất nhiều. Sau khi b́nh định cuộc nổi loạn, triều đ́nh tại mỗi chiến trường chính, xây dựng một miếu thờ gọi là Khai Nguyên Tự, v́ đúng vào niên hiệu Khai Nguyên, thỉnh cao tăng đại đức, tụng kinh, bái sám truy điệu cho quân dân tử nạn. Đây là lễ truy điệu do triều đ́nh cử hành, gọi là pháp hội siêu độ. Từ đó dân chúng học theo, mỗi khi có người qua đời, người dân cũng thỉnh Pháp-sư đến làm Phật sự siêu độ, tạo phong tục cho đến ngày nay.

Tuy nhiên pháp hội siêu độ vào thời đó cũng không nhiều, một năm chỉ có đôi ba lần, công việc chủ yếu của tự viện am đường vẫn là giảng kinh thuyết pháp. Chúng ta cần hiểu rơ đạo lư này. Chúng tôi đă xây dựng đạo tràng ở Đài Bắc, thư viện nghe nh́n Phật-giáo, mỗi năm cũng chỉ có ba lần pháp hội siêu độ : Thanh Minh, Trung Nguyên, Đông Chí. Phương thức chủ yếu là mở khóa Phật thất, dùng công đức niệm Phật hồi hướng cho người mất. Ngày cuối cùng Phật thất, tổ chức tam thời hệ niệm. Hiện tại, rất nhiều nơi cũng dùng phương cách này. Ấn Quang đại sư năm xưa c̣n sống, niệm Phật đường của chùa Linh Nham Sơn không có Phật sự. Phật tử yêu cầu siêu độ tổ tiên, người thân quyến thuộc th́ đều để bài vị ở niệm Phật đường, chùa không làm riêng lẻ cho bất cứ ai mà lấy công đức niệm Phật của đại chúng ở niệm Phật đường hồi hướng. Cách làm này rất đáng được học tập và nhân rộng.

V́ sao phải tụng kinh siêu độ ?

Ư nghĩa của tụng kinh siêu độ so với h́nh thức truy điệu của thế gian hẳn nhiên là sâu hơn. Truy điệu thế gian chỉ mang mục đích kỷ niệm, tưởng nhớ, tuyên dương những cống hiến lúc người đó c̣n sống, xong rồi quên lăng. Nhưng ư nghĩa tưởng nhớ trong Phật pháp th́ sâu hơn. Tụng kinh, niệm danh hiệu Phật, Bồ-Tát là kiểu truy điệu có ư nghĩa thực chất nhất.

Người xưa có câu :“Thế gian hảo ngữ Phật thuyết tận”. Việc tốt ở thế gian Đức Phật đều đă làm. Cho nên chúng ta hăy học theo lời Đức Phật để truy điệu người quá cố bằng những việc tốt mà thuật ngữ nhà Phật gọi là công đức chân thực. Người mất nh́n thấy việc làm của chúng ta, họ vô cùng hoan hỷ. Người sống thực tập như lư như pháp th́ lợi ích người mất nhận được một phần. Đạo lư này người b́nh thường khó có thể hiểu được, đôi khi c̣n cho là hoang đường. Chỉ khi tu học, chúng ta mới liễu ngộ, mới hiểu được chân tướng sự thật. Ngày nay ít người hiểu hoặc hiểu sai quá nhiều. Cho nên cần phải nâng cao cảnh giới của ḿnh th́ mới có thể có nhận thức chân thực triệt để.

Kinh Địa-Tạng đưa ra h́nh ảnh nữ Bà la môn siêu độ mẹ ḿnh, không thỉnh Pháp-sư đến làm Phật sự, không hề mời người đến tụng kinh, mà cô dùng phương pháp tu học. Dùng bản thân đích thực quay đầu, đoạn ác tu thiện, sửa chữa lỗi lầm, chân thành sám hối. Sau đó lấy công đức này để tưởng nhớ mẹ. Mẹ cô nhờ đó mới triệt để đoạn ác tu thiện, đích thực phá mê khai ngộ, bà từ địa ngục liền được sinh thiên. Thế nhưng nếu tư duy và quan sát tỉ mỉ, chúng ta sẽ thấy nữ Bà la môn nhờ mẹ tạo ác, đọa địa ngục, nên cô mới có động lực quyết tâm tu hành nghiêm túc. Công phu của cô là cảnh giới A La Hán, thật sự chuyển phàm thành thánh. Người giúp cô đạt đến cảnh giới này chính là mẹ cô. Nhờ duyên của mẹ thúc đẩy cô tu hành chứng quả. Khi đă chứng quả, công đức đạt được lại làm vẻ vang cho mẹ ḿnh. Mẹ cô siêu sinh từ địa ngục lên cung trời Đao Lợi. Chúng sinh ngày nay chỉ biết làm theo h́nh tướng mà không hiểu nội dung thực chất cho nên không đạt hiệu quả lớn.

V́ sao phải tạo nhiều tượng Phật ? Số tiền này đem cứu giúp người nghèo khổ bị nạn không tốt hơn sao ?

Không thể nói không có lư, cũng không thể nói hoàn toàn có lư. V́ sao ? Chúng ta chỉ thấy gần mà không thấy xa. Cứu giúp người nghèo khổ là giải pháp nhất thời, c̣n tạo nhiều tượng Phật là việc cứu người dài lâu. Nhà Phật tạo tượng không phải v́ niềm tin mê tín. Ông Dương, trưởng ban tôn giáo nhà nước Trung Quốc, thời gian qua tiếp xúc với chúng tôi đă nói đến ư nghĩa giáo dục của tượng Phật. Chúng tôi cũng đă bày tỏ, nhà Phật đem giáo dục và nghệ thuật hợp lại thành một thể. Giáo dục đạt đến nghệ thuật hóa tối cao, nhà trường và bảo tàng cùng kết hợp, không những tạo tượng mà tất cả các thiết chế đều là công cụ dạy học, từ tượng Phật đến kiến trúc của nhà Phật. Đời sống cũng là công cụ dạy học, thậm chí tham gia sự kiện, chúng tôi ăn mặc không khác người b́nh thường. Chúng tôi đặc biệt t́m bộ áo tràng lam màu cà phê v́ màu này tượng trưng của nền văn hóa đa nguyên. Các loại màu sắc trộn lẫn với nhau, gồm đỏ, vàng, lam, trắng, đen, mà người Trung Quốc thường gọi là ngũ sắc tượng trưng cho năm chủng tộc thống nhất thành một. Màu sắc này là màu của hợp nhất. Thân thể này của chúng tôi là tổng hợp của tất cả tôn giáo, tất cả các chủng tộc, tất cả chúng sinh tận hư không khắp pháp giới.

Theo kinh Hoa Nghiêm, “Một chính là tất cả, tất cả chính là một”. Một màu áo này của chúng tôi chính là các loại màu khác nhau của mọi người. Chúng ta ngày nay cần phải đoàn kết tôn giáo, ḥa hợp chủng tộc, đó là giáo học của nhà Phật. Đại kinh thường nói :“Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”, màu này là màu tâm bao thái hư, lượng khắp pháp giới. Chúng ta ăn cơm, dùng bát, thức ăn mỗi nhà cho đều đựng chung một bát, ẩm thực khác nhau hợp lại thành một. Cũng vậy, chúng ta ḥa trộn các chủng tộc khác nhau, tôn giáo khác nhau, hợp lại thành một. Đời sống đều là biểu pháp, mỗi niệm không quên.

Từ đó mà đạo tràng của nhà Phật có h́nh thức thống nhất. Ở Trung Quốc, bước vào trước tiên phải từ tam môn, tam môn Thiên Vương Điện, thấy được Bồ-tát Di Lặc với h́nh ảnh ḥa thượng Bố Đại, bụng rất to bao dung khắp cả pháp giới, mỉm cười đón mọi người, tâm thường hoan hỷ, điều ǵ cũng có thể chịu đựng. Tứ Đại Thiên Vương biểu tượng hộ pháp cho chính ḿnh. Ở phương Đông, Tŕ Quốc Thiên Vương biểu trưng cho chức trách. Dù địa vị là ǵ, trong ngành nào, chúng ta phải nỗ lực làm tốt. Cống hiến cho xă hội, cho chúng sinh không phải v́ bản thân. Tạo phước cho chúng sinh, nhất định phải làm hết chức trách. Trên tay cầm đàn tỳ bà, không phải v́ vị đó thích ca hát. Tỳ bà là biểu pháp, đại biểu cho trung đạo, nhà Nho gọi là trung dung. Có nghĩa là làm việc phải đến nơi đến chốn, vừa đủ, không nên quá mức. Chúng ta đối với người, với việc, với vật cũng vậy, đều phải vừa chừng, giữ nề nếp và tṛn bổn phận. Chẳng hạn, hiện nay trên thế giới lễ tiết của mỗi nước khác nhau. Lễ kính nhất là ba lần cúi chào, dành cho t́nh huống gặp người tôn kính. Hai lần cúi chào chứng tỏ người ngạo mạn. Bốn lần cúi chào chứng tỏ người đó nịnh bợ. Phương nam có Tăng Trưởng Thiên Vương, “tăng trưởng” là cầu tiến, mỗi ngày mỗi mới, quyết không dừng ở hiện tại, cầu trí tuệ, trí tuệ phẩm đức phải tiến bộ, sự nghiệp thăng hoa, đời sống ngày càng viên măn. 

Cho nên tạo tượng có ư nghĩa giáo dục vô cùng sâu sắc, giúp chúng ta hiểu và sửa sai. Nh́n thấy Bồ-tát Di Lặc bao dung, chúng ta liền nghĩ ḿnh chưa bao dung, sinh tâm hổ thẹn mà quyết tâm học tập theo ngài. Ư nghĩa của công đức tạo tượng so với cứu giúp người nghèo khổ sâu xa vô cùng. Danh hiệu Phật, Bồ-Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên, tướng tốt vô lượng vô biên. Ư nghĩa giáo dục là như vậy.

Phật-giáo là trường đại học đầy đủ các khoa, nhưng chỉ dùng danh hiệu Phật, Bồ-Tát làm đại diện. Nó là giáo dục mà không phải là tôn giáo, là trí tuệ, nghệ thuật mà không phải là mê tín. Nơi nào phổ biến giáo dục Phật pháp, nơi đó không có người nghèo khổ. Phương cách cứu giúp này mới triệt để. V́ mỗi người đều có tâm thiện, nghĩ thiện, làm việc thiện, mỗi người đều có thể hiến dâng ḿnh, v́ xă hội, v́ chúng sinh, tạo phước th́ thế giới này là thế giới của hạnh phúc.

Đem tiền đi cứu giúp người nghèo khổ là việc tạm thời, c̣n dùng tiền để tạo tượng, hoằng dương giáo dục của Phật Đà mới là cách cứu giúp lâu dài, triệt để, và viên măn nhất. Kinh Phật nói, dùng bảy báu của đại thiên thế giới đem cứu khổ cứu nạn, công đức đó không bằng người có tâm v́ tất cả chúng sinh nói chỉ vỏn vẹn bốn câu kệ khiến người khai ngộ. Cứu tế không thể giải quyết vấn đề v́ đời sống dựa vào cứu giúp. Phật không dùng cách cứu tế để giúp đỡ người, ngài dạy chúng ta mở trí tuệ, có năng lực, dạy chúng ta tự sản xuất không những có thể nuôi sống ḿnh mà c̣n có thể giúp ích xă hội. V́ vậy lợi ích công đức thù thắng của Phật pháp là vô lượng vô biên. Tiếc là ngày nay rất ít người giảng giải, rất ít người phát huy rộng răi nên khiến mọi người trong xă hội hiểu lầm. Đây cũng là lỗi của bốn chúng đệ tử Phật môn chúng ta do chưa làm hết trách nhiệm !

LƯ  LUẬN  VỀ   VIỆC  SIÊU  ĐỘ

Tháng bảy âm lịch là tháng cô hồn. Rất nhiều quỷ quái trong âm gian địa phủ xuất hiện ở nhân gian. V́ vậy trong tháng này, việc Phật sự siêu độ theo đó cũng rất bận rộn. Một số thắc mắc được đặt ra :“Liệu việc siêu độ rốt cuộc có hiệu quả hay không ? Việc siêu độ có nhất thiết phải do người xuất gia thực hiện hay không ?”.

Nhà Phật có phương pháp và lư luận của việc siêu độ rất hợp t́nh, hợp lư và hợp pháp. Thế nhưng cách thức siêu độ quy mô lớn này lại không thường thấy trong Phật giáo nguyên thủy. Ngay trong kinh điển đại-thừa Trung Quốc phiên dịch, ghi chép việc này rất rơ ở “Kinh Địa-Tạng Bồ-Tát Bổn Nguyện”. Trong kinh cho thấy nữ Bà la môn, nữ Quang Mục đều là người trẻ tuổi hiếu thảo. Cha mẹ của họ do thiếu tri thức đă tạo nhiều nghiệp tội phải đọa vào ba đường ác.

Chúng sinh tạo tác nghiệp tội, gieo nhân lúc sinh thời :

Đức Phật nói, mười pháp giới là cảnh giới hư huyễn, do vọng tưởng phân biệt chấp trước của chúng sinh mà biến hiện ra. Cũng giống như trong mộng, cảnh giới trong mộng tuy không thật, nhưng không thể nói nó không có. T́nh trạng sáu cơi cũng vậy, do vọng tưởng, phân biệt, cộng thêm chấp trước nghiêm trọng liền biến hiện ra tướng sáu cơi luân hồi. Hay nói cách khác, nếu chúng sinh không vọng tưởng, phân biệt chấp trước, không những không có lục đạo, mà mười pháp giới cũng không có. V́ vậy Đức Phật nói, những hiện tượng này như mộng huyễn, và những hư ảo này chỉ tồn tại khoảng thời gian không lâu. Đức Phật lại nêu ra một ví dụ “Như sương cũng như điện”. Sương là giọt sương tan biến khi mặt trời xuất hiện, thời gian tồn tại của nó không dài. Điện là tia chớp, thời gian tồn tại càng ngắn hơn. Trong Kinh Bát Nhă, Đức Phật cũng đem chân tướng sự thật này nói rất rơ ràng tường tận. Lư luận và phương pháp siêu độ cũng không rời khỏi nguyên lư này.

Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cơi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật. Ví như người trong mộng thấy mộng, mộng là giả, trong mộng nếu gặp hổ muốn ăn thịt, th́ người nằm mộng cũng sẽ khiếp vía toát cả mồ hôi. Khi tỉnh mộng, tâm vẫn c̣n sợ hăi. Cảnh giới hư ảo nhưng cảm thọ lại thật. Sống trong ác đạo phải thọ những khổ đau này. Kinh điển có ghi chép, A La Hán là người đắc đạo, không phải phàm phu. Phàm phu chúng ta không thể nhớ được chuyện quá khứ, nhưng A La Hán có thể nhớ được hành vi tạo tác trong năm trăm kiếp quá khứ, bao gồm những việc khổ vui đă nhận chịu, hoặc ngay trong năm trăm đời đă từng đọa địa ngục. Đức Phật giảng kinh thuyết pháp cũng nhắc đến hoàn cảnh trong địa ngục khiến người ngồi nghe, tâm c̣n run sợ, thậm chí toàn thân rướm máu.

Phương thức quy nạp nghiệp nhân trong mười pháp giới :

Đức Phật dạy người không vọng ngữ, bản thân ngài tuyệt nhiên không vọng ngữ, mỗi câu đều là chân tướng sự thật. Do đó phải tin rằng ba đường ác vô cùng đáng sợ. Người tạo ác nghiệp sẽ chiêu cảm cảnh giới ba đường ác : địa ngục, ngă quỷ, súc sinh. Không phải Diêm La Vương bắt cũng không phải Phật, Bồ-Tát trừng phạt. Phật, Bồ-Tát đại từ đại bi, tuyệt đối không trừng phạt người ác. Đức Phật vẫn nói “tự làm tự chịu”, mỗi người tự tạo loại nghiệp th́ tự nhiên sẽ cảm được quả báo, nhân quả nghiệp báo vô cùng phức tạp. Ngài có thể giảng rơ ràng, nhưng lư cao sâu, chúng sinh không thể tiếp thu cũng không có tuổi thọ dài để lĩnh hội. Cho nên ngài dạy chúng sinh chọn lấy phương pháp tự nhiên đơn giản, đó là phương pháp quy nạp. Đức Phật quy nạp nghiệp nhân trong mười pháp giới, từ thấp từng bậc từng bậc mà giảng lên cao.

+ Nghiệp nhân của địa ngục : là sân hận, tâm sân cảm địa ngục. Người mang tâm sân hận nặng, chắc chắn sinh đố kỵ, thủ đoạn tàn nhẫn, tạo tác nghiệp tội cực trọng, chiêu cảm quả báo địa ngục th́ tự nhiên biến hiện ra cảnh giới địa ngục.

+ Nghiệp nhân của ngạ quỷ : là tham không chán, tức hưởng thụ chiếm hữu, giành giựt danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần bất chấp thủ đoạn, tâm tham sinh bỏn xẻn, không xả cho người khác, liền biến hiện ngạ quỷ.

+ Nghiệp nhân của súc sinh : là ngu si. Không có năng lực phân biệt chân vọng, không phân biệt chánh tà, thậm chí thị phi, thiện ác, lợi hại đều lẫn lộn bất phân. Người ngu si thường đem tà ác cho là việc tốt, đem chánh pháp xem thành tà pháp. Ngu si là không có trí huệ, không có năng lực phân biệt, tự nhiên sẽ rơi vào đường súc sinh.

Ba đường ác, sáu cơi luân hồi là cảm thọ từ những việc làm của chính chúng ta, không phải do sức mạnh nào đó đang chi phối, an bày hay trừng phạt, mà là chiêu cảm tự nhiên của nghiệp lực.

+ Nghiệp nhân của cơi Người : là luân thường mà trong Phật pháp gọi là “Ngũ giới”: không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Nhà Nho Trung Quốc c̣n gọi là “Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín” tương đồng với nội dung ngũ giới của nhà Phật. Con người ngay trong đời, mọi sinh hoạt, lời nói việc làm đều phải tuân thủ nguyên tắc này th́ mới có thể giữ được thân người trong lục đạo. Hoàn toàn không có ngẫu nhiên.

+ Cơi Trời : phước báu của cơi Trời cao hơn so với cơi người, do đó điều kiện cũng cao hơn so với cơi người. Muốn đến cơi Trời phải tu mười điều thiện, tư tưởng hành tŕ phải tương ứng với mười điều thiện bao gồm : thân không sát sanh, trộm cắp, dâm dục; miệng không nói dối, nói hai chiều, nói lời ác, thêu dệt; ư không tham, sân, si. Ngoài ra c̣n pháp thiện cũng từ trong mười điều thiện này mà sinh ra. Người có thể tu mười nghiệp thiện, kết hợp với việc giữ Tứ vô lượng tâm, chắc chắn sẽ sinh thiên. Tứ vô lượng tâm là từ bi hỷ xả bao gồm : từ vô lượng, bi vô lượng, hỷ vô lượng, và xả vô lượng.

+ Cơi A Tu La : người tu ngũ giới mười thiện nhưng không có tứ vô lượng tâm, quả báo của họ biến thành Tu la. Không có tứ vô lượng tâm, hưởng phước rồi mê hoặc, điên đảo. Trong kinh Đức Phật nói, A Tu La không đoạn được tham sân si. Dùng tâm tham sân si tu mười nghiệp thiện, tu ngũ giới, họ có phước báu lớn của trời người nhưng lại không có đức của trời người. V́ thế A tu la có tính cách hung bạo, háo thắng, đố kỵ. Chẳng hạn, người mang tâm háo thắng mạnh khi đến thắp hương ở pháp hội, họ nhất định giành thắp hương đầu tiên, không bằng ḷng đứng sau người khác. Họ có tu thiện không ? Có, họ cũng tu tích công đức nhưng lại háo thắng. Quả báo luôn rơi vào đường Tu la.

Đức Phật dạy chúng ta tu tâm thanh tịnh, Bồ-tát đạo, tu tâm khiêm hạ, khiêm tốn nhường nhịn. Xem trong Kinh Hoa Nghiêm thấy được 53 vị đồng-tham, 53 vị pháp-thân đại-sĩ đều là Phật, Bồ-Tát. Thái độ đối nhân xử thế tiếp vật của họ rất khiêm nhường tôn kính, không một chút ư niệm ngạo mạn, không háo thắng. Học Phật đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức. Ngạo mạn háo thắng nếu không thể sửa th́ kết quả biến thành A tu la. Hướng lên trên là các Thanh văn tu tứ đế, “khổ tập diệt đạo”, bậc Duyên giác tu “thập nhị nhân duyên”, Bồ-tát tu “lục đạo”, Chư Phật tu “b́nh đẳng”. Thanh tịnh b́nh đẳng chính là Phật đạo. Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni đem nghiệp nhân phức tạp của mười pháp giới qui nạp lại thành trọng điểm dạy cho chúng ta giúp mọi người hiểu rơ nguyên nhân của quả báo. Đây là thường thức phổ thông của việc học Phật không thể không hiểu, không thể không biết.

Công đức siêu độ mẹ được nêu trong Kinh Địa-Tạng :

Đối với khởi tâm động niệm, chúng ta sẽ tự biết tương ứng với đường nào. Không hiểu đạo lư, không biết chân tướng sự thật, làm càng làm quấy, tạo ác nghiệp đọa vào ác đạo. Dù có con hiền cháu thảo cũng khó ḷng giải trừ được, huống hồ xă hội hiện nay người hiếu thảo càng ngày càng ít. Trong Kinh Địa-Tạng, nữ Quang Mục, nữ Bà la môn là những hiếu tử, thấy mẫu thân tạo tác tội nghiệp, rơi vào ác đạo, họ toàn tâm toàn lực nghĩ cách cứu giúp mẹ. Tâm chân thành liền cảm động Phật, Bồ-Tát.

Cần hiểu rơ Phật, Bồ-Tát không thể cứu giúp, các Ngài chỉ có thể đem phương pháp lư luận cứu giúp truyền lại cho chúng sinh. Phương pháp cứu độ chúng sinh là vô lượng vô biên, trong đó niệm Phật là phương pháp hữu hiệu nhất. Nữ Bà la môn được dạy phương pháp niệm Giác Hoa Định Như-Lai, tuy không niệm Phật A-Di-Đà, nhưng niệm Giác Hoa Định Như-Lai cũng như niệm Phật. Hiếu nữ này v́ muốn cứu khổ nạn cho mẹ, cô thường khuyên nhủ nhưng mẹ cô không tin, không thể tiếp nhận, cho nên bà gặp quả báo địa ngục. Theo lời Phật dạy, cô dụng công niệm Phật bằng tâm khẩn thiết. Sau khi nỗ lực hết ḿnh, niệm một ngày một đêm th́ cô được định.

Trạng thái nhất tâm bất loạn trong niệm Phật thuộc về sự công phu rất cao. Tâm của phàm phu là tán loạn. Niệm đến nhất tâm bất loạn tương đương với A La Hán của tiểu thừa, rất khó đạt được. Kinh Địa-Tạng là kinh đại-thừa, nữ Bà la môn không phải là A La Hán của tiểu-thừa nhưng công phu đoạn chướng của cô tương đương A La Hán, công đức tu tích vượt lên trên A La Hán, ngang hàng Bồ-tát. Đến cảnh giới định cô liền nh́n thấy địa ngục biến hiện ra. Trong địa ngục, quỷ vương gác cửa thấy cô liền cung kính gọi Bồ-tát và lễ phép chào hỏi. Cô liền hỏi quỷ vương về mẹ cô hiện ở nơi nào trong địa ngục. Quỷ vương chắp tay kính cẩn chúc mừng rằng nhờ cô phát nguyện siêu độ nên bà ấy đă thoát khỏi địa ngục, được sinh lên cơi trời. Cách siêu độ rất hiệu nghiệm mà không cần phải mời Pháp-sư đến tụng kinh, bái sám. Tự thân niệm Phật, niệm đến nhất tâm bất loạn, rồi dùng công đức này hồi hướng cho cha mẹ. Chúng ta nhất định phải thể hội chân thành. Tu hành chứng quả không dễ, tại sao nữ Bà la môn chỉ trong một ngày một đêm có thể niệm đến nhất tâm bất loạn ? Nếu mẹ cô không đọa địa ngục, không bị những khổ nạn, th́ cô sẽ không có động lực tha thiết niệm Phật đến vậy !

Ngày nay chúng ta niệm Phật nhiều năm tại sao ngay cả công phu cũng không đạt được huống hồ nhất tâm bất loạn. Đó là do chúng ta không có áp lực. Chỉ khi người thân yêu rơi vào A-Tỳ địa ngục, chịu những khổ nạn, chúng ta mới toàn tâm toàn lực muốn cứu giúp. Đức Phật truyền trao phương pháp này, chúng ta hăy nỗ lực tu hành. Mẹ của nữ Bà la môn đă làm tăng thượng duyên cho cô, nếu bà không bị đọa địa ngục th́ cô sẽ không có thành tựu này. Vậy nguồn gốc sâu xa là mẹ cô đă giúp cô, cô cũng giúp lại mẹ cô. Khi cô trở thành Bồ-tát, quỷ thần đối đăi cung kính với mẹ cô, không thể đối đăi như những tội nhân thông thường. Kinh nói “bảy phần công đức, ḿnh được sáu phần”, phần c̣n lại hồi hướng cho thân bằng quyến thuộc. Đôi bên đều được công đức mới thật sự viên măn !

Muốn siêu độ cho thân bằng quyến thuộc, chúng ta phải chăm chỉ tu hành, tích công lũy đức, thật tâm siêu độ. Việc tu hành thành tựu th́ người thân mới được độ. Cũng như ở thế gian, muốn cho cha mẹ tự hào, thân bằng quyến thuộc và mọi người trong xă hội tôn kính, chúng ta phải thành tựu học vấn, thành tựu đức hạnh của ḿnh. Đi đến đâu, chúng ta cũng được đặc biệt tôn trọng, quan tâm, chiếu cố. Đó chính là cảm ứng tự nhiên, là đạo lư. Khi hiểu rơ đạo lư này, lúc đó chúng ta có thể liên tưởng đến nguyên lư vừa nêu trong Kinh Địa-Tạng. Siêu độ nếu có công đức, có thể giúp đỡ vong gia đă tạo tác nghiệp tội.

Câu chuyện về nữ Quang Mục có chút khác biệt, công phu tu hành của cô không thù thắng như nữ Bà la môn. Cô cũng niệm Phật, trong thời gian rất ngắn đạt được cảnh giới định trong mơ. Cảnh giới trong định thù thắng hơn cảnh giới trong mộng rất nhiều. Cô có được cảnh giới trong mộng cũng được xem là thành tựu.

Chúng ta hết ḷng muốn cứu người thân nên mới liều mạng dụng công tu học, thành tựu của chúng ta cũng chính là thành tựu của họ, ta không thành tựu, th́ họ cũng không. Đây là nguyên tắc bất di bất dịch.

Siêu độ trong tự truyện “Cảnh Trần Hồi Ức Lục” của Pháp-sư Đàm Hư, Trung Quốc :

Lăo Pháp-sư Đàm Hư trong tự truyện mang tên: “Cảnh Trần Hồi Ức Lục”do đệ tử của ông là Đại Quang Pháp-sư ghi chép lại, quyển sách này lưu thông rất phổ biến ở Đài Loan, bên trong có một đoạn nói về việc siêu độ. Vào lúc đó Đàm lăo chưa xuất gia, ông xuất gia rất muộn, hơn 40 tuổi. Trước khi xuất gia, ông đă học Phật và rất dụng công. Trước lúc xuất gia ở Thiên Tân, ông cùng mấy vị đồng đạo hợp nhóm cùng nghiên cứu Kinh Lăng Nghiêm suốt tám năm lạnh giá. Trong số các bạn ông, có một vị họ Lưu mở tiệm thuốc Bắc cũng rất tâm đắc và lĩnh ngộ đối với Kinh Lăng Nghiêm. Tuy sự công phu c̣n kém xa so với nữ Bà la môn và nữ Quang Mục trong Kinh Địa-Tạng nhưng sự công phu của vị họ Lưu cũng có hiệu quả. Một buổi trưa nọ, tiệm thuốc vắng khách, buôn bán ế ẩm, ông Lưu ngủ gục trên quầy. Lúc đang ngủ, ông Lưu mộng thấy có hai người đi đến. Hai người này vốn trước đây là oan gia trái chủ của ông, họ thiếu nợ ông, và ông t́m đến họ đ̣i nợ. Hai người này v́ không có khả năng trả nợ nên treo cổ tự tử. Sau v́ việc này, ông Lưu thường cảm thấy rất khó chịu, nếu ông không t́m họ đ̣i nợ, th́ hai người này sẽ không treo cổ. Ông luôn cảm thấy hối tiếc và ăn năn về điều đó. Bây giờ nằm mộng gặp lại họ nên ông rất sợ bị gây phiền phức. Tuy nhiên hai người này vẻ mặt hiền lành, không bày tỏ thái độ muốn đến hại ông. Cho nên ông hỏi họ: “Các người đến làm ǵ ?” Hai người trả lời : “Chúng tôi đến muốn xin ông siêu độ”. Nghe đến đó, tâm ông Lưu liền được an, không lo sợ bị báo thù. Ông lại hỏi tiếp :“Vậy phải siêu độ thế nào cho các người ?”. Họ nói :“Chỉ cần ông đồng ư là được”. Ông Lưu gật đầu :“Được, tôi đồng ư”. Lập tức hai linh hồn này đạp vào đầu gối và đạp vào vai ông rồi được sinh lên trời.

Hai người này đi không bao lâu, lại có hai người nữa, chính là vợ con ông đă qua đời. Họ cũng đến quỳ trước mặt ông cầu xin siêu độ. Ông liền hỏi :“Làm thế nào để siêu độ ?”.  Cũng như lần trước, ông bằng ḷng và thấy hai hồn ma này đạp lên đầu gối, đạp vai ông mà sinh thiên. “Cảnh Trần Hồi Ức Lục” c̣n ghi rơ, siêu độ cần phải do chính chúng ta có công phu tu học. Không có công phu, không thể siêu độ cho người khác. Công phu của ông Lưu là tám năm lạnh giá học Lăng Nghiêm.

Nguồn gốc h́nh thức siêu độ quy mô lớn :

Chúng ta có thể đem câu chuyện trong “Cảnh Trần Hồi Ức Lục” cùng Kinh Địa-Tạng hợp lại mà khẳng định, loại Phật sự siêu độ qui mô lớn thời hiện đại không hề tồn tại vào thời Đức Phật. Thời gian đầu học Phật, chúng tôi cũng có nghi vấn về việc này và đă từng thưa hỏi với Pháp-sư Đạo An.

Năm xưa chúng tôi có mối quan hệ rất tốt với Pháp-sư Đạo An. Pháp-sư Đạo An thành lập Đại Chuyên Giảng Ṭa ở Đài Bắc, mời chúng tôi đảm nhiệm tổng chủ giảng. Chúng tôi liên lạc qua lại từ lúc ở Ṭng Sơn Tự sau đó dời đến cạnh Thiện Đạo Tự ở tầng trên của Đại Giảng Đường Hội Phật Giáo. Mỗi chủ nhật chúng tôi lên lớp một lần. Khi đó học sinh rất đông, khoảng hơn 800 người, miền Bắc từ Cơ Long, miền Nam từ Tân Trúc. Đó là thời kỳ hưng thịnh của Hội Phật Giáo. Pháp-sư Đạo An là người phụ trách kiêm chủ tịch giảng ṭa. Vào lúc đó ngoài chúng tôi, c̣n có Pháp-sư Ấn Hải, Pháp-sư Trí Dụ cùng phụ trách dạy học. Chúng tôi đă thỉnh giáo với lăo Pháp-sư Đạo An rằng : “Việc siêu độ từ đâu mà ra ?”. Ngài suy nghĩ một lúc rồi nói đại khái, căn gốc của việc siêu độ là từ vua Đường Minh Hoàng. Thời loạn An Sử, sau khi Quách Tử Nghi b́nh định động loạn, triều đ́nh ở mỗi một chiến trường lớn kiến lập một tự miếu gọi là Khai Nguyên Tự, v́ xây dựng vào niên hiệu Khai Nguyên. Xây dựng tự miếu này mục đích chính là truy điệu quân dân tử nạn. Cho nên pháp hội siêu độ đó cũng giống như lễ truy điệu hiện nay. Mời một số cao tăng đại đức tụng kinh, bái sám, hồi hướng, truy điệu nhằm mang ư nghĩa kỷ niệm, do quốc gia đề xướng. Sau này dân gian dần dần bắt chước theo, cũng mời Pháp-sư, Đại-đức tụng kinh, bái sám siêu độ tổ tiên.

Do đây mà biết, trước năm Khai nguyên không có việc này. Pháp hội siêu độ của Khai nguyên về sau đích thực phát triển nhưng đến nay đă hoàn toàn biến chất. Trước đây, siêu độ là việc làm phụ của tự viện, mỗi năm không quá hai lần, chủ yếu là tụng kinh thuyết pháp, dẫn chúng tu hành. Cho nên chùa miếu gọi là đạo tràng, Phật-Giáo ở thế gian là độ người chứ không độ quỷ, độ người sống chứ không độ người chết, nên nhớ như vậy !

Phương thức tu học xưa và nay :

Trước đây tự viện trong Ṭng Lâm Ấn-Độ nh́n chung hoạt động hai thời giảng kinh, hai thời tu hành. Người Ấn-Độ xưa chia một ngày đêm thành sáu thời khắc, ba thời ban ngày gọi là sơ nhật, trung nhật, hậu nhật; ba thời ban đêm gọi là sơ dạ, trung dạ, hậu dạ. Trung-Quốc xưa sử dụng mười hai thời : Tư Sửu Dần Mẹo Th́n Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi. C̣n hiện tại, chúng ta đang dùng đơn vị thời gian của Tây phương, tức là ngày đêm gồm hai mươi bốn tiếng. Như vậy, hai tiếng đồng hồ của phương Tây là một thời khắc của Trung-Quốc, hai thời khắc của Trung-Quốc mới là một thời khắc của Ấn-Độ. Thời xưa, tự viện Ṭng lâm giảng kinh hai thời, tương đương tám tiếng đồng hồ hiện nay. Tự viện là trường học dành cho người xuất gia và cư sĩ thường trú. Thời đó, các cư sĩ vào chùa miếu ghi danh nghe kinh. Thông thường giảng một bộ kinh phải mất ít nhất ba tháng đến một năm. Cư sĩ được đồng ư phê chuẩn có thể ở lại một năm trong tự viện, cúng dường phí dụng sinh hoạt, đồng thời làm công quả như quét nhà, dọn dẹp ... Mỗi ngày ngoài tám tiếng nghe giảng, nghiên cứu, thảo luận, c̣n phải tu hành. Có rất nhiều phương pháp tu hành nhưng không ngoài hai loại trọng điểm, đó là niệm Phật và tham thiền. V́ thế mà có thiền đường, niệm Phật đường. Tám tiếng học thuật, tám tiếng tham thiền hay niệm Phật, c̣n lại tám tiếng để nghỉ ngơi sinh hoạt. Đạo tràng huân tu, con người không vọng tưởng, thậm chí không có thời gian để vọng tưởng, không có thời gian sinh phiền năo. Hiệu quả nổi bật. Sau ba tháng ở đạo tràng, khí chất con người thay đổi.

Hiện nay, đạo tràng tự viện không c̣n, giải môn không có, rất ít giảng kinh, công phu. Người ta chú trọng xây Phật thất, tu sửa Thiền thất, lấy việc siêu độ người chết làm chính, hoàn toàn điên đảo. Tự viện trước đây độ người sống, bây giờ Phật-Giáo độ người chết. Trước đây là giáo dục, bây giờ biến thành tôn giáo. V́ vậy chúng ta cần sáng suốt hiểu rơ để tiếp nhận giáo dục của Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, cải thiện cuộc sống, nâng cao cảnh giới của chính ḿnh trong tương lai. Đó mới là bước đột phá. Mười pháp giới chính là mười thời, không khác nhau. Đức Phật dạy chúng ta đột phá sáu cơi, mười pháp giới mới có thể chứng được nhất chân pháp giới !

Siêu độ quy mô lớn có hiệu quả hay không ?

Không thể nói không hiệu quả, quan trọng là ở người chủ pháp hay người chủ tŕ siêu độ này. Nếu họ có tu, có chứng, sức mạnh được khẳng định. Giống như Lương Vơ Đế ngày xưa rất yêu quí một phi tử đă tạo tác nghiệp tội, bị đọa vào ác đạo. Trong văn tự Lương Hoàng Sám ghi chép rất rơ, Lương Vơ Đế là đại hộ pháp của Phật môn, mời Bảo Trí Công đến chủ tŕ pháp hội siêu độ. Bảo Trí Công chính là hóa thân của Quán Thế Âm Bồ-Tát, ngài đem phi tử của Lương Vơ Đế từ ác đạo siêu độ đến Trời Đao Lợi. V́ vậy, người chủ pháp đàn cần có tu, có chứng. Thời đại ngày nay, người có tu, có chứng dường như không c̣n. Cả đời chúng tôi không dám làm Phật sự siêu độ v́ biết ḿnh chưa đủ năng lực, chưa đủ đức năng !

Chúng ta hiện nay thường giảng kinh niệm Phật, mặc dù chưa đạt tiêu chuẩn như thời xưa, tám giờ giảng kinh, tám giờ niệm Phật nhưng chúng ta thực tập không gián đoạn, cũng thành tựu chút ít. Mỗi năm đến kỳ thanh minh, trung nguyên, đông chí, chúng tôi tổ chức pháp hội tế tổ, cúng tế tổ tiên. Bài vị mà chúng tôi cúng là bài vị tổ tiên trăm họ, một mực b́nh đẳng. Không phân biệt bài vị lớn, bài vị nhỏ bao nhiêu tiền. Phật tử tùy hỷ cúng, hoàn toàn không miễn cưỡng. Pháp hội không thu phí cúng dường. Trước đây mỗi năm ba lần pháp hội. Nhưng gần đây, xă hội động loạn, người chết quá nhiều. Mỗi tháng chúng tôi làm tam thời hộ niệm một lần, thành tâm thành ư siêu độ cho tất cả oan hồn chết trong tháng. Đây là những việc Phật sự phụ thêm của đạo tràng. Hy vọng hàng xuất gia cũng như tại gia hiểu được lư luận và sự thật của việc siêu độ này để thực hiện tốt, chỉ cần tận tâm tận lực, thành tâm khẩn thiết nhất định sẽ có cảm ứng !

( Trích Lục Các Bài Giảng Của Pháp Sư Tịnh Không Tại Tịnh Tông Học Hội Úc Châu Và Mỹ Quốc )

  KHAI  THỊ  CỦA  TỔ  SƯ  ẤN   QUANG

Bất luận là người tu tại gia hay xuất gia, cần phải trên kính dưới ḥa. Nhẫn nhục điều mà người khác khó nhẫn được, làm những việc mà người khác khó làm được. Thay người làm những việc cực nhọc, thành toàn cho người là việc tốt đẹp. Khi tĩnh tọa, thường nghĩ đến điều lỗi của ḿnh, lúc nhàn đàm đừng bàn đến điều sai trái của người. Lúc đi, đứng, nằm, ngồi, ăn mặc, từ sáng đến tối, từ tối đến sáng; chỉ niệm Phật hiệu không để gián đoạn; hoặc niệm nho nhỏ, hoặc niệm thầm. Ngoài việc niệm Phật, đừng dấy khởi một niệm nào khác, nếu khởi vọng niệm phải tức thời bỏ ngay. Thường có ḷng hổ thẹn và tâm sám hối. Nếu đă tu tŕ, phải tự hiểu là công phu của ta hăy c̣n nông cạn. Chẳng nên tự kiêu căng khoa trương, chỉ nên chăm sóc việc nhà ḿnh, đừng nên dính vào việc nhà người. Chỉ nên nh́n đến những h́nh ảnh tốt đẹp, đừng nên để mắt tới những h́nh ảnh xấu xa bại hoại. Hăy coi mọi người như Bồ Tát, mà ta chỉ là kẻ phàm phu. Nếu quả có thể tu hành được như vậy, th́ nhất định được văng sanh về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới !

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT !

Hộ Tŕ Sáu Căn Mỗi Phút Mỗi Giây Đi Đứng Nằm Ngồi Tâm Chánh Niệm ! ... Trau Giồi Ba Học Khi Cười Khi Nói Vào Ra Tiếp Xúc Tướng Đoan Nghiêm ! ... Chúng Sanh Vô Biên Thệ Nguyện Độ ! Phiền Năo Vô Tận Thệ Nguyện Đoạn ! Pháp Môn Vô Lượng Thệ Nguyện Học ! Phật Đạo Vô Thượng Thệ Nguyện Thành ! ... Nguyện đem công đức này  _Hướng về khắp tất cả _Đệ tử và chúng sanh_Đều trọn thành phật đạo ! Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ! ...

 

Free Web Hosting