...... ... .  . .  .  
  • ĐỨC  PHẬT  THÍCH  CA  MÂU  NI

    ( Buddha Sàkyamuni )

    DANH HIỆU

    Thích-Ca, Trung-Hoa dịch là Năng-nhân. Mâu-Ni dịch là Tịch-Mặc. Nghĩa là người hay phát khởi ḷng nhân mà tâm hồn luôn luôn yên tĩnh.

    LƯỢC SỬ

    Trước đây trên 25 thế kỷ, ở Ấn-Độ có vị thánh xuất thế, đó là Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni. Ngài là vị thái tử tên là Tất-Đạt-Đa (Sidhartha), con vua Tịnh-Phạn (Suddodhana) và hoàng hậu Ma-Gia (Maya), nước Ca-Tỳ-La-Vệ (Kapilavatsu). Khi ấy, xă hội Ấn-Độ chia làm bốn giai cấp : Bà-La-Môn (Brahmanes), Sát-Đế-Lỵ (Kastryas), Phệ-Xá (Vaisyas) và Thủ-Đà (Soudas). Đức Phật Thích-Ca sanh trong ḍng quư tộc thuộc giai cấp thứ hai. Ngài giáng sanh tại vườn Lâm-Tỳ-Ni (Lumbini) vào ngày trăng tṛn tháng hai Ấn-Độ, tức rằm tháng tư âm-lịch Trung-Hoa. (Trước Chúa giáng sinh 624 năm, nếu tính năm Phật nhập diệt th́ trước Chúa giáng sinh 544 năm).

    Ra đời chưa đầy một tháng, Ngài đă mồ côi mẹ, nhờ D́ mẫu nuôi dưỡng cho đến trưởng thành. Năm 29 tuổi, Ngài trốn vua cha vượt thành xuất gia tầm thầy học đạo. Tương truyền trước khi xuất gia, Ngài đă dạo chơi bốn cửa thành mục kích cảnh sanh, già, bệnh, chết. Từ đó, Ngài ôm ḷng thương cảm vô hạn, quyết t́m con đường giải thoát cho ḿnh và tất cả chúng sinh. V́ thế, Ngài cương quyết ruồng bỏ ngai vàng, và mọi lạc thú ở đời, xuất gia tầm đạo, mặc dầu có lắm người hết lời khuyên nhủ ngăn can.

    Sau khi xuất gia, Ngài lê bước khắp nơi t́m thầy học đạo. Ngài đă từng tham học với hai vị Sư trứ danh đương thời là A-La-Lă Ca-Lan (Alara Kalama) và Uất-Đà-Già La-Ma (Uddaka Ramaputta). Nhưng xét đến kết quả đạo lư của họ đều không làm cho Ngài thỏa măn.

    Sau đó, Ngài từ giă họ vào rừng sâu tu khổ hạnh sáu năm, mỗi ngày chỉ ăn uống chút ít đủ duy tŕ mạng sống, nhưng rốt cuộc cũng chẳng đem lại kết quả ǵ. Cuối cùng nhận thấy phương pháp khổ hạnh không phải là con đường chân chính, Ngài liền bỏ từ nó, trở lại lối sống b́nh thường, vận dụng tâm trí quán sát tướng chân thật của vũ trụ. Một hôm, đêm thứ 49 ngồi Thiền ở dưới cội cây Bồ-đề, Ngài bừng ngộ thấy rơ chân lư của cuộc đời, biết được mọi người đều có đủ khả năng giác ngộ và giải thoát khỏi ṿng sanh-tử luân-hồi.

    Sau khi đă chứng đạo, Ngài không ấp ủ tư lợi riêng ḿnh mà liền nhập thế phổ độ chúng sanh. Từ đó, Ngài du hành thuyết pháp suốt 45 năm, châu du đến một phần ba (1/3) xứ Ấn-Độ. Những môn đồ được Ngài giáo hóa đông vô kể. Nơi Ngài thường đến và thường lưu trú là thành Vương-Xá (Rakagrha), nước Ma-Kiệt-Đà (Magadha), thành Phệ-Xá-Ly (Vésali), thành Xá-Vệ (Shavasti), nước Câu-Tát-La (Kosala) …

    Năm 80 tuổi, nơi rừng Ta-La song thọ (Sa-la) ngoài thành Câu-Thi-Na (Kusinagara), sau buổi thuyết pháp cuối cùng, Ngài vào Niết-bàn (Nibbana).

    BIỂU TƯỢNG

    Vào trong các chùa Phật-Giáo Bắc-Tông, ngay giữa chánh điện hoặc thờ một tượng Phật Thích-Ca, hoặc thờ ba tượng ngồi ngang, Đức Thích-Ca ngự giữa, bên phải Đức Phật Thích-Ca là Phật A-Di-Đà, bên trái là Phật Di-Lặc (Phật tương lai). Lối thờ nầy tượng trưng Tam-Thế-Phật, Phật Thích-Ca là Phật hiện tại, Phật A-Di-Đà là Phật quá khứ, Phật Di-Lặc là Phật tương lai. Bất cứ lối thờ nào, Đức Thích-Ca đều ngự ở giữa, nên cũng gọi Ngài là Đức Trung-Tôn.

    Tượng Phật Thích-Ca không giống người Ấn-Độ, mà tùy ở nước nào tạo tượng Ngài giống người nước ấy. Ngài ngự trên đài sen, hai tay để ấn tam muội, đôi mắt khép lại ba phần tư (3/4).

    THÂM Ư

    Nh́n sơ qua h́nh tượng Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, chúng ta đă thấy những điểm cách xa thực tế. Tại sao người ta không tạo tượng Ngài thật giống người Ấn-Độ ngồi trên ṭa cỏ dưới cội cây Bồ-Đề ?

    Bởi v́ Bắc Tông Phật giáo quan niệm Đức Phật không phải căn cứ vào con người xác thịt tầm thường, mà thấy Phật là pháp thân thường trụ. Hiện thân Thái Tử Sĩ-Đạt-Ta tu hành thành Phật, chỉ là một giai đoạn, một hóa thân tùy cơ cảm của chúng sanh thị hiện đấy thôi. Đă là hóa thân tùy cơ cảm th́ ở đâu có cảm Đức Phật đều ứng hiện như nguyện để độ họ. V́ thế, ở Việt-Nam, cảm mộ Phật, Phật sẽ thị hiện người Việt-Nam, ở Trung-Hoa cảm mộ Phật, Phật sẽ hiện người Trung-Hoa để hóa độ. Đó là tư tưởng siêu thực, không c̣n thấy Phật ở trong một h́nh thức cố định nào. Đức Phật đă đồng hóa theo từng dân tộc, từng chủng loại. Do tư tưởng nầy, Bắc Tông Phật giáo đối với Đức Phật không thấy xa lạ, mà rất gần gũi thân mật và phát sinh tín ngưỡng “Phật tùy tâm hiện”. Ta hăy nghe vị Quốc Sư núi Yên Tử nói với vua Trần Thái Tôn, khi ông nầy lên núi cầu đạo :“Núi vốn không có Phật, chỉ có ở tâm. Lắng tâm mà thấy, đấy gọi là tâm Phật. Nay bệ hạ muốn giác-ngộ tâm ấy th́ đứng ở trần gian mà thành Phật, không phải khốn khổ cầu Phật ở ngoài”. (Khóa Hư Lục)

    Đă tin Phật tùy tâm hiện, nếu tâm ḿnh tưởng Phật tức là có Phật hiện đến. Do đó phát sinh tín ngưỡng “Phật hiện cứu khổ mọi người”. Cho nên, những khi lâm tai, mắc họa, người ta hay thành kính, lễ mễ cầu Phật hiện mách bảo cho phương cách thoát khỏi tai họa ...

    Phật ngự trên đài sen cũng là một ư nghĩa tượng trưng siêu thực. Bởi v́ hoa sen được biểu thị cho đức tánh thanh tịnh và giải thoát. Hoa sen phát xuất trong ḷng vũng bùn nhơ nhớp, mà vẫn tỏa ra mùi hương thanh khiết. Đó là đặc tính không thể t́m được trong các loài hoa khác. Nằm giữa vũng bùn nhơ nhớp, mà không bị lây nhiễm mùi hôi hám, trái lại c̣n đầy đủ hương vị thơm tho, đó mới thật là thanh tịnh. V́ cái thanh tịnh ngay giữa chỗ ô uế, mới chơn thật thanh tịnh. Nếu hoa sen mọc giữa băi cát trắng phau, hay trên g̣ đất khô sạch sẽ, dầu có hương sắc gấp mấy lần hơn vẫn không được quư trọng. Bởi nó chui từ vũng bùn hôi hám mà lên, lại giữ được tánh cách thanh khiết, nên mới được mọi người hâm mộ.

    Đức Phật cũng thế, trước kia Ngài cũng là một con người như chúng ta, cũng có gia đ́nh, cũng hưởng giàu sang sung sướng, nhưng con người ấy không bị dục lạc làm ô nhiễm, không bị sợi dây gia đ́nh trói buộc. Ở trong cảnh nhiễm ô dục lạc mà tâm hồn Ngài trinh bạch, ngồi trong tù ngục gia đ́nh mà chí Ngài đă vượt ra ngoài vũ trụ mênh mông. Đức tánh trinh bạch và siêu việt ấy, chỉ có hoa sen mới đủ sức tượng trưng.

    Bắc tông Phật giáo đặc trọng ư nghĩa “thanh tịnh trong ô nhiễm” nên chủ trương “phiền năo tức Bồ-đề”, “sanh tử tức Niết-bàn”. Không thể t́m Bồ-đề ngoài phiền năo, không thể có Niết-bàn ngoài sanh tử. Cứ ngay trong phiền năo chúng ta khéo chuyển sẽ thành Niết-bàn. Không chán sợ trốn tránh, không mơ ước mong cầu nơi nào khác. V́ thế, đi đến chủ trương “tích cực nhập thế”. Bởi v́ không thể có Đức Phật ngoài chúng sanh, không thể có cơi Cực-Lạc thanh tịnh ngoài cơi Ta-bà uế trược.

    Đôi mắt Đức Phật đăm chiêu nh́n xuống là biểu thị quán sát nội tâm. Giáo lư Phật dạy là giáo lư nội quan, luôn luôn phản chiếu nội tâm để tự-giác tự-ngộ. Tâm ḿnh là chủ nhân ông của mọi hành động, mọi nghiệp quả. Ngộ được tự tâm là thấy được nguồn gốc vũ trụ và nhơn sinh. V́ thế, Phật giáo chủ trương con người làm chủ mọi quả báo an lạc hay đau khổ của ḿnh. Muốn tránh quả khổ đau, cầu quả an lạc, con người phải tự sửa đổi hành vi trong tâm niệm và hành động nơi tự thân ḿnh. Một tâm niệm lành, một hành động tốt sẽ đem đến cho ta kết quả an vui hạnh phúc. Ngược lại, một tâm niệm ác, một hành động xấu sẽ chuộc lấy kết quả khổ đau về nơi ḿnh. Chỉ có ta mới đủ thẩm quyền ban phúc giáng họa cho ta. Sự cầu cạnh, sự van xin nơi tha nhân hay thần linh, nếu có chỉ là phần phụ thuộc không đáng kể. Cho nên, ta phải quán sát lại ta, để luyện lọc tâm tánh và sửa đổi hành động của ḿnh. Ách yếu của sự tu hành là phản quán tự tâm. Vua Trần Nhân Tôn hỏi về bổn phận, tôn chỉ Thiền, Tuệ Trung Thượng sĩ đáp :“Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”. ( Soi lại nơi ḿnh là bổn phận, không từ nơi người mà được). (Tam Tổ Thực Lục)

    Những phút sống lại nội tâm đương nhiên đôi mắt đăm chiêu nh́n xuống. Như khi chúng ta kiểm soát lại tâm tư hay hành động của ḿnh, dù đi, đứng, ngồi đôi mắt chúng ta nhất định phải nh́n xuống. Khi chúng ta muốn van xin điều ǵ với những người đáng kính bên ngoài dĩ nhiên đôi mắt phải trông lên vị ấy. V́ thế, khi nh́n lên đôi mắt Đức Phật, đôi mắt các vị thánh của tôn giáo khác, chúng ta có thể nhận biết tôn giáo nào chủ trương nội quan, tôn giáo nào chủ trương ngoại quan.

    Trên đảnh Đức Phật Thích-Ca có cục thịt nổi cao gọi là nhục kế, để biểu thị cho trí tuệ tuyệt vời. Theo các Kinh Pháp-Hoa, Hoa-Nghiêm ... trên đảnh Đức Phật có tướng không thể thấy, tướng ấy bậc Bồ-tát từ Sơ-địa trở lên chỉ thấy được đôi phần, trừ Phật với Phật mới thấy trọn vẹn. Tướng ấy biểu thị cho pháp thân. V́ chúng sanh không thể thấy nên gọi là “Vô Kiến Đảnh Tướng”.

    Chung quanh tượng Phật có những tia hào quang sáng chiếu để tiêu biểu ánh sáng trí tuệ của Phật lúc nào cũng soi sáng thế gian. Theo trong Kinh nói chung quanh Đức Phật luôn luôn có hào quang soi sáng một tầm. Bởi v́ con người luôn luôn có một lớp nghiệp bao quanh, nếu nghiệp ác th́ hiện lên vừng hắc-ám, chúng sanh trông thấy kinh sợ, nếu nghiệp thiện th́ hiện ra ánh sáng trong lành, chúng sanh trông thấy sanh tâm kính mến. V́ mắt thịt chúng ta quá thô thiển nên không thể trông thấy rơ ràng, song nếu tinh tế nhận xét cũng có thể biết được phần nào. Như người hiền lành đến trước chúng ta, nh́n thoáng gương mặt là ta có cảm t́nh ngay. Nếu người dữ đến trước chúng ta, nh́n sơ qua ta tự nhiên nảy sanh ác cảm liền. Cái linh cảm ấy không phải căn cứ vào h́nh thức, mà nó lại là siêu h́nh thức ... Cho nên ngày xưa các vị tu hành đắc đạo, có ai đến tham học, một phen nh́n qua là các Ngài biết phước duyên kẻ ấy mỏng hay dày, rồi tùy căn cơ giáo hóa. Đức Phật là con người thuần thiện, tâm thanh tịnh, trí sáng suốt th́ ánh sáng hào quang bao bọc chung quanh là lẽ đương nhiên !

    Phật-Giáo Bắc-Tông thường thờ tượng Phật Thích-Ca sơ sanh. Tượng này h́nh một hài nhi đứng trên hoa sen, tay mặt chỉ lên, tay trái chỉ xuống. Đó là biểu thị một bậc thánh nhân xuất thế, vừa lọt ḷng mẹ đă có những hành động siêu phàm. Ngài đi bảy bước và thốt ra câu :

    Thiên thượng thiên hạ, Duy ngă độc tôn, Nhứt thiết thế gian, Sanh lăo bệnh tử.

    Dịch Nghĩa :

    Trên trời dưới trời, Chỉ Ta hơn hết, Tất cả thế gian, Sanh già bệnh chết.

    Nghĩa là từ nhơn gian đến các cơi trời, đối với vấn đề sanh, già, bệnh, chết, chỉ có Ngài là người vượt ra và cứu thoát tất cả. Song Bắc-Tông Phật-Giáo thường thường dẫn hai câu đầu thôi, để nhấn mạnh vào chữ “Ta” ám chỉ pháp thân tuyệt đối, trên trời dưới đất không ǵ b́ kịp.

    Đây chỉ lược giải thích vài đặc điểm trong h́nh tượng đức Phật Thích-Ca. Mong rằng mỗi khi đến lễ dưới chân tượng Ngài, mỗi người đều ư thức được ḿnh phải làm ǵ đối với h́nh ảnh biểu thị ấy. Sự hữu ích của việc lễ Phật gốc ở chỗ nhận được thâm ư, rồi thể theo đó sống một cuộc đời cao đẹp như Ngài !

    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật !

    NĂM  HẠNH  CĂN  BẢN  CỦA  PHẬT

             Là đệ tử Phật phải thực hành cho được năm hạnh của Phật :

             1. Từ Bi : ban vui, cứu khổ chúng sanh.

             2. Nhẫn Nhục : an nhẫn, chịu đựng mọi sự khó khổ ở đời.

             3. Hỷ Xả : vui vẻ mà buông bỏ, tha thứ mọi lỗi lầm của người.

             4. Tinh Tấn : chuyên cần, siêng năng làm việc giúp đạo, giúp đời.

             5. Trí Tuệ : tu học Chánh Pháp hoằng hóa độ sanh.

    Hộ Tŕ Sáu Căn Mỗi Phút Mỗi Giây Đi Đứng Nằm Ngồi Tâm Chánh Niệm ! ... Trau Giồi Ba Học Khi Cười Khi Nói Vào Ra Tiếp Xúc Tướng Đoan Nghiêm ! ... Chúng Sanh Vô Biên Thệ Nguyện Độ ! Phiền Năo Vô Tận Thệ Nguyện Đoạn ! Pháp Môn Vô Lượng Thệ Nguyện Học ! Phật Đạo Vô Thượng Thệ Nguyện Thành ! ... Nguyện đem công đức này  _Hướng về khắp tất cả _Đệ tử và chúng sanh_Đều trọn thành phật đạo ! Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ! ...

      Đức Phật Trong Cái Nh́n Của Các Nhà Khoa Học 

    1. Nhân cách vĩ đại của Đức Phật :

    Đức Phật là hiện thân của tất cả các đức hạnh mà Ngài thuyết giảng. Trong thành quả của suốt 45 năm dài hoằng pháp, Ngài đă chuyển tất cả những lời nói của Ngài thành hành động; không nơi nào Ngài buông thả cái yếu đuối của con người hay dục vọng thấp hèn. Luân lư, đạo đức căn bản của đức Phật là toàn hảo nhất mà thế giới chưa bao giờ biết đến. [Giáo sư Max Miller, Học giả người Đức]

    Không một lời thô bạo nào được thấy thốt ra từ nơi đức Phật trong cơn tức giận, chưa từng có một lời thô bạo được thấy trên môi đức Phật kể cả trong lúc t́nh cờ. [-Tiến Sĩ S. Radhakrishnan]

    Điều đáng chú ư nhất nơi đức Phật là sự kết hợp gần như độc nhất của một đầu óc khoa học trầm tĩnh và thiện cảm sâu xa của ḷng từ tâm. Thế giới ngày nay ngày càng hướng về đức Phật, v́ Ngài là người duy nhất tiêu biểu cho lương tâm của nhân loại. [Moni Bagghee, "Đức Phật Của Chúng Ta"]

    Các bạn thấy rơ Ngài là một nhân vật đơn giản, chân thành, đơn độc, một ḿnh tự lực phấn đấu cho ánh sáng, một nhân vật sống chứ không phải là thần kỳ, tôi cảm thấy có một Người, đó là Ngài. Ngài đă gửi bức thông điệp cho nhân loại hoàn vũ. Có nhiều tư tưởng tuyệt diệu hiện đại của chúng ta rất gần gũi tương đồng với thông điệp của Ngài, tất cả những đau khổ, bất măn trong cuộc sống, theo Ngài dạy : là do ḷng ích kỷ. Ḷng ích kỷ có ba dạng : - Một là tham vọng thỏa măn cảm giác; - Hai là tham vọng muốn bất tử; - Ba là tham vọng thành công và trần tục. Con người trước khi có thể trở nên thanh tịnh, người đó phải ngưng sống theo giác quan hoặc cho riêng chính ḿnh. Rồi con người đó mới trở thành một bậc đại nhân. Đức Phật, qua nhiều ngôn ngữ khác nhau, năm trăm năm trước Chúa Christ, đă dạy con người đức tính vị tha. Trong một số chiều hướng Ngài rất gần gũi với chúng ta hơn, và đáp ứng được nhu cầu của chúng ta. [- H.G. Wells]

    Tôi càng ngày càng cảm thấy đức Thích Ca Mâu Ni gần gủi nhất trong tính cách và ảnh hưởng của Ngài; Ngài là Đường lối, là Chân lư và là Lẽ sống. [- Giám mục Milman]

    2. Trí tuệ siêu việt của Đức Phật :

    Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, đức Phật tuyên bố sự giải thoát, mỗi con người có thể đạt được do chính bản thân ḿnh trong đời sống của ḿnh trên thế giới mà không cần đến sự giúp đỡ của Thượng đế hay thánh thần nào. Ngài nhấn mạnh về giáo lư như ḷng tự tin, thanh tịnh, nhă nhặn, giác ngộ, an lạc và ḷng thương yêu nhân loại. Ngài cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết của kiến thức, v́ không có trí tuệ th́ siêu linh nội tâm không xâm nhập trong đời sống của Ngài được. [- Giáo Sư Eliot, "Phật giáo và Ấn Độ giáo"]

    Đức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài c̣n biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người". Kiến thức của Ngài rất rơ ràng và độc lập không liên can ǵ đến thần thoại và hoang đường. Tuy nhiên, nơi đây lại c̣n cho thấy một h́nh thức vững vàng, tự nó biểu lộ được một cách rơ ràng và hiển nhiên để cho con người có thể theo Ngài. V́ lư do đó, Đức Phật không đ̣i hỏi phải tin nhưng hứa hẹn kiến thức. [- George Grimm, "Giáo Lư của đức Phật"]

    Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, Đức Phật khuyến dụ, khẩn cầu và kêu gọi con người không nên làm hại một sanh mạng, không nên dâng lời cầu nguyện, lời ca tụng, hay hy sinh (sanh mạng) cho các Thần linh. Với tất cả tài hùng biện trong sự thuyết giảng của Ngài, đấng Vô Thượng Sư có lần hùng hồn tuyên bố là Thần linh, nói cho đúng, cũng cần đến sự giải thoát cho chính họ. [Giáo Sư Rhys Dadis]

    Đức Phật không giải thoát con người, nhưng Ngài dạy con người phải tự chính ḿnh giải thoát lấy ḿnh, như chính Ngài đă tự giải thoát lấy Ngài. Con người chấp nhận giáo lư của Ngài là chân lư, không phải giáo lư này đến từ nơi Ngài, nhưng v́ ḷng xác tín cá nhân, thức tỉnh bởi những lời Ngài dạy, trỗi dậy bởi ánh sáng trí tuệ của chính ḿnh. [- Tiến Sĩ Oldenburg, Một học giả Đức]

    Dường như người thanh niên bất diệt, hiền lành, ngồi khoanh chân trên hoa sen thanh tịnh với bàn tay phải giơ lên như khuyên nhủ như trả lời :"Nếu con muốn thoát khỏi sự đau khổ và sợ hăi, con hăy luyện tập trí tuệ và từ bi". [Anatole France]

    Nếu một vấn đề nào đó cần được đề ra, vấn đề đó phải được giải quyết trong hài ḥa và dân chủ theo đường lối dạy bảo của đức Phật. [- Tổng thống Nehru]

    Nếu chúng ta hỏi, chẳng hạn, có phải vị trí một hạt nhân điện tử lúc nào cũng giữ nguyên không thay đổi, chúng ta phải trả lời "không"; nếu chúng ta hỏi có phải vị trí của một hạt nhân điện tử thay đổi theo thời gian, chúng ta phải trả lời "không"; nếu chúng ta hỏi có phải hạt nhân đó đang di động, chúng ta phải trả lời "không". Đức Phật cũng đă giải đáp như vậy khi có người hỏi t́nh trạng bản ngă của con người sau khi chết; nhưng những câu trả lời như trên không phải là những câu trả lời quen thuộc theo truyền thống khoa học ở thế kỷ 17và 18. [J.Robert Oppenheimer]

    3. Cống hiến của Đức Phật với nhân loại :

    Trong thế giới giông tố và xung đột, hận thù và bạo lực, thông điệp của Đức Phật sáng chói như vầng thái dương rực rỡ. Có lẽ không bao giờ thông điệp của Ngài lại thiết yếu hơn như trong thời đại của thế giới bom nguyên tử, khinh khí ngày nay. Hai ngàn năm trăm năm qua đă tăng thêm sanh khí và chân lư của thông điệp này. Chúng ta hăy nhớ lại bức thông điệp bất diệt này và hăy cố gắng thi triển tư tưởng và hành động của chúng ta trong ánh sáng giáo lư của Ngài. Có thể chúng ta phải b́nh thản đương đầu cả đến với những khủng khiếp của thời đại nguyên tử và góp phần nhỏ trong việc khuyến khích nghĩ đúng (Chánh tư duy) và hành động đúng (Chánh nghiệp). [Tổng thống Nehru]

    Trên quả địa cầu này, Ngài đem ư nghĩa những chân lư giá trị trường cữu và thúc đẩy đạo đức tiến bộ không chỉ cho riêng Ấn độ mà cho cả nhân loại. Đức Phật là một nhà đạo đức đại kỳ tài chưa từng thấy có trên hoàn vũ. [Albert Schweizer, một nhà lănh đạo triết học Tây Phương]

    Sự thanh tịnh của tâm linh và ḷng thương yêu tất cả sinh vật đă được dạy dỗ bởi Đức Phật. Ngài không nói đến tội lỗi mà chỉ nói đến vô-minh và điên cuồng có thể chữa khỏi bởi giác-ngộ và ḷng thiện cảm. [-Tiến Sĩ Radhakrisnan, "Đức Phật Cồ-Đàm"]

    Đức Phật không phải là của riêng người Phật tử, Ngài là của toàn thể nhân loại. Giáo lư của Ngài thông dụng cho tất cả mọi người. Tất cả các tôn giáo khai sáng sau Ngài, đều đă mượn rất nhiều các tư tưởng hay của Ngài. [-Một Học Giả Tây Phương ]

    Khi chúng ta đọc những bài thuyết giảng của Đức Phật, chúng ta cảm kích bởi tinh thần hợp lư của Ngài. Con đường đạo đức của Ngài ngay trong quan điểm đầu tiên là một quan điểm thuần lư. Ngài cố gắng quét sạch tất cả những màng nhện giăng mắc làm ảnh hưởng đến cái nh́n và định mệnh của nhân loại. [Tiến Sĩ S.Radhakrisnan,"Đức Phật Cồ Đàm"]

    Đức Phật là người cha nh́n thấy đàn con đang vui chơi trong ngọn lửa thế tục nguy hiểm, Ngài dùng mọi phương tiện để cứu các con ra khỏi ngôi nhà lửa và hướng dẫn chúng đến nơi an lạc của Niết bàn. [- Giáo sư Lakshimi Narasu, "Tinh Hoa Của Phật giáo"]

    4. Giáo pháp của Đức Phật :

    "Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại th́ đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của ḿnh để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của ḿnh để xu hướng theo khoa học, v́ Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học". [Albert Einstein]

    Phật giáo chưa bao giờ ép ai theo dù dưới h́nh thức nào - hoặc ép buộc ư tưởng và niềm tin đối với người không thích, hoặc bằng bất cứ một sự tâng bốc nào, bằng lừa gạt hay ve văn, hầu đoạt được thắng lợi để gia nhập vào quan điểm riêng tư của ḿnh. Những nhà truyền giáo của đạo Phật không bao giờ thi đua để giành người quy nạp vào Đạo của họ. [- Tiến sĩ G. P. Malasekara]

    Chỉ nói về Phật giáo thôi, ta có thể xác nhận là tôn giáo này thoát khỏi tất cả cuồng tín. Phật giáo nhằm tạo trong mỗi cá nhân một sự chuyển hóa nội tâm bằng cách tự chiến thắng lấy ḿnh. Đức Phật chỉ rơ một con đường giải thoát duy nhất để cho mỗi cá nhân tự quyết định khi theo tôn giáo này, đó là giải thoát luân hồi sanh tử, cứu kính Niết bàn ! [- Giáo Sư Lakshmi Nasaru, "Tinh Hoa của Phật giáo"]

    Phật giáo là một tôn giáo tự giác, ít lễ nghi. Một hành động được thực thi với chính sự suy tư th́ tự nó đă điều kiện hóa để không c̣n là một nghi lễ. Phật giáo nh́n bề ngoài có vẻ nhiều nghi lễ nhưng thực ra không phải như vậy. [- Tiến sĩ W.F.Jayasuriya, "Tâm lư và Triết lư Phật giáo"]

    Là Phật tử hay không phải là Phật tử, tôi đă quan sát mọi hệ thống của các tôn giáo trên thế giới, tôi đă khám phá ra không một tôn giáo nào có thể vượt qua được về phương diện vẻ đẹp và sự quán triệt, Bát Chánh Đạo và Tứ Diệu Đế của Đức Phật. Tôi rất măn nguyện đem ứng dụng cuộc đời tôi theo con đường đó. [Giáo sư Rhys Davids]

    Trên những giải đất mênh mông của thế giới, vận mệnh nhân loại vẫn c̣n tồn tại. Rất có thể trong sự tiếp xúc với khoa học Tây phương và cảm hứng bởi tinh thần lịch sử, giáo lư căn bản của Đức Cồ Đàm được phục hưng và thuần khiết, có thể chiếm một vị trí phần lớn trong hướng đi của vận mệnh nhân loại. [- H.G.Well]

    Lư thuyết của Phật pháp vẫn đứng vững ngày nay không bị ảnh hưởng bởi tiến tŕnh của thời gian và sự tăng trưởng kiến thức, vẫn giữ nguyên như lúc ban đầu bầy tỏ. Dù cho kiến thức khoa học tăng tiến đến thế nào trên chân trời trí óc của con người, trong phạm vi Giáo pháp (Dhamma) cũng vẫn có chỗ để thừa nhận và đồng hóa các khám phá xa hơn nữa. Về phương diện thu hút của lư thuyết nầy không dựa vào các khái niệm giới hạn của các tư tưởng sơ khai, về phương diện khả năng cũng không bị lệ thuộc vào những phủ định của tư tưởng.     [- Francis Story, "Phật giáo, Một Tôn Giáo Thế Giới"]

    Phật giáo là một phương thức làm sao để đạt được lợi lạc cao nhất từ cuộc sống. Phật giáo là một tôn giáo của trí tuệ mà ở đấy kiến thức và thông minh chiếm ưu thế. Đức Phật không thuyết giảng để thâu nạp tín đồ mà là để soi sáng người nghe. [- Một Văn Hào Tây Phương"]

    "Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ư thức đạo lư, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ư nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó !". [Albert Einstein]

  • Free Web Hosting