Thời Đức Phật
c̣n tại thế, các vị đại đệ
tử của Ngài chỉ được gọi là
A-La-Hán, nhưng chúng ta
thấy các ngài ấy rơ ràng đă
hành Bồ-tát đạo, một trong
số đó chính là tôn giả
Xá-Lợi-Phất, Ngài có hạnh
nguyện sống như Đất, như
Nước, như Gió, như Lửa suốt
cả cuộc đời ḿnh ! ...
+ Thế nào là
Sống theo hạnh của Đất của
ngài Xá-Lợi-Phất ?
Sống như Đất
nghĩa là bắt chước cái hạnh
của Đất : dù ta đổ lên đất
những chất dơ, chất độc,
chất hôi thối hay đổ lên đất
những đồ quư giá thơm tho như
vàng bạc, châu báu, nước hoa
... th́ đất vẫn tiếp nhận
tất cả những thứ ấy một cách
thản nhiên không vui mừng
cũng không lấy làm oán thán,
tủi nhục ... Cũng thế, tôn
giả Xá-Lợi-Phất muốn dạy
chúng ta rằng : khi những
cảm thọ hạnh phúc hay đau
khổ, thắng lợi hay thất bại,
danh dự hay tủi nhục khởi
lên trong ḷng, chúng ta
phải giữ Tâm Chánh niệm,
Tỉnh thức, không để sự rối
loạn ( thất niệm ) tràn ngập
vào Tâm.
+ Thế nào là Sống theo hạnh
của Nước ?
Nước có đặc tính uyển chuyển,
khi b́nh thường nước chảy êm,
khi gặp trở ngại, nó có thể
đi quanh chướng ngại vật hay
vượt tràn qua. Nước có nhiều
h́nh thức : lỏng, đặc, hơi,
tuyết, sương ... Nước luôn
giúp đỡ và phục vụ chúng
sanh. Chúng ta học hạnh của
nước, dù ở trong hoàn cảnh
nào cũng làm việc ích lợi
cho tha nhân. Cũng như Đất,
Nước có thể thu nhận bất cứ
ǵ đổ vào, dù là dơ bẩn hay
sạch sẽ, tốt lành hay độc
hại, kể cả xác người hay thú
vật ...v...v... Nước vẫn
không từ chối. Chúng ta cũng
vậy, phục vụ tha nhân với
tấm ḷng rộng lượng bao dung
và không phân biệt.
+ Thế nào là Sống theo hạnh
của Gió ?
Gió là không khí chuyển động,
gió có nhiều hành tướng khác
nhau, lúc th́ mát dịu làm
cho ta cảm thấy nhẹ nhàng
thanh thản, lúc th́ đổi
chiều gây nên vũ băo cuồng
phong, xua tan và quét sạch
tất cả mọi thứ ... Tuy nhiên
nó lại rất cần thiết đối với
chúng ta, v́ nó là mạch sống,
là hơi thở của chúng ta. V́
vậy, chúng ta phải luôn chú
ư hơi thở để giữ ǵn chánh
niệm, quan sát ngọn Gió này
chính là "Chánh niệm" - "Trái
tim của sự sống".
+ Thế nào là Sống theo hạnh
của Lửa ?
Lửa là hơi nóng, Lửa có thể
đốt cháy tất cả, thanh lọc
tất cả, nhưng Lửa cũng là
yếu tố nuôi sống Trái Đất
của chúng ta, từ lửa của Mặt
Trời hay lửa của một bếp
hồng ở nông thôn, hay đốm
lửa của một que diêm, đều
rất cần thiết cho đời sống
của con người. Lửa c̣n là
hơi ấm, là nguồn năng lượng
nuôi sống muôn loài. Lửa đem
lại ánh sáng, xóa tan bóng
đêm lạnh lẽo, đâm thủng màn
vô-minh đen tối. Lửa măi măi
vẫn là nguồn sống, đem lại
sức nóng và hơi ấm nuôi sống
cho nhân loại ! ...
Ngày nay chúng ta cần phải
học theo gương hạnh của Tôn
giả Xá-Lợi-Phất : Sống như
Đất, như Nước, như Gió, như
Lửa - Đó là bốn nghệ thuật
sống đem lại cho chúng ta sự
tỉnh thức, an lạc và hạnh
phúc ngay giữa cuộc đời này
!
NĂM
NGHỆ THUẬT SỐNG ĐEM LẠI AN
VUI VÀ HẠNH PHÚC
Khi nói đến
nghệ thuật sống là tự thân
chúng ta
phải nghĩ tới sống như thế
nào để thích nghi và ḥa hợp
với gia đ́nh, xă hội, quê
hương, đất nước. Với vai tṛ
là những nhà lănh đạo tâm
linh, cũng như nam nữ cư sĩ
Phật tử chúng ta phải sống
như thế nào để cảm nhận được
sự b́nh an và niềm hạnh phúc
mà bản thân ta có trong cuộc
đời hằng ngày. Lại một điều
nữa, chúng ta thường đọc ở
trong Kinh điển, hoặc kinh
nghiệm sống, hoặc qua quán
chiếu hay tâm lư của con
người trong cuộc sống hằng
ngày, chúng ta có thể học
hỏi từ những khóm tre cây
trúc, của những ḍng sông,
của cây mai, của đất, của
áng mây ... Từ đó, chúng ta
có thể chiết xuất và lấy đó
là nghệ thuật sống của những
người lănh đạo tâm linh hoặc
là những vị Phật tử mong ước
có một cuộc sống tỉnh thức
và an lạc ngay giữa cuộc đời
này ! ...
+ Nghệ thuật đầu tiên của
cuộc sống là sống như cây
tre khóm trúc : phải có tánh
uyển chuyển và quân tử.
+ Nghệ thuật sống thứ hai là
sống như ḍng sông : sống
tùy duyên và ḥa hợp với tất
cả mọi người.
+ Nghệ thuật sống thứ ba là
sống như cây mai : kiên định,
chịu đựng mọi sự khó khổ ở
đời, vươn lên trong mọi hoàn
cảnh, hầu đạt được thành tựu
trên con đường giác ngộ.
+ Nghệ thuật sống thứ tư là
sống giống như đất : nhẫn
nhục, chịu đựng, kiên cố và
vững chăi.
+ Nghệ thuật sống thứ năm là
sống như những đám mây :
thong dong tự tại, không
vướng bận điều chi, không
vướng mắc điều ǵ, sống cuộc
đời an nhiên tự tại, giải
thoát !
Những ai biết học hỏi và áp
dụng những đặc tính trong
thiên nhiên : Thực tập nghệ
thuật sống nhẫn nhục, kiên
định như đất; Bềnh bồng tự
tại như mây; Chịu đựng và
vươn lên như gốc mai già;
Cuộc sống uyển chuyển như
cây tre, bụi trúc; Nghệ
thuật an nhiên chan ḥa,
luôn ḥa ḿnh vào đại thể
như ḍng sông ... Năm nghệ
thuật sống cốt lơi này, nếu
sống đúng, sẽ giúp chúng ta
có một gia đ́nh, một cộng
đồng xă hội hài ḥa, thanh
b́nh, an lạc và hạnh phúc
!
NGHỆ
THUẬT SỐNG THIỀN - VIPASSANA
-
Mọi người đều t́m kiếm an lạc và hài ḥa
bởi v́ đây là điều chúng ta thiếu trong cuộc sống. Đôi khi chúng ta cảm thấy bứt
rứt, bực bội,“không yên”. Và khi bị những nỗi khổ này hành hạ, chúng ta không
giữ riêng cho ḿnh mà thường trút đổ sang người khác. Sự buồn phiền nhiễm vào
không khí xung quanh những người đang bị đau khổ. Những ai tiếp xúc với những
người này đều bị ảnh hưởng lây. Chắc chắn đây không phải là cách sống khôn khéo.
Chúng ta nên sống an lạc với chính ḿnh và
an lạc với người khác. Tóm lại, con người là những sinh vật sống hợp quần, tạo
thành xă hội và phải giao tiếp với nhau. Nhưng làm sao chúng ta có thể sống an
lạc được ? Làm sao có thể duy tŕ được hài ḥa nội tâm, duy tŕ được sự an lạc,
hài ḥa xung quanh chúng ta để người khác cũng được sống an lạc và hài ḥa ?
Để thoát khỏi khổ đau, chúng ta phải biết
nguyên nhân căn bản, nguồn gốc của khổ đau. Nếu chúng ta t́m hiểu vấn đề này, nó
trở nên rơ ràng rằng, mỗi khi trong tâm có những phiền năo, bất tịnh, chúng ta
trở nên không vui. Phiền năo trong tâm, một sự xấu, bất tịnh tinh thần không thể
tồn tại chung với an lạc, hài ḥa được.
Chúng ta khởi sự tạo ra phiền năo bằng
cách nào ? Một lần nữa nếu t́m hiểu chúng ta sẽ thấy rơ. Chúng ta trở nên không
vui khi thấy ai hành xử theo lối chúng ta không thích, hoặc ta thấy những ǵ xẩy
ra mà ta không muốn. Những điều trái ư xẩy ra và chúng ta tạo căng thẳng trong
tâm. Những cái chúng ta muốn mà không được v́ vài trở ngại nào đó và ta trở nên
căng thẳng, tạo thành những gút mắc. Và trong suốt cuộc đời, những điều chúng ta
muốn có thể hoặc không thể đạt được, những lối phản ứng bằng cách tạo ra gút mắc
làm cho toàn bộ tinh thần và thể xác căng thẳng, đầy phiền năo khiến cho cuộc
đời trở nên đau khổ.
Bây giờ, một cách để giải quyết vấn đề này
là dàn xếp để trong cuộc đời không có điều ǵ trái ư xẩy ra, để mọi điều đều xẩy
ra theo ư ḿnh. Một là chúng ta phải có quyền phép nào đó hoặc ai cho chúng ta
quyền phép này, để những điều trái ư không xẩy ra và mọi cái chúng ta muốn đều
đạt được. Nhưng điều này không bao giờ có thể được. Không một ai trên cơi đời
này đạt được mọi mong ước, mọi việc đều xẩy ra theo ư ḿnh mà không có ǵ trái ư
xẩy ra. Sự việc tiếp tục xẩy ra trái với sự mong muốn và ước nguyện. Do đó, câu
hỏi được đặt ra là : Làm sao chúng ta ngừng phản ứng mù quáng khi gặp những điều
không hài ḷng ? Làm thế nào để chúng ta ngừng tạo ra căng thẳng và giữ được an
lạc và hài ḥa ?
Tại Ấn độ cũng như tại các nước khác,
những thánh nhân trong quá khứ đă nghiên cứu vấn đề này — vấn đề đau khổ của con
người — để t́m ra giải pháp. Nếu điều ǵ trái ư xẩy ra và chúng ta phản ứng bằng
sự tức giận, bằng sợ hăi, hoặc bằng những bất tịnh khác, th́ ta lập tức chuyển
sự chú tâm vào cái ǵ khác. Ví dụ : đứng dậy lấy một ly nước uống, sự tức
giận của ta sẽ dịu bớt. Hoặc ta bắt đầu đếm một, hai, ba, bốn. Hoặc bắt đầu lập
lại một câu hoặc lời chú hoặc tên của một vị thần linh mà ta tôn sùng, tâm ta sẽ
chuyển hướng và ta sẽ bớt được phần nào phiền năo, sẽ nguôi bớt giận.
Giải pháp này hữu ích và luôn luôn công
hiệu. Giải quyết bằng cách này, tâm ta sẽ bớt bứt rứt. Tuy nhiên giải pháp này
chỉ công hiệu ở phần nhận thức. Trên thực tế, bằng cách chuyển sự chú tâm, ta
đẩy phiền năo sâu vào trong vô thức, và ta vẫn gia tăng gấp bội những phiền năo
đó. Ngoài mặt có vẻ có an lạc, hài ḥa, nhưng trong đáy ḷng vẫn c̣n một núi lửa
bị đồn ép đang ngủ yên và sẽ bùng nổ dữ dội không biết lúc nào.
Có những vị khác nghiên cứu sự thật về nội
tâm đă t́m hiểu sâu rộng hơn, và bằng cách trực nghiệm sự thật về tâm và thân
ngay trong chính họ, nhận ra rằng, chuyển sự chú tâm chỉ là sự tránh né vấn đề.
Tránh né không giải quyết được ǵ cả. Quư vị phải nh́n thẳng vào vào vấn đề. Khi
nào phiền năo nổi lên trong tâm, cứ quan sát nó, đối diện với nó. Ngay sau khi
quư vị khởi sự quan sát, phiền năo sẽ giảm cuờng độ và từ từ biến mất.
Giải pháp này rất tốt v́ tránh được những
cực đoan : không dồn nén cũng không buông thả. Vùi sâu sự phiền năo trong vô
thức sẽ không loại trừ được nó, và để nó tung hoành bằng những việc làm hoặc lời
nói bất thiện chỉ tạo thêm rắc rối. Nhưng nếu quư vị chỉ quan sát th́ phiền năo
sẽ mất đi, và quư vị sẽ loại trừ được nó.
Điều này nghe rất hay, nhưng trên thực tế
có thực hiện được không ? Đối phó với cái xấu của chính ḿnh không phải là dễ.
Khi sân hận nổi lên, lập tức chúng ta bị chế ngự khiến chúng ta không thể nhận
ra được. Rồi mù quáng v́ sân hận, chúng ta có những hành động và lời nói làm hại
chính ta và người khác. Sau đó, khi đă nguôi giận, chúng ta khóc lóc, hối hận,
cầu xin được tha thứ của người này, người nọ, hoặc các vị thần linh :“Ôi tôi đă
tạo nên lỗi lầm, xin tha thứ cho tôi !” Nhưng rồi lần tới, chúng ta lại rơi vào
t́nh trạng tương tự và cũng hành xử y như thế. Hối lỗi kiểu này không mang lại
ích lợi ǵ cả.
Sự khó khăn là chúng ta không biết khi nào
phiền năo bắt đầu. Nó khởi sự trong vô thức và khi đă lên đến tầng nhận thức nó
đă có đủ sức mạnh chế ngự chúng ta khiến chúng ta không thể quan sát nó được.
Giả thử tôi mướn một thư kư riêng để khi
nào sân hận nổi lên, người thư kư nói với tôi :“Coi ḱa, sân hận đă bắt đầu”.
Bởi v́ tôi không biết khi nào sân hận xẩy ra, tôi phải mướn đủ thư kư cho ba ca.
Nếu tôi có khả năng làm thư thế, và khi sân hận nổi lên lập tức người thư kư báo
cho tôi :“Coi ḱa sân hận đă bắt đầu”. Việc đầu tiên tôi làm là mắng người thư
kư :“Đồ ngốc, bộ tưởng tôi trả tiền để dạy bảo tôi hả ?” Tôi đă bị sự sân hận chi
phối nên sự khuyên bảo không giúp ích ǵ được.
Giả thử tôi vẫn c̣n đủ trí khôn và không
la mắng người thư kư. Trái lại, tôi c̣n nói :“Cám ơn nhiều
! Bây giờ tôi phải
ngồi xuống để quan sát sự sân hận của tôi”. Ngay sau khi tôi nhắm mắt để quan
sát, căn nguyên gây ra sân hận hiện ra trong đầu : Người hoặc sự việc gây ra sự
sân hận này. Nhưng lúc đó tôi không quan sát sự sân hận mà chỉ quan sát căn
nguyên gây ra sân hận. Điều này chỉ làm cho sân hận gia tăng và không giải quyết
được ǵ cả. Thật khó khăn khi quan sát phiền năo hoặc cảm xúc trừu tượng và tách
riêng được những căn nguyên bên ngoài gây ra chúng.
Tuy nhiên, một người đă giác ngộ đă t́m ra
một giải pháp thiết thực. Vị đó khám phá ra rằng khi nào có phiền năo trong tâm,
về sinh lư có hai việc xẩy ra cùng một lúc : một là hơi thở mất nhịp điệu b́nh
thường. Chúng ta bắt đầu thở mạnh hơn khi phiền năo đến trong tâm. Ở mực độ tinh
vi hơn, các phản ứng sinh hóa bắt đầu tạo ra những cảm giác. Mọi phiền năo đều
tạo ra cảm giác này hay cảm giác khác trong cơ thể.
Điều này đưa đến một giải pháp thiết thực.
Một người b́nh thường không thể quan sát được những phiền năo trừu tượng trong
tâm như sợ hăi, sân hận, si mê. Nhưng với sự hướng dẫn và tập luyện đúng cách
th́ rất dễ quan sát sự hô hấp và cảm giác, hai cái liên quan trực tiếp với những
phiền năo trong tâm.
Sự hô hấp và cảm giác sẽ giúp ta hai cách.
Thứ nhất, nó giống như người thư kư riêng. Ngay khi phiền năo nổi lên trong tâm,
hơi thở sẽ mất b́nh thường. Nó sẽ báo động :“Coi ḱa, có cái ǵ không ổn”. V́
chúng ta không thể la mắng hơi thở, chúng ta phải chấp nhận sự cảnh cáo của nó.
Tương tự, cảm giác sẽ cho chúng ta biết có ǵ không ổn. Khi được cảnh giác,
chúng ta có thể bắt đầu quan sát sự hô hấp, bắt đầu quan sát cảm giác, và rất
nhanh chóng chúng ta thấy sự phiền năo mất đi.
Hiện tượng này giống như hai mặt của đồng
tiền. Một là ư nghĩ, cảm xúc hiện ra trong tâm, mặt kia là hơi thở và cảm giác
trên thân. Bất cứ ư tưởng, xúc động nào, bất cứ phiền năo nào trong tâm đều thể
hiện bằng hơi thở và cảm giác ngay lúc đó. Do đó, bằng cách quan sát sự hô hấp
hoặc cảm giác, chúng ta thực sự quan sát phiền năo trong tâm. Thay v́ tránh né
vấn đề, chúng ta phải trực diện với thực tế hiện hữu. Kết quả ta thấy rằng,
phiền năo mất đi sức mạnh, chúng không c̣n trấn áp được ta như trong quá khứ.
Nếu ta kiên tŕ, chúng sẽ hoàn toàn biến mất và ta bắt đầu sống an lạc, một cuộc
sống ngày càng ít những điều xấu.
Bằng cách này, phương pháp tự quan sát cho
chúng ta thấy thực tế ở hai trạng thái : bên trong và bên ngoài. Trước đây, chúng
ta chỉ nh́n bên ngoài mà quên đi sự thật bên trong. Chúng ta luôn luôn t́m kiếm
ngoài ta về nguyên nhân của những bất hạnh. Chúng ta luôn luôn đổ lỗi và cố thay
đổi sự thật bên ngoài. Vô-minh về sự thật bên trong, chúng ta không bao giờ hiểu
rằng nguồn gốc của sự đau khổ nằm trong ta, nằm ngay trong những phản ứng mù
quáng đối với những cảm giác dễ chịu hoặc khó chịu.
Bây giờ, với sự tập luyện, chúng ta có thể
thấy được mặt kia của đồng bạc. Chúng ta có thể có ư thức về hơi thở của ḿnh
cũng như những ǵ xẩy ra trong người. Dù là hơi thở hay cảm giác, chúng ta biết
cách chỉ quan sát mà không mất b́nh tâm. Chúng ta ngừng phản ứng, ngừng gia tăng
sự đau khổ của ḿnh. Trái lại, chúng ta để cho phiền năo thể hiện rồi mất đi.
Càng thực tập phương pháp này, những phiền
năo càng ngày càng mất đi nhanh chóng hơn. Dần dần tâm ta hết những bất tịnh và
trở nên trong sạch. Một tâm thanh tịnh lúc nào cũng tràn đầy t́nh thương không
vị kỷ đối với mọi người, đầy ḷng từ bi về những đau khổ, những thất bại của
người khác, đầy mừng vui v́ sự thành công, an lạc của người, đầy b́nh tâm trong
mọi hoàn cảnh.
Khi đạt được tŕnh độ này, mọi thói quen
trong đời ta đều thay đổi. Không thể nào có thể có những lời nói hoặc hành động
phá rối sự an lạc và hạnh phúc của người khác. Trái lại, một tâm quân b́nh không
những chỉ trở nên an lạc mà bầu không khí chung quanh cũng nhuốm đầy an lạc và
hài ḥa. Điều này sẽ bắt đầu ảnh hưởng đến người khác, giúp ích cho họ luôn.
Bằng cách giữ được b́nh tâm với mọi cảm
xúc trong người, ta t́m được cách tách rời những ǵ ta gặp bên ngoài ta luôn.
Tuy nhiên sự thoát ly không phải là cách tránh né hoặc thờ ơ với những khó khăn
của cuộc đời. Những người thực tập thiền Vipassana thường trở nên nhạy cảm đối
với những khổ đau của người khác và làm hết khả năng ḿnh để xoa dịu những khổ
đau này, không phải v́ bắt buộc, mà với đầy từ, bi và b́nh tâm. Họ biết cách có
được sự vô tư thánh thiện, học được cách tham gia hết ḷng, tham dự nhiệt thành
trong việc giúp đỡ người khác, cùng một lúc duy tŕ được sự b́nh tâm. Bằng cách
này, họ giữ được an lạc và hạnh phúc, đồng thời tạo nên an lạc và hạnh phúc cho
người khác.
Đây là những ǵ Đức Phật giảng dạy : Một
Nghệ Thuật Sống. Ngài không dạy cho họ những giáo điều, những h́nh thức nghi lễ
rỗng tuếch. Ngài chỉ dậy cho họ quan sát thiên nhiên hiện hữu bằng cách quan sát
thực trạng nội tâm. V́ vô-minh nên chúng ta cứ hành xử theo lối có hại cho ḿnh
và cho người. Nhưng khi đă có trí tuệ - trí tuệ của sự quan sát sự thật đúng như
thật — thói quen phản ứng này mất đi. Khi chúng ta ngừng phản ứng mù quáng,
chúng ta có khả năng hành xử một cách vô tư với sự b́nh tâm, một cái tâm thấy và
hiểu được chân lư. Lối hành xử như vậy chỉ có thể tích cực, đầy sáng tạo có lợi
cho ḿnh và cho người.
Như vậy điều cần thiết là “Biết Ḿnh”, lời
khuyên của mọi thánh nhân ! Chúng ta phải hiểu chính ḿnh không phải chỉ bằng
sách vở, bằng lư thuyết, không phải chỉ bằng cảm xúc, hoặc ḷng tin, chỉ chấp
nhận một cách mù quáng những ǵ chúng ta nghe và học được. Sự hiểu biết như vậy
không đủ. Tốt hơn hết, chúng ta phải hiểu đươc thực thể của hiện tượng tâm và
thân này. Chỉ riêng điều này sẽ giúp chúng ta giải thoát khỏi đau khổ.
Sự trực nghiệm nội tâm của chính ḿnh,
phương pháp tự quan sát này được gọi là thiền Vipassana. Theo ngôn ngữ Ấn Độ vào
thời của Đức Phật, passana có nghĩa là thấy một cách b́nh thường với con mắt mở
rộng. Nhưng vipassana là quan sát sự thật đúng như thật chứ không phải tưởng như
thật. Sự thật hiển nhiên phải được xuyên thủng cho tới khi ta đạt được sự thật
tối hậu của toàn thể cấu trúc tâm lư - vật lư. Khi đă chứng nghiệm được sự thật
này, chúng ta sẽ biết cách ngừng phản ứng mù quáng, ngừng tạo ra phiền năo mới
và những phiền năo cũ sẽ từ từ mất đi một cách tự nhiên. Chúng ta sẽ hết khổ và
hưởng đưọc hạnh phúc thật sự.
Trong một khóa thiền, sự tu tập gồm có ba
phần. Đầu tiên ta phải tránh những hành động bằng lời nói hoặc việc làm phá hại
sự an lạc, hài ḥa của người khác. Ta không thể tu tập để giải thoát khỏi những
bất tịnh trong khi có những hành động và lời nói làm gia tăng những bất tịnh
này. Do đó, giới luật là điều tối cần trong bước đầu của sự tu tập. Ta thực hành
không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.
Bằng cách tránh khỏi những hành động này, ta làm cho tâm đủ tĩnh lặng để tiến xa
hơn.
Phần kế tiếp là tu tập làm chủ được cái
tâm vọng động bằng cách chú tâm vào một đối tượng : đó là hơi thở. Ta cố gắng giữ
được sự chú tâm vào sự hô hấp càng lâu càng tốt. Đây không phải là sự tập luyện
về hơi thở, ta không điều khiển hơi thở. Trái lại ta quan sát sự hô hấp b́nh
thường, lúc ra, lúc vào. Bằng cách này, ta làm cho tâm được yên tĩnh, để nó
không bị những phiền năo chi phối. Cùng một lúc ta định được tâm, làm cho tâm đủ
bén nhạy và sâu sắc để đưa đến tuệ giác.
Hai phần đầu này, sống có đạo đức và làm
chủ được tâm rất cần thiết nhưng chúng chỉ đưa đến sự dồn nén những phiền năo
nếu chúng ta không tập phần thứ ba, đó là thanh lọc tâm hết những phiền năo bằng
cách phát triển huệ nhăn vào chính bản thân ḿnh. Đây là Vipassana : Chứng nghiệm
sự thật về bản thân bằng cách quan sát trong ta một cách vô tư, có phương pháp
những hiện tượng thay đồi không ngừng của thân và tâm thể hiện qua cảm giác. Đây
là tổng hợp những lời dạy của Đức Phật : tự thanh lọc tâm bằng tự quan sát.
Mọi người ai cũng có thể tu tập được. Mọi
người đều phải đương đầu với khổ đau. Đây là bệnh chung của con người và cần
phải có thuốc chữa chung, không riêng cho người nào. Khi ta đau khổ v́ sân hận,
nó không phải sân hận của Phật giáo, hoặc sân hận của Ấn độ giáo, hoặc sân hận
của Thiên chúa giáo. Sân hận là sân hận. Khi ta bị giao động v́ giận
dữ, sự
giao động này không phải riêng của người theo Thiên chúa giáo, hoặc Do thái giáo
hoặc Hồi giáo. Bệnh này là bệnh chung của nhân loại. Thuốc chữa phải chữa được
cho mọi người.
Vipassana là loại thuốc này. Không ai phản
đối lối sống tôn trọng an lạc và hài ḥa của người khác. Không ai phản đối việc
làm chủ được tâm ḿnh. Không ai phản đối sự phát triển tuệ giác vào chính bản
thân ḿnh để có thể giải thoát tâm ḿnh khỏi những phiền năo. Vipassana là đường
lối chung cho mọi người.
Quan sát thực thể bằng cách quan sát sự
thật nội tâm — đây là biết ḿnh trực tiếp và bằng trực nghiệm. Càng thực tập ta
càng thoát được đau khổ v́ tâm phiền năo. Từ một sự thật sơ đẳng, ngoại vi, giả
thực, ta xuyên thấu tới sự thật tối hậu về tâm và thân. Khi vượt qua được giai
đoạn này, ta chứng nghiệm được sự thật bên kia tâm và thân, vượt thời gian và
không gian, vượt môi trường tương đối : chân lư về sự giải thoát hoàn toàn khỏi
phiền năo, bất tịnh và khổ đau. Bất cứ danh từ nào ta gán cho sự thật tối hậu
này đều không thành vấn đề; đó là mục tiêu cuối cùng của con người
!
ĐỨC ĐẠT-LAI LẠT-MA KỂ CHUYỆN
TÁI SANH TRONG PHẬT GIÁO
Trong quyển
“Rebirth in Early Buddhism & Current Research” [ Tái
Sanh Trong Phật Giáo & Nghiên Cứu Hiện Nay Về Tái Sanh ] của Bhikkhu Analayo ( vị Sư sanh ra ở Đức, xuất gia ở Sri
Lanka ),
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma
có kể lại những câu chuyện tái sanh trong Phật Giáo thời hiện đại
như sau :
+ Chuyện Thứ Nhất - Ngài
kể :“Mẹ của tôi thường nói lúc c̣n nhỏ tôi
đă có những kư ức rơ ràng về kiếp trước của tôi
!”...
Ngoài ra, Ngài c̣n kể
những câu chuyện tái sanh
trong Phật giáo và những kinh nghiệm riêng, khảo sát riêng của ngài
về vấn đề tái sanh; cùng với những mẫu chuyện của các nhà sư Phật giáo Tây Tạng khi c̣n thơ ấu
đă nhớ về kiếp trước và t́m về tu viện cũ ngày xưa họ đă tu hành.
+ Chuyện Thứ Hai :“Trong đầu thập niên 1980s, tôi gặp hai bé gái ( một từ
Patiala và một từ Kanpur ở Ấn-Độ ), cả hai đều nhớ rất rơ ràng về
kiếp trước của họ, cả nơi sinh sống lẫn cha mẹ hồi tiền kiếp
!”.
+ Chuyện Thứ Ba :“Gần
đây, tôi gặp một bé trai sinh ở Lhasa ( Tây Tạng ), nhưng lại sống
gần nơi tôi cư ngụ ( Dharamsala ), cậu nói rằng
:“Tôi không đến từ
nơi này ! Nơi của tôi là phía nam Ấn-Độ”. Sau đó, cậu dẫn cha mẹ cậu
( kiếp này ) tới Tu Viện Gaden Monastery ( Tu viện lớn của ḍng
Gelug tại Karnataka, trong khu định cư Mundgod của người Tây Tạng
lưu vong tại Ấn-Độ ), cậu chỉ vào căn nhà mà cậu đă từng ở trong
kiếp trước, sau đó chỉ vào căn pḥng có một cái hộp, rồi nói
:“Nếu
nh́n vào trong cái hộp này, mọi người sẽ thấy cặp mắt kính của tôi”, và đúng là họ đă thấy như thế !”.
+ Chuyện Thứ Tư :“Tôi
có một người bạn
Tây Tạng sống ở Hoa Kỳ có một đứa cháu nội, là tái sanh của một Lạt-Ma
mà người bạn này trước đó đă quen biết. Thế nhưng cha của cậu bé
không muốn con trai ḿnh được công nhận và tu học như một Lạt-Ma tái
sanh, và do vậy đưa cậu vào trường học đời thường. Nhưng người ông
của đứa bé kể với tôi rằng : cháu bé thường nói
:“Đây không phải là
nơi con nên ở, con nên ở tại Ấn-Độ, trong tu viện Drepung Loseling
Monastery”. Sau cùng th́ người cha của đứa bé cũng đành chấp nhận và
cho cậu vào tu viện ở Ấn Độ để tu hành !” ...
Đây thật sự là một quyển sách hay và hữu ích cho các
nhà nghiên cứu Phật học ngày nay, nhất là những người đang quan tâm
đến việc tái sanh : không biết thực có tái sanh ở đời sau hay không
? [ Quyển này có thể đặt mua trên Amazon.com - Nguyên bản bằng tiếng
Anh ]