SỐNG HẠNH PHÚC – CHẾT B̀NH
AN
(The Joy of
Living - Dying in Peace)
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
Tôi xin tặng những bài giảng này
cho những người không có th́ giờ để học hỏi nhiều. Tôi không có ǵ để nói khác
hơn những chuyện đă nói trước đây. Vậy, xin quư vị đừng đọc sách chỉ để có thêm
kiến thức hay thêm những từ ngữ mới, mà nên cố gắng dùng những điều tôi giải
thích để chuyển hóa tâm ḿnh. Nếu chỉ nghe hoặc đọc thôi không đủ, quư vị nên
thực tập những ǵ học hỏi được, luôn luôn cố gắng áp dụng những điều đó vào các
sinh hoạt tâm linh. Như vậy giáo pháp mới có ích lợi thực sự.
Chính Bụt đă nói: "Đừng làm các
việc ác, hăy rán tu nhân tích đức, làm điều lành và chuyển đổi toàn diện tâm
thức ḿnh". Đó là giáo pháp Như Lai. Chúng ta nên nghe theo lời Bụt dạy v́ trong
thâm tâm tất cả chúng ta, không ai muốn bị đau khổ, người nào cũng muốn sống
hạnh phúc. Khổ đau là kết quả của những hành động sai lầm và bất thiện, trong
khi hạnh phúc là kết quả của những hành thiện tốt đẹp. Tuy nhiên, muốn bỏ điều
xấu làm điều tốt, chúng ta không thể chỉ thay đổi cách nói năng hoặc hành động
mà chúng ta chỉ có thể làm được chuyện này bằng cách chuyển hóa tâm của ḿnh.
Trong đời sống chúng ta nên hành
động một cách thông minh, có mục đích và phải biết coi các mục tiêu đó có thể
thực hiện được chăng. Trong truyền thống tu học Phật giáo, mục tiêu của chúng
tôi là đạt tới Niết bàn tịch tĩnh, tới quả vị Bụt. Loài người chúng ta may mắn
có khả năng đạt tới các mục tiêu này. Quả vị Giác ngộ mà chúng ta t́m kiếm chính
là sự tự do nhờ vượt thoát được những vọng tưởng thiêu đốt tâm tư.
1.- BẢN TÂM THANH
TỊNH
Bản chất của tâm vốn dĩ thanh
tịnh, những cảm xúc bất an làm khổ chúng ta chỉ là những lầm lẫn nhất thời.Tuy
thế, chúng ta không thể loại bỏ những cảm thụ tiêu cực đó bằng cách cắt bớt một
số tế bào trong bộ năo. Kỹ thuật giải phẩu tối tân nhất ngày nay cũng không thể
làm được chuyện này. Cách duy nhất là chúng ta phải chuyển hóa được tâm của
chúng ta.
Đạo Phật dạy rằng tâm là nhân
duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất
giúp ta thoát ṿng sanh tử. Sự giải thoát này thực hiện được khi ta kiểm soát
được những ư nghĩ bất thiện và phát huy được những tư tưởng tích cực, hướng
thiện. Điều cần biết là công việc chuyển đổi này đ̣i hỏi sự kiên tŕ nhiều năm
trường. Chúng ta đừng nên mong có kết quả tức thời. Hăy nghĩ tưởng tới các vị
thầy lớn trong quá khứ. Quư ngài đă chịu rất nhiều gian khổ trong việc thực
chứng tu tập. Cuộc đời tu hành của Bụt Thích Ca là tấm gương toàn thiện nhất cho
chúng ta.
V́ ḷng từ bi đối với chúng sanh,
Bụt Thích Ca ra đời trước đây hơn 2500 năm tại Ấn Độ. Ngài lọt ḷng Mẹ đă là một
hoàng tử. Ngay từ khi c̣n nhỏ, ngài đă có nhiều hiểu biết và từ bi. Ngài hiểu
rằng bản chất của chúng ta là ai cũng ưa sống hạnh phúc, không ai muốn bị đau
khổ. Khổ đau không phải lúc nào cũng do ngoại cảnh đưa tới cho ta. Không phải
chỉ đói kém hoặc bị hạn hán mới khổ. Trong hai trường hợp trên, chúng ta có thể
tự bảo vệ, chẳng hạn bằng cách tích trữ lương thực. Nhưng những nỗi khổ như
sanh, già bệnh chết là những cái khổ liên hệ tới bản chất sâu xa của ḍng đời,
th́ chúng ta không thể giải quyết bằng những điều kiện ngoại biên được. Ngoài ra
chúng ta c̣n có sẵn trong ḿnh một cái tâm không thuần ḥa, có thể tiếp nhận đủ
mọi vấn đề rắc rối. Nó chứa đựng nhiều tư tưởng bất thiện, tiêu cực như nghi
ngờ, sân hận. Khi tâm ta c̣n bị những tư tưởng tiêu cực này bủa vây, th́ dù ta
có quần áo lụa là để mặc, thực phẩm tuyệt hảo để ăn, chúng cũng không giúp ta
giải quyết được vấn đề.
Bụt Thích Ca đă để tâm quán sát
những chuyện đó và quán tưởng về bản chất của chính cuộc đời ngài. Thấy mọi
người đều khổ, ngài cũng biết rằng chúng ta sở dĩ khổ v́ có cái tâm vô kỷ luật.
Ngài thấy rằng tâm ta chạy như thú hoang đến nỗi nhiều đêm ta mất ngủ. Đối diện
với cái tâm chất chứa những đau khổ và khó khăn của con người, ngài dùng trí tuệ
để t́m xem phải chăng có một phương cách nào giúp cho người ta thoát được những
khổ đau đó?
Bụt cho rằng cuộc sống đời vương
giả trong cung điện không phải là phương cách thoát khổ mà có thể nó c̣n là một
trở ngại nữa. Vậy nên ngài từ bỏ hết thảy những tiện nghi hoàng gia, kể cả liên
hệ với vợ con, để sống cuộc đời của kẻ không nhà. Trong việc t́m đạo, ngài học
với nhiều vị thầy, lắng nghe họ dạy dỗ. Ngài học được ít nhiều từ các vị thầy
này, nhưng không ai đưa ra được con đường thoát khổ một cách tuyệt đối. Ngài tu
khổ hạnh rất nghiêm mật trong sáu năm. Từ bỏ cuộc đời sung sướng của hoàng gia
và tu khổ hạnh nhiều năm giúp ngài có đủ duyên phát triển trí tuệ trong khi
thiền quán. Ngồi dưới gốc cây Bồ đề, ngài vượt thoát được tất cả mọi chướng ngại
và đạt được quả vị Giác ngộ. Sau đó, ngài bắt đầu giảng dạy, chuyển pháp luân,
căn cứ vào những kinh nghiệm và sự thực chứng của chính ḿnh.
2.- HỌC THEO BỤT THÍCH CA
Khi nói về Bụt, chúng ta không
nói tới một con người đă có tỉnh thức ngay từ khi ra đời. Bụt bắt đầu giống y
như chúng ta. Ngài là một con người b́nh thường như chúng ta, cũng nh́n thấy cái
khổ của sanh, lăo, bệnh, tử. Ngài cũng có những tư tưởng và cảm thọ sướng khổ y
như chúng ta. Nhưng nhờ vào ư chí tu luyện quyết tâm và kiên tŕ, ngài đă đạt
được những quả vị tỉnh thức đưa tới t́nh trạng toàn giác.
Chúng ta nên nh́n ngài như một
tấm gương để noi theo. Chúng ta ra đời với tư cách một con người tự do và may
mắn. Dù đă phải chịu ít nhiều khổ đau, chúng ta vẫn may mắn có trí thông minh,
có sự tỉnh thức không khác ǵ ai. Chúng ta lại được nghe những lời giảng dạy
thâm sâu của Bụt, và hơn nữa c̣n có khả năng hiểu được Phật pháp. Từ thời Bụt
Thích Ca tới nay, các Phật tử đă nh́n Bụt và các đệ tử giỏi của ngài như những
tiền nhân đáng noi gương.
Dù chúng ta sanh ra là một con
người b́nh thường, chúng ta cũng nên rán lợi dụng những duyên may quư báu này
trước khi chết để thực chứng phần nào Phật pháp. Làm được vậy, chúng ta sẽ không
c̣n sợ chết. Một người tu tập giỏi có thể chết b́nh an không hối tiếc ǵ, v́
người đó đă xử dụng được tiềm năng của họ. Trái lại, làm người mà chúng ta không
mang được dấu ấn tích cực nào vào trong tâm thức, chỉ lưu giữ những ǵ phiền
trược, th́ chúng ta đă lăng phí đời ḿnh. Gây đau khổ hay chết chóc cho con
người hay các loài khác, ta giống như loài quỷ chứ chẳng giống người. Vậy nên
hăy sống cho xứng đáng với kiếp người, đừng làm một thứ phá hoại.
3.- THỰC HÀNH THEO GIÁO PHÁP
Trên thế giới có khi người ta
nhân danh tôn giáo để gây ra chiến tranh. Chuyện này xảy ra khi chúng ta coi tôn
giáo là một thứ nhăn hiệu chứ không thực hành theo giáo pháp của tôn giáo đó. Tu
tập phần tâm linh là một phương cách giữ ǵn kỷ luật cho tâm trí ta. Nếu chúng
ta để cho những tư tưởng bất thiện hướng dẫn, không bao giờ chịu gắng sức chuyển
hóa chúng; nếu chúng ta dùng giáo pháp để làm cho tự ái tăng trưởng hơn, th́
giáo pháp có thể trở thành mầm mống của chiến tranh. Trái lại, nếu chúng ta thực
tập để chuyển hóa tâm ḿnh, th́ không bao giờ nó sẽ là nguyên nhân gây ra xung
đột.
Có nhiều người chỉ nói giáo pháp
trên môi lưỡi. Thay v́ dùng giáo pháp để trừ khử những tư tưởng bất thiện của
ḿnh, họ lại nắm lấy nó như một thứ của cải mà họ là chủ nhân. Họ dùng giáo pháp
để gây ra chiến tranh hay thúc đẩy các hoạt động phá hoại khác. Dù là đệ tử theo
đạo Phật, đạo Ấn Độ, đạo Thiên Chúa, Do Thái giáo hay Hồi giáo, chúng ta không
nên hài ḷng chỉ với cái danh hiệu mà thôi. Điều quan trọng là ta biết rút tỉa
ra những thông điệp được giảng dạy trong các truyền thống tôn giáo khác nhau
này, để chuyển đổi tâm thức vô kỷ luật của chúng ta. Nói tóm lại, là con Bụt
chúng ta nên noi gương Bụt Thích Ca.
4.- TU TẬP KHÔNG DỄ
Đôi khi suy ngẫm trên cuộc đời
Bụt Thích Ca, tôi cảm thấy mắc cở. Dù giáo pháp của ngài được giảng dạy theo
nhiều tŕnh độ khác nhau, nhưng Bụt trong lịch sử rơ ràng đă khổ tu trong sáu
năm liền. Điều này chứng tỏ rằng tâm ta không thể được chuyển đổi bằng cách chỉ
ngủ, sống thoải mái và hưởng thụ những tiện nghi. Nó cũng chứng tỏ ta chỉ có thể
đạt đạo sau một thời gian dài tu luyện khó khăn. Thật không dễ ǵ đạt tới một
tŕnh độ tâm linh trong một thời gian ngắn hoặc khi ta không cố gắng. Ngay cả
Bụt, người đề xướng ra giáo pháp mà chúng ta theo đây, cũng c̣n phải khổ luyện
như thế! Chúng ta làm sao hy vọng đạt được giác ngộ khi ta chỉ tu tập ít nhiều
và an vui với sự thanh thản? Nếu đọc chuyện các bậc đại sư thời xưa, ta thấy
rằng họ đă khổ công quán tưởng và thiền tập trong ẩn mật. Họ không dùng con
đường tắt nào khác.
Nếu chúng ta thực tâm quy y Bụt,
ta phải nh́n vào ngài như tấm gương để noi theo. Muốn khổ công tu luyện cũng
phải biết tu như thế nào, không phải cứ cố gắng khổ cực là giác ngộ được. Trong
đạo Bụt, chúng ta cần có niềm tin và sự tận tụy, nhất tâm, nhưng thêm vào đó ta
cũng phải có trí tuệ sáng suốt nữa. Dĩ nhiên ta có thể đạt tới một mức phát
triển tinh thần nào đó nhờ nỗ lực và tín tâm, nhưng muốn tới bờ giác, ta cần
phải có trí tuệ.
Để có thể nuôi dưỡng những đức
tính và phát triển những tánh thiện đă có sẵn, ta cần hiểu là trí tuệ cũng có
nhiều tŕnh độ. Điều quan trọng là ta biết chú tâm ta vào một đối tượng đáng
quán chiếu. Một người thông minh nếu không có cơ hội, th́ anh hay chị ta cũng
không có cơ hội dùng trí tuệ của ḿnh cho một đối tượng thích hợp. Muốn có sự
hiểu biết lớn, ta cần t́m những cơ hội có thể áp dụng giáo pháp vào đời sống.
Vậy nên Bụt không dạy ta chỉ cần có ḷng tin vào Bụt là đủ. Đầu tiên, Bụt dạy về
Tứ Diệu Đế rồi căn cứ vào đó ngài giảng dạy theo nhiều tŕnh độ, đưa ra những
phương cách khác nhau cho đại chúng học theo.
5.- HẠNH PHÚC - KHỔ ĐAU ĐỀU DO CHÍNH TA
Kinh điển do Bụt giảng dạy đă
được dịch ra tiếng Tây Tạng gồm trên 108 cuốn, chứng tỏ ngài đă giảng dạy rất
nhiều. Nhiều kinh điển c̣n chưa được phiên dịch ra ngôn ngữ Tây Tạng nữa. Học
đạo đàng hoàng, ta sẽ có ḷng tin và có trí tuệ. Ta nên cố gắng học cho hiểu và
hành tŕ những lời Bụt dạy, ta sẽ phát triển được trí tuêï và ḷng từ bi. Dần dà
ta sẽ giữ được kỷ luật cho tâm ḿnh. Theo triết lư Phật giáo, chúng tôi không
tin rằng mọi sự vật được h́nh thành hay chủ động bởi những yếu tố bên ngoài.
Chúng tôi cũng không tin những sự vật có nhân duyên bất biến. Chúng tôi cho là
hạnh phúc hay đau khổ là do chính ḿnh tạo ra. Tính chất của các hành nghiệp
chúng tôi làm ra tùy thuộc vào t́nh trạng của tâm thức ḿnh, tùy tâm có kỷ luật
hay không mà thôi.
Khó khăn và đau khổ tới từ cái
tâm vô kỷ luật. Vậy nên, hạnh phúc thật sự ở ngay trong tay ta. Chúng ta tự gánh
lấy trách nhiệm, chúng ta không thể mong đợi người khác mang tới cho ta hạnh
phúc. Muốn được hạnh phúc, ta cần nhận biết những nguyên nhân tạo ra nó, rồi
phát triển những cái duyên này. Trong khi đó ta nhận diện những nguyên nhân gây
đau khổ, rồi loại bỏ chúng đi. Nếu ta biết nên tập những ǵ, nên bỏ những ǵ,
th́ ta tự nhiên được sung sướng.
Căn nguyên của đau khổ là vô
minh. Vô minh có nghĩa là quan niệm sai lầm về tự ngă. Tất cả những khổ đau vô
lượng chúng ta gặp đều do quan niệm sai lầm này. Vậy nên khi nói rằng Bụt v́
ḷng từ bi mà loại trừ mọi tà niệm, có nghĩa là Bụt do ḷng từ bi làm lợi cho
muôn loài. Muốn vậy, ngài đă dạy nhiều giáo pháp có tŕnh độ khác nhau để ta
thoát được vô minh và những tư tưởng bất thiện. Ai học theo ngài, hiểu được
chánh kiến và thực tập được th́ sẽ thoát được khổ. Chúng ta kính ngưỡng Bụt
Thích Ca v́ ngài đă dạy ta những giáo pháp thâm diệu như thế.
6.- HẠNH PHÚC DO L̉NG TỪ BI
Bụt là nơi nương tựa đáng tin cậy
v́ ngài đă phát triển tâm từ bi và dùng hết cuộc đời ngài để nuôi dưỡng tâm đó.
Trong đời sống b́nh thường cũng vậy, người đáng tin hay không là người có ḷng
từ bi hay không. Khi một người thiếu ḷng từ bi, th́ dù họ học cao và thông
minh, ta cũng không thích nương tựa vào họ. Học giỏi không đủ, điều căn bản của
con người biết giúp ích kẻ khác chính là ḷng từ bi. Một con người có ḷng từ bi
hay có ư thiện muốn làm điều tốt lành cho người khác, th́ ta có thể yên tâm tin
vào họ. Đức tính quan trọng nhất của Bụt là ḷng từ - là ư muốn mang lợi lạc tới
cho muôn loài. V́ ngài đă phát triển được những tính thiện nơi ngài, nên Bụt có
đủ khả năng giải thích về sự quan trọng của những đức tính đó. V́ ngài đă thực
chứng được nên ta có thể nương tựa vào ngài.
Bụt Thích Ca, vị sáng lập ra đạo
Bụt, là con người vững chăi, toàn thiện, ta có thể nương tựa vào ngài một cách
an toàn. Nhưng không phải chỉ trông vào sự toàn thiện của ngài, ta c̣n phải thực
tập theo gương Bụt. Ta phải biết cách bỏ những con đường bất thiện để đi vào nẻo
thiện. Dù không được học hỏi trực tiếp với ngài, nhưng nếu chúng ta hiểu biết ít
nhiều về những giáo pháp này, th́ ta đă có thể đối đầu với những khó khăn và khổ
lụy một cách tốt đẹp hơn.
Cứ tưởng tượng có hai người cùng
gặp một vấn đề. Tùy theo họ hiểu đạo hay không mà họ sẽ có những thái độ và
phương cách khác nhau để ứng xử. Thay v́ làm giảm bớt khổ lụy, người không biết
đạo lại làm cho t́nh trạng bết bát hơn v́ giận hờn, ghen tỵ v.v... Con người có
chút tỉnh thức và hiểu biết, sẽ có tinh thần để ứng xử cởi mở hơn, thẳng thắn
hơn. Với chút ít hiểu biết về Phật pháp và kinh nghiệm tu tập, dù ta chưa thể
chấm dứt mọi khổ đau, ta cũng có thể đối diện với chúng một cách dễ chịu rồi.
Như vậy, nhờ giáo pháp mà chúng ta được lợi lạc trong đời sống hằng ngày.
Cuộc đời vô thường như mây mùa
thu. Sinh tử của muôn loài có thể coi như những màn kịch. Con người sinh ra,
chết đi nào khác những vai tṛ các nghệ sĩ đóng tuồng ra vô trên sân khấu. V́ sự
vô thường đó mà chúng ta không thể có an b́nh. Ngày nay hăy biết ḿnh may mắn
được làm người. So sánh với súc vật và quỷ dữ trong địa ngục, đời sống con người
thật đáng quư. Nhưng dù nó đáng quư tới đâu, chúng ta rồi cũng sẽ phải chết. Suy
ngẫm về cuộc đời người ta từ khi sanh ra tới lúc chết đi, ta không thấy có hạnh
phúc trường cửu và cũng không có an toàn.
Ngay sự sanh cũng đă kèm theo đau
khổ. Sau đó là phải đối diện với những vấn đề như bệnh tật, già nua, gặp cảnh
bất như ư hay khi không đạt được những ǵ ḿnh ưa thích. Một vài vấn đề ta phải
đối diện như chiến tranh th́ do chính con người gây ra. Nhưng tựu chung, khi nào
c̣n sống trong cơi luân hồi này, khi nào c̣n bị những cảm thọ phiền năo- một thứ
độc dược - xâm nhập tâm trí, th́ chúng ta c̣n đau khổ, không có hạnh phúc hay an
b́nh lâu dài.
Tất cả các phần tử của cây độc
dược - trái, hoa, rễ, lá và cành - tất cả đều bị chất độc ngấm vô. V́ mọi sinh
hoạt của chúng ta đều bị ảnh hưởng bởi những cảm thọ xao động này, ta sẽ sớm
muộn gặp vấn đề và khổ đau. V́ bệnh và chết là tính cách tự nhiên của đời sống,
ta không nên ngạc nhiên khi bị đau ốm hay tử vong. Nếu không thích bệnh không
thích chết, vậy th́ ta nên chấm dứt ṿng luân hồi. Ta nên chấm dứt không sanh ra
trong cơi này nữa. Khi nào tham sân si c̣n ở trong ta th́ ta sẽ gặp cảnh khổ
hoài hoài. Khi tâm trí bị phiền trược ta không thể có b́nh an. Câu hỏi quan
trọng là: làm sao cho ta dứt được chúng.
7.- BẢN CHẤT CỦA TÂM
Những cảm xúc phiền trược không
phải là bản chất của tâm. V́ nếu chúng là tâm th́ khi nào tâm có mặt chúng cũng
có mặt. Không phải vậy. Thí dụ một người có thể rất nóng tính, nhưng đâu phải
người đó nổi nóng suốt ngày? Người khó thương đôi khi cũng dễ chịu tươi cười.
Vậy nên, những cảm xúc phiền năo trong ta dù rất mạnh mẽ, chúng không phải là
những thứ dính chặt vào tâm ta. Chúng không phải là tâm. Phiền năo là do vô
minh. Giống như khả năng tiếp xúc có mặt trên toàn thân thể ta. Vô minh xâm nhập
tất cả những cảm xúc tiêu cực trong ta. Không có phiền năo nào mà không liên hệ
với vô minh.Vậy th́ ta phải t́m hiểu vô minh là ǵ. Đó chính là t́nh trạng tiêu
cực của tâm gây ra tất cả những phiền năo cho ta. Nó chính là cái nhân đưa ta
vào ṿng luân hồi. Dù vô minh hay chấp ngă rất mạnh, nhưng đó chỉ là một tâm
thức sai lầm. Có những thành tố của tâm thiện (gọi là tâm sở thiện), có thể
chống lại với tâm vô minh. Nếu ta dựa vào chúng, ta sẽ nhổ được gốc vô minh. Bản
chất của tâm là trong sáng và tỉnh thức. Trong bản tâm, không có những phiền
năo. Đó chỉ là sự che lấp cái tâm chân thật. Vậy nên tâm chân thật có thể nhổ
bật gốc rễ của vô minh. Một ngày nào đó, ta sẽ giác ngộ : tâm ta trong sáng tỉnh
thức hoàn toàn .
Người có hai
hạng : Một là có
tín tâm, hai là chẳng có tín tâm. Bồ tát phải biết người có tín tâm thời là
người lành, người chẳng có tín tâm thời chẳng gọi là người
lành.
Người có tín tâm lại có hai
hạng : Một là
người thường đến chùa chiền, hai là người chẳng ưa đến chùa. Bồ tát phải biết
người đến chùa là lành, người chẳng ưa đến chùa thời chẳng gọi là
lành.
Người đến chùa lại có hai
hạng : Một là lễ
bái, hai là chẳng lễ bái. Bồ tát phải biết người lễ bái là lành, người chẳng lễ
bái thời chẳng gọi là lành.
Người lễ bái lại có hai
hạng : Một là
nghe pháp, hai là chẳng nghe pháp. Bồ tát phải biết người nghe pháp là lành,
người chẳng nghe pháp thời chẳng gọi là lành.
Người nghe pháp lại có hai
hạng : Một là hết
ḷng lắng nghe, hai là chẳng hết ḷng lắng nghe. Bồ tát phải biết người hết ḷng
lắng nghe gọi là lành, người chẳng hết ḷng lắng nghe thời chẳng gọi là
lành.
Hết ḷng nghe pháp lại có hai
hạng : Một là suy
gẫm ư nghĩa, hai là chẳng suy gẫm ư nghĩa. Bồ tát phải biết người suy gẫm ư
nghĩa là lành, người chẳng suy gẫm ư nghĩa thời chẳng gọi là
lành.
Người suy gẫm ư nghĩa lại có hai
hạng : Một là
đúng như lời nói thật hành, hai là chẳng thật hành đúng theo lời nói. Bồ tát
phải biết người thật hành đúng theo lời nói là lành, người không thật hành đúng
theo lời nói thời chẳng gọi là lành.
Người thật hành đúng như lời nói
lại có hai hạng :
Một là cầu quả Thanh Văn chẳng có thể lợi ích an lạc tất cả chúng sanh khổ năo,
hai là hồi hướng Đại thừa Vô thượng lợi ích mọi người làm cho đặng an lạc. Bồ
tát phải biết lợi ích mọi người làm cho đặng an lạc là điều lành vô
thượng ! ...
8.- NIẾT BÀN TRONG TÂM
Hiện nay có thể bạn chưa thực
chứng được ḷng tin tưởng vào những chân lư này. Nhưng nếu bạn chịu học hỏi và
áp dụng luận lư, phân tích học, bạn sẽ dần dần tin vào khả năng dứt bỏ được
những cản trở đó của tâm. Đại cương, ta có thể nói Niết bàn chính là dự vắng mặt
của phiền năo, và ta có thể đạt tới Niết bàn ngay trong tâm ta. V́ ta không muốn
bị khổ và ta có thể đạt tới Niết bàn, ta cần quán tưởng vềø cái khổ. Nếu hiểu
được sự luân hồi và bản chất của khổ, ta sẽ tu tập Giới, Định và Tuệ. Khi thấy
vật ǵ đẹp tới đâu, ta hiểu rằng nó có tính chất gây khổ đau. Để có hứng khởi
muốn đạt tới cảnh giới Niết Bàn, ta nên có ư muốn đạt được một cảnh đời tốt đẹp
hơn trong tương lai. Trước đó, ta phải biết quư trọng cuộc đời hiện tại, nếu
không biết cách sống sao cho phát triển được ḷng từ bi, th́ có lẽ ta chẳng cần
bàn tới chuyện đạt tới đời sống tốt đẹp hơn sau này. V́ ta có thể thoát ṿng
sanh tử, nên điều căn bản là ta phải tu học để làm hiển lộ Phật tánh. Muốn nuôi
dưỡng ư hướng này, ta nên quán chiếu về sự khao khát hạnh phúc và ghét khổ đau
của mọi loài cũng như mọi người. Vậy mỗi chúng ta đều nên phát nguyện giúp tất
cả chúng sanh đạt tới quả vị Phật. Muốn đạt tới mục tiêu đó, ta cần thực tập con
đường giải thoát.
Kinh điển nói tới quy y Bụt, Pháp
và Tăng để được giác ngộ. Nói chung chúng ta có thể nương tựa vào nhiều phương
pháp. Khi bị nắng cháy, ta nương vào bóng mát của cây. Khi đói ta nhờ tới thực
phẩm. Tương tự như vậy, khi muốn được lợi lạc nhất thời, ta có thể nương tựa vào
các thần quyền địa phương. Trong các tôn giáo khác nhau, chúng ta thấy nhiều
giáo pháp để nương tựa. Trong đạo Bụt, Niết bàn tịch tĩnh hay t́nh trạng thoát
khổ tuyệt đối, chính là nơi ta nương tựa.
Niết Bàn hay trạng thái an lạc
ḥa b́nh là ǵ? Dù chúng ta không thích đau khổ, ta vẫn cứ khổ v́ tâm ta bị
những phiền năo chiếm ngự. Do cái tâm không kỷ luật này mà ta tích lũy những cảm
thọ tiêu cực. Tâm vô kỷ luật chính là nguyên nhân của phiền năo. Nếu ta dứt bỏ
được nguyên nhân này,ta sẽ đạt tới trạng thái dứt khổ, gọi là giải thoát hay
Niết bàn, là hạnh phúc trường cửu. Do đó ta nương vào Phật pháp.
Để có thể thật sự dứt khổ, ta
phải đi theo chánh đạo. Ta cần nuôi dưỡng những tính thiện trong ta. Khởi đầu,
ta chỉ nhận biết rằng tâm ta là đối tượng của ngu si, thiên kiến và lầm lẫn. Khi
sự hiểu biết về bản chất các pháp của ta tăng tiến, ta sẽ nghi ngờ, t́m hiểu mọi
sự vật có tự tánh riêng chăng? Ta sẽ dần dà hiểu rằng những đối tượng trước đây
ta thấy hoàn toàn tốt đẹp mà ta mê thích, thực sự chúng có bản chất riêng trong
tự thân chúng hay chăng?
Tương tự như vậy, những ǵ làm ta
giận dữ có tự tánh độc lập không? Càng quen thuộc với những suy ngẫm này, ta
càng tiến sâu vào sự hiểu biết và thực chứng. Kết quả là ta sẽ có khả năng phát
triển trí tuệ và thực chứng về tự tánh Không của mọi sự vật. Chuyện này y như
thắp lên một ngọn đèn sáng tại nơi tối tăm. Nhưng không có nghĩa là chúng ta có
thể giác ngộ được ngay, vượt thoát vô minh tức th́ như khi ta bật ngọn đèn điện.
Phát huy những tính thiện trong tâm phải có thời gian, từ từ mới làm được.
Những tôn giáo khác có nhiều
phương pháp phát triển t́nh thương và ḷng bác ái, nhưng không có truyền thống
tâm linh nào giải thích rằng mọi sự vật trống rỗng, rằng vạn pháp đều nương vào
nhau (tương tức, tương nhập). Chỉ có đạo Bụt cho rằng ta sẽ được giải thoát khi
hiểu được tánh Không, bản chất thật sự của vạn vật. Vậy nên chỉ có Bụt, Pháp,
Tăng là tam bảo xứng đáng cho những ai mong được giải thoát nên nương tựa vào.
Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đă dạy chúng ta như vậy.
Ta quy y nương vào Phật, Pháp,
Tăng giống như ta không c̣n lối nào khác để đi. Có nhiều loại tín ngưỡng. Trong
niềm tin tưởng sáng láng, trong lành ta quư trọng tánh thiện của Bụt, Pháp,
Tăng. Rồi tới ḷng tin v́ tín nhiệm và tín tâm khao khát muốn cố gắng đạt tới
những quả vị giống như tam bảo. Nếu ta cố gắng như vậy, chắc chắn kiếp sau ta sẽ
khá hơn. Khi ta tu tập hàng ngày, lúc chết ta sẽ không nuối tiếc chi nữa. Điều
quan trọng lúc lâm chung làm sao ta giữ được thiện tâm và những ư hướng thiện,
trong lành. Bạn có thể thực hiện được điều ấy v́ bạn đă tu tập trong đời sống
hàng ngày. Nếu ta tỉnh thức được khi sắp ĺa đời và hướng tâm ta về đường thiện,
chắc chắn khi tái sanh, bạn sẽ tới được chỗ tốt đẹp hơn.
9.- CUỘC ĐỜI QUƯ GIÁ
Học hỏi về các tŕnh độ giác ngộ
và các giáo pháp đưa tới t́nh trạng hướng thiện đó là điều rất lợi ích cho tâm
ta. Khi học, ta sẽ cố gắng làm theo những bài giảng và chắc chắn sẽ tiến bộ về
tinh thần, có thể đi tới giác ngộ. Đừng nghĩ rằng ḿnh không có đủ thông minh để
học hành như vậy. Chớ bỏ qua những cơ hội được học hỏi giáo pháp kẻo lỡ mất dịp
may. Mọi loài chúng sanh, kể cả loài sâu bọ, cũng được cho là có Phật tánh. Loài
người chúng ta may mắn có khả năng hiểu được Phật pháp.
Khi nghe hay đọc về giáo pháp,
rán áp dụng để hiểu được những tính bất thiện và làm hiển lộ được trong tâm
những tính thiện. Nếu ta không nh́n thấy được những khuyết điểm của ḿnh, ta
không thể tiến bộ được. Người ta thường như vậy, khi không chú ư đặc biệt, ta
không thể nhận ra được những lỗi lầm của chính ḿnh. Ta thường hay kêu ca rằng
ta không làm ǵ sai quấy hết. Tự xét ḿnh là chuyện tối quan trọng. Ta có thói
quen sống mà không hay biết ḿnh đă làm những ǵ. Ta phải làm sao để làm tôn vẻ
đẹp của tâm lên. Tôi không có nhiều kinh nghiệm lắm, chỉ biết chút ít thôi,
nhưng tôi bảo đảm với bạn rằng chúng ta có thể làm được như vậy.
Chúng ta thấy cuộc đời quư gia vô
cùng v́ ta có tự do và nhiều may mắn. Nhưng chuyện này không kéo dài măi măi.
Sớm muộn ǵ ta sẽ phải đối diện với cái chết. Nếu bị đọa vào kiếp tệ hơn, ta khó
có cơ hội gặp Phật pháp. Ta sẽ bị đau khổ triền miên. Chúng ta rất cần tu tập
ngay để có thể bảo tồn được những tính thiện, loại trừ tính ác, trong hiện tại
và tương lai. Như vậy chúng ta sẽ thực chứng được ít nhiều con đường thoát khổ.
Hiểu rơ điều này, ta sẽ biết ơn Bụt, người thầy có giá trị và đáng tin biết bao.
Ta cũng sẽ hiểu thêm được giáo pháp của ngài.
Được sinh ra trong hoàn cảnh tốt
hơn, làm người hay làm thần cũng chưa đủ. Khi nào ta chưa dứt bỏ được phiền năo
trong tâm, ta vẫn chưa thực chứng được an lạc và hạnh phúc vĩnh cửu. Khi đă hiểu
chút đỉnh về chánh đạo và con đường thoát khổ, ta sẽ biết được các đối lực của
phiền năo mạnh ra sao và sự giải thoát là có thật. Từ đó, ta sẽ nuôi dưỡng ư
hướng muốn đạt tới Niết bàn, thoát được mọi nỗi khổ. Nhưng như thế cũng chưa đủ,
ta phải đi xa hơn, nuôi ḷng mong ước giúp cho tất cả chúng sanh đều thoát khổ.
Tôi đă giảng về những kinh nghiệm
của riêng tôi, nghĩ rằng như vậy có lợi ích cho các bạn nhất. Chúng ta tu học
th́ nên nh́n xa. Ta khởi đầu với một căn bản vững vàng, xây dựng một cái ǵ có
giá trị tâm linh. Dĩ nhiên ta cần thời gian, nhưng khi bắt đầu biết nh́n xa và
cố gắng liên tục, ta sẽ từ từ đạt được vài kết quả. Dù quả vị Phật là chuyện xa
vời, nhưng khi thực tập hàng này, ta nên bắt đầu trên căn bản đó. Cuối cùng ta
cũng có thể đạt tới giác ngộ. Để có thể thực tập, ta phải biết làm ǵ và làm
cách nào, nên ta cần nghe hay đọc những bài giảng như vầy.