SỐNG THIỀN
Thiền học
đă không c̣n là điều mới lạ đối với
thế giới Tây phương. Luồng sinh khí Thiền
đă được các Thiền sư Á châu thổi vào Tây
phương từ mấy thế kỷ trước. Đến
nay, nó đă đi vào học đường, đi vào các
sinh hoạt cộng đồng v.v... Đó là điều
đáng phấn khởi, đáng khích lệ, nhưng mặt
khác, cũng là điều đáng
lưu tâm ... Bởi v́ Thiền vốn là một
phương pháp tu tập cao siêu đ̣i hỏi hành giả
phải đủ ư lực và trí lực để đeo
đuổi, chứ không phải là một bài toán học, một
công thức hay luật tắc để có thể trao truyền
và đón nhận một cách dễ dàng qua sự rao giảng
giữa công chúng. Thiền là lẽ sống và lẽ sống
đó chỉ có giá trị với kẻ nào nắm
được nó, tức là sống trong nó, thể nghiệm
nó.
THIỀN LÀ G̀ ?
Có người
đến hỏi vị thiền sư :“Thiền là ǵ ?”. Vị
thiền sư không đáp thẳng, chỉ rót trà mời
khách :“Uống trà đi.”
Thiền là
ḍng sống lặng lẽ của tự tâm và thiền
sư là kẻ nắm chắc được ḍng sống ấy—thực
ra, ngay cả những lời vừa nói, chẳng có lời
lẽ dông dài hay đơn giản nào, có thể nói lên
được ư nghĩa của thiền nếu không nắm
được ḍng sống đó.
THIỀN TRONG CỬA THIỀN
Tại Nhật
Bổn và Trung Hoa, Thiền tông là một trong mười
tông phái lớn của Phật giáo (Luật tông, Thiền
tông, Mật tông, Tịnh Độ tông, Câu Xá tông, Pháp Tướng
tông, Hoa Nghiêm tông, Tam Luận tông, Thành Thật tông và Thiên Thai
tông—Nhật Bổn có thêm hai tông phái khác nữa là Nhật
Liên tông hay Pháp Hoa tông và Chân tông hay Tịnh Độ Chân
tông). Nhưng ở nước ta, với dung hóa tính của
dân tộc Việt Nam, Phật giáo không có sự phân chia tông
phái rơ nét. Các tự viện và chùa chiền ở Việt Nam
đều được gọi chung là Thiền môn (Cửa
thiền). Đúng như nhận xét của một vài bậc
thiện tri thức trước đây về đặc
tính sinh hoạt của Phật giáo Việt Nam : sinh hoạt
trong các chùa Việt Nam dung hợp các pháp môn tu tập của
các tông phái lớn mà ở nước khác người ta
phân chia rơ rệt. Một tu sĩ hay cư sĩ tại gia
Việt Nam có thể chuyên tụng đọc và t́m hiểu
Kinh Pháp Hoa (Pháp Hoa tông), niệm danh hiệu Phật A Di
Đà (Tịnh Độ tông), đọc thần chú (Mật
tông) và tọa thiền (Thiền tông) mà không thấy trở
ngại ǵ. Trong một khóa lễ tại các chùa Việt Nam,
người ta thấy sự tổng hợp của các thiền
ngữ, các câu thần chú và danh hiệu Phật. Sự phân
chia tông phái để phát triển là nét đặc thù của
Phật giáo Nhật Bổn và Trung Hoa, nhưng sự dung hợp
các tông phái cũng chính là chỗ độc sáng của Phật
giáo Việt Nam vậy. Do đó, các vị tu sĩ Việt
Nam được huấn luyện từ nhỏ trong chùa sẽ
không bao giờ thắc mắc hay đặt vấn đề
là ḿnh tu Thiền hay tu Tịnh độ. Mục đích
chính của việc tu tập là để đạt đến
giải thoát, c̣n pháp môn, tông phái, chỉ là phụ thuộc
...
Đă có nhiều
cuốn sách nói về Thiền học Việt Nam tuy không phải
là đầy đủ nhưng tưởng cũng rất
rơ nét. Qua đó người ta thấy ngay cả một chú
tiểu ở chùa Việt Nam thường được
giáo dục trực tiếp từ cuộc sống thường
nhật của vị thầy (thân giáo). Mỗi cử chỉ,
lời nói, hành động của chú đều được
thầy quan sát và điểm hóa khiến cho đời sống
của chú từng giờ từng phút không lúc nào là không phù hợp
và ḥa nhập với lẽ đạo. Với ba ngàn cung
cách và tám vạn đức hạnh chi tiết (tam thiên oai
nghi, bát vạn tế hạnh) được vị thầy
thân cận nhắc nhở, chỉ giáo, tác phong của chú từ
giai đoạn nỗ lực tập trung bước sang
thành quả thuần thục thanh thoát lúc nào chính chú cũng
không hay biết. Khi chú đặt tách nước lên bàn
hơi nặng tay, vị thầy có thể im lặng không
quở trách ǵ mà chỉ cần đặt lại tách nước
trên bàn một cách cẩn trọng, nhẹ nhàng, không gây tiếng
động. Từ tác phong đi, đứng, nằm, ngồi,
cho đến quét nhà, tưới rau, nhất nhất mọi
việc chú đều có thể học được từ
nơi vị thầy. Chú không biết là chú đang học
và thực hành thiền đạo. Vị thầy cũng
không bao giờ nói là ông đă và đang dạy thiền cho
chú. Nhưng, mọi động tác của vị thầy,
không động tác nào mà không nói lên sự tịch lặng của
bản thể. Cả thầy lẫn tṛ có thể suốt
đời sống trong thiền mà không cần phải bàn
tán, luận giải ǵ về thiền cả.
Trải qua
trên hai mươi năm hoặc trên nữa, sống trong
không khí tịch lặng giải thoát của thiền môn, chú
tiểu đó đă trở thành một vị thầy, sớm
chiều kinh kệ công phu; ngày th́ v́ ḷng từ bi phải sống
với người, tiếp xúc, an ủi vỗ về,
hướng dẫn bao kẻ đau khổ, có khi phải tụng
đám ma cho người chết mất luôn cả ngày;
đêm th́ một ḿnh tọa thiền, niệm Phật trong
pḥng riêng, trên giường nằm, chưa một ngày xao
lăng. Từ sáng đến tối, các sinh hoạt của vị
thầy ấy không có việc làm nào mà không nằm trong oai
nghi tế hạnh, không có việc làm nào nằm ngoài tinh thần
và sinh hoạt truyền thống của thiền môn cả
...
Thực ra,
người tu Phật nếu biết sống trở về
với bản tâm chân thật của chính ḿnh tức là
đă sống thiền rồi đó ! Không cần ngôn từ
ǵ để giải thích thêm cả ...
Người
tu Phật coi trí tuệ mới là sự nghiệp duy nhất
! ( Duy Tuệ Thị Nghiệp )
Dù phương tiện pháp môn tu tập có khác nhau
nhưng cứu kính vẫn gặp được nhau là
đều được giải thoát sanh tử luân hồi
! ... Nếu hiểu được lư lẽ đó th́ việc
tu thiền hay tu tịnh độ cũng đều
như nhau mà thôi ! ...