I. PHẬT GIÁO DU NHẬP VÀO VIỆT NAM
:
Ngày nay, căn cứ các tài liệu và các lập luận
khoa học của nhiều học giả, giới nghiên cứu hầu hết đều đồng ý
rằng Đạo Phật đã được truyền vào Việt Nam rất sớm, nhất là từ
cuối thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch qua hai con
đường Hồ Tiêu và Đồng Cỏ.
1. Phật Giáo du nhập qua con đường Hồ
Tiêu :
Con đường Hồ Tiêu tức là đường biển, xuất phát
từ các hải cảng vùng Nam Ấn rồi qua ngã Srilanka, Indonesia,
Việt Nam ... lợi dụng được luồng gió thổi định kỳ vào hai lần
một năm phù hợp với hai mùa mưa nắng ở khu vực Đông Nam Á,
những thương nhân Ấn đã tới các vùng này để buôn bán bằng
những con thuyền buồm. Trong các chuyến đi viễn dương này, các
thương nhân thường cung thỉnh một hay hai vị tăng để cầu
nguyện cho thủy thủ đoàn và các vị tăng này nhờ đó mà đến
truyền bá Đạo Phật vào các dân tộc ở Đông Nam Á. Giao Châu
tiêu biểu bấy giờ là trung tâm Luy Lâu, là nơi tụ điểm nghỉ
chân giao lưu của các thương thuyền. Lịch sử chính thức xác
nhận năm 240 trước Tây lịch, Mahoda-con vua A dục (Asoka) đã
đưa Đạo Phật vào Việt Nam. Tư liệu trong Lĩnh Nam Chính Quái
cho biết một dữ kiện chứng tỏ sự có mặt của Đạo Phật vào đời
Hùng Vương thứ 3 (triều đại thứ 18 Vua Hùng). Đó là câu chuyện
công chúa Tiên Dung, con gái vua Hùng Vương thứ 3 lấy Đồng Tử.
Chuyện kể rằng Đồng Tử và Tiên Dung lập phố xá buôn bán giao
thiệp với người nước ngoài. Một hôm Đồng Tử theo một khách
buôn ngoại quốc đến Quỳnh Viên và tại đây Đồng Tử đã gặp một
nhà sư Ấn Độ ở trong một túp lều. Nhờ đó mà Đồng Tử và Tiên
Dung đã biết đến Đạo Phật. Qua dữ kiện này ta thấy sự hiện
diện của Phật Giáo do các tăng sĩ Ấn Độ truyền vào Việt Nam
khá lâu trước Tây lịch.
Một bài nghiên cứu của Ngô Đăng Lợi, viện nghiên
cứu khoa học Hải Phòng viết: "Vùng Đồ Sơn mà có nhà nghiên cứu
khẳng định chính là thành Nê Lê nơi có bảo tháp của vua Asoka.
Nếu quả vậy thì từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Đạo Phật đã
được trực tiếp truyền vào nước ta". Và Thiền Uyển Tập Anh cũng
ghi nhận cuộc đàm luận giữa thiền sư Thông Biện và Thái Hậu
Phù Thánh Linh Nhân (Ỷ Lan) (khi bà hỏi về nguồn gốc Đạo Phật
Việt Nam vào dịp các cao tăng trong nước tập hợp tại chùa Khai
Quốc (nay là chùa Trấn Quốc - Hà Nội) vào ngày rằm tháng 2 năm
1096) Thông Biện dẫn chứng lời pháp sư Đàm Thiên (542-607 TL)
đối thoại với Tùy Cao Đế (?-604 TL) :"Một phương Giao Châu,
đường sang Thiên Trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì Giang Đông
(Trung Hoa) chưa có, mà Luy Lâu lại dựng chùa hơn 20 ngôi, độ
tăng hơn 40 người, dịch kinh được 15 quyển, vì nó có trước
vậy, vào lúc ấy thì đã có Khâu Đà La, Ma Ha Kỳ Vực, Khương
Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác tại đó". Ma Ha Kỳ vực, Khâu
Đà La (188 TL) người Ấn Độ hay Trung Á; Mâu Bác (165-170 TL)
người Trung Hoa; Khương Tăng Hội (200-247 TL) người Ấn Độ; Chi
Cương Lương (?-264 TL) người xứ Nhục Chi, theo sử chép đó là
các vị sư có mặt sớm nhất ở Giao Châu vào khoảng thế kỷ thứ
hai đến thế kỷ thứ ba. Có lẽ đây chỉ là những vị được sử ghi
lại tên tuổi, kỳ thực đây không phải là phái đoàn truyền bá
đầu tiên đến Việt Nam, vì từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch đến
thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch chắn chắc đã có nhiều tăng sĩ đặt
chân đến hoằng pháp tại Việt Nam, cho nên Pháp sư Đàm Thiên
chỉ dẫn phần giới hạn và căn cứ vào sự có mặt của tác phẩm
Lý hoặc Luận của Mâu Bác.
Qua nhiều tài liệu lịch sử và dựa vào địa lý,
thiên nhiên, cư dân, lịch sử có thể cho chúng ta một kết luận
chắn chắc rằng Đạo Phật đã được truyền trực tiếp vào Việt Nam
chứ không thông qua Trung Hoa bằng con đường Hồ Tiêu. Tuy
nhiên, cũng có nhiều cứ liệu lịch sử chứng minh rằng Đạo Phật
đồng thời được truyền vào Việt Nam qua con đường Đồng Cỏ.
2. Phật Giáo du
nhập qua con đường Đồng Cỏ :
Con đường Đồng Cỏ tức là đường bộ còn gọi là con
đường tơ lụa; con đường này nối liền Đông Tây, phát xuất từ
vùng Đông Bắc Ấn Độ, Assam hoặc phía Trung Á, một nhánh của
đường tơ lụa đi từ Châu Âu qua các vùng thảo nguyên và vùng sa
mạc ở Trung Á tới Lạc Dương bằng phương tiện lạc đà. Cũng có
thể các thương nhân và tăng sĩ qua vùng Tây Tạng và các triền
sông Mekong, sông Hồng, sông Đà mà vào Việt Nam. Cuốn Lịch sử
Phật Giáo Việt Nam (Hà Nội, 1988) có nói rõ :"Các thương nhân
xuất phát từ Trung Ấn có thể dùng tuyến đường bộ ngang qua đèo
Ba Chùa và theo sông Kanburi mà xuống Châu Thổ Mênam, bằng
tuyến đường hiện nay vẫn nối liền cảng Moulmein với thành phố
Raheng, nằm trên một nhánh của con sông Mênam (…) chính tuyến
đường này dẫn tới vùng Bassak ở trung lưu sông Mekong, địa bàn
của vương quốc Kambijan. Vương quốc này có thể là do những di
dân Ấn Độ thành lập trước công nguyên. Rất có thể các tăng sĩ
Ấn Độ vào đầu công nguyên đã theo con đường này mà đến đất
Lào, rồi từ đây vượt Trường Sơn sang Thanh Hóa hay Nghệ An".
Những dữ kiện về con đường Hồ Tiêu và con đường
Đồng Cỏ có liên quan đến sự giao lưu của Việt Nam tuy chưa
nhiều chứng minh có những chứng tích mà lịch sử còn để lại, dù
lịch sử truyền miệng hay thành văn, theo lịch sử Phật Giáo
Việt Nam thì vào thế kỷ thứ II trước Tây lịch, vua Ấn Độ Asoka
sau cuộc đại hội kết tập kinh điển lần thứ ba, vua và trưởng
lão Tissa Moggaliputta đã gởi nhiều phái đoàn Như Lai sứ giả
lên đường truyền bá chánh pháp cho các nước thuộc vùng viễn
đông, trong đó có đoàn của hai vị cao tăng là Uttara và Sona
được phái đến Suvana -Bhumi, xứ Kim Địa. Tuy có nhiều ý kiến
khác nhau về vùng Kim Địa nhưng ý kiến trong quyển lịch sử
Phật Giáo Thế Giới thì cho rằng vùng Kim Địa này là bán đảo
Đông Dương từ Miến Điện kéo dài đến Việt Nam. Vấn đề này được
sách Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam viết :"Sử liệu Phật Giáo Miến
Điện chép rằng hai vị cao tăng đó (Uttara và Sona) đã đến Miến
Điện truyền giáo nhưng sử liệu Phật Giáo tại Thái Lan cũng ghi
là hai cao tăng Uttara và Sona có đến Thái Lan truyền giáo. Có
học giả dựa vào một tài liệu Trung Hoa nói rằng ở Giao Châu
tại thành Nê Lê, có bảo tháp của vua Asoka, và học giả đó xác
định thành Nê Lê chính là Đồ Sơn hiện nay (cách Hải Phòng
khoảng 12km)".
Nói chung căn cứ theo các tư liệu trên thì chúng
ta có thể khẳng địng rằng Phật Giáo truyền vào Việt Nam khoảng
đầu kỷ nguyên Tây Lịch bằng những phương tiện hòa bình và vì
thế không một giọt máu nào đã chảy, không một giọt lệ nào rơi
vì sự truyền bá Đạo Phật vào Việt Nam.
II. PHẬT GIÁO VIỆT NAM PHÁT TRIỂN QUA CÁC THỜI
ĐẠI :
1. Phật Giáo VN từ thế kỷ thứ II đến hết thế kỷ thứ V,
thời kỳ du nhập và hình thành :
Không bao lâu khi Phật Giáo được truyền vào đất
Việt, nhờ sự nổ lực hoạt động truyền giáo của các tăng sĩ Ấn
Độ, tại Luy Lâu, thủ phủ của Giao Chỉ lúc bấy giờ đã trở thành
một trung tâm Phật Giáo lớn nhất trong vùng. Tại đây, với
những sinh hoạt hoằng pháp của ngài Khâu Đà La (người Ấn Độ
đến Luy Lâu khoảng năm 168-169) đã xuất hiện một mô hình Phật
Giáo Việt Nam hóa đầu tiên qua hình tượng Thạch Quang Phật và
Man Nương Phật Mẫu (hình tượng Phật Nữ). Một chứng liệu lịch
sử quan trọng khẳng định Phật Giáo Việt Nam đã bắt rễ sớm ở
Giao Châu là sự việc ngài Mâu Bác (sinh cuối thế kỷ thứ II)
theo mẹ từ Trung Quốc sang Giao Châu khi ngài còn rất trẻ, rồi
lớn lên, tại đây ngài đã viết bài "Lý hoặc Luận" và dịch một
số kinh sách, chứng tỏ ngài đã học Phật giáo tại Giao Châu và
như thế Phật Giáo Giao Châu đã phát triển khá mạnh, ít nhất là
vào nữa đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch.
Sang thế kỷ thứ III, có ba nhà truyền giáo nước
ngoài đến hoằng Pháp tại Giao Châu là các ngài Khương Tăng Hội
(gốc người Sogdiane, Khương Cư); ngài Chi Cương Lương Tiếp
(người xứ Nhục Chi) và ngài Ma Ha Kỳ Vực (người Ấn
Độ).
Đến thế kỷ thứ V, có hai thiền sư xuất hiện, là
Đạt Ma Đề Bà (Oharmadeva,) và Huệ Thắng (người Việt). Thiền sư
Đạt Ma Đề Bà là người Ấn Độ đến Giao Châu vào giữa thế kỷ thứ
V để giảng dạy về phương pháp thiền học. Thiền sư Huệ Thắng là
người địa phương là một trong những học trò của
ông.
Cũng do được truyền bá trực tiếp từ Ấn Độ vào
Việt Nam ngay từ đầu kỷ nguyên Tây lịch, nên danh xưng Buddha
(Bậc Giác Ngộ) tiếng Phạn đã được phiên âm trực tiếp sang
tiếng Việt là Bụt (Trung Hoa dịch là Phật). Điều này trùng hợp
với danh từ Bụt được xuất hiện trong nhiều truyện cổ tích Việt
Nam. Theo từ điển Phật học Việt Nam, (Minh Châu và Minh Chi,
Hà Nội 1991) có ghi :"Tiếng Bụt phổ biến hơn trong văn học dân
gian và là dấu hiệu chứng tỏ Đạo Phật truyền vào nước ta từ
rất sớm". Phật Giáo ở Giao Châu lúc ấy mang màu sắc Nam
phương, nhưng trong con mắt của nền văn minh nông nghiệp,
người Việt Nam lại hình dung Đức Phật như là một vị thần toàn
năng có mặt ở khắp nơi, sẵn sàng xuất hiện để cứu độ mọi
người.
2. Phật giáo VN từ thế kỷ thứ VI đến hết thế kỷ thứ IX,
thời kỳ phát triển :
Bước sang thời kỳ này, Phật tử Việt Nam lại tiếp
nhận thêm những đoàn truyền giáo của Trung Quốc. Không bao lâu
sau đó, Phật Giáo Bắc phương (Trung Quốc) đã chiếm ưu thế và
đã thay đổi chổ đứng của Phật Giáo Nam Truyền vốn có từ trước.
Từ Buddha được dịch thành chữ Phật, và từ đây Phật dần dần
thay thế cho chữ Bụt và chữ Bụt chỉ còn giới hạn trong ca dao,
tục ngữ, truyện cổ tích mà thôi.
Trong thời gian này, từ Trung Hoa có ba tông
phái được truyền vào Việt Nam, đó là Thiền Tông, Tịnh Độ Tông
và Mật Tông.
A. Thiền Tông :
Là tông phái hay đúng hơn là một pháp môn tu tập
có từ thời Đức Phật Thích Ca tại Ấn Độ (trong hội Linh Sơn)
rồi truyền xuống cho Tôn giả Ca Diếp, lần lượt cho đến Tổ thứ
28 Ấn Độ là Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma). Đến năm 520 Tổ Bồ Đề
Đạt Ma, vốn là thái tử thứ ba của vua Kancipura, Nam Ấn, vâng
theo lời thầy là Bát Nhã Đa La (Prajnatara), Bồ Đề Đạt Ma đến
Trung Hoa để hoằng dương Phật pháp. Tại nơi đây, Thiền Tông đã
được hình thành và nhanh chóng hưng thịnh.
Thiền hay còn gọi là tĩnh lự, chủ trương tập
trung trí tuệ để tìm ra chân lý. Tu theo pháp môn này đòi hỏi
hành giả phải có nhiều công phu và khả năng trí tuệ, do vậy
chỉ phổ biến ở tầng lớp trí thức và giai cấp thượng lưu, và
cũng chính nhờ họ ghi chép lại mà chúng ta ngày nay mới biết
được lịch sử Thiền Tông ở Việt Nam.
Dòng thiền thứ nhất : được Tổ Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi
(Vinitaruci) sáng lập. Ngài là người Nam Thiên Trúc, sang
Trung Hoa học đạo và được tổ thứ ba thiền tông Trung Hoa là Tổ
Tăng Xán khuyên nên "mau đi về phương nam mà tiếp xúc với
thiên hạ, không nên ở lâu tại đây". Ngài từ biệt và đến Việt
Nam vào năm 580, ở tại chùa Pháp Vân (nay là Thuận Thành Hà
Bắc) để hoằng pháp và truyền cho tổ thứ hai là ngài Pháp Hiền
(người Việt Nam). Đây là dòng thiền có tích cách dân tộc Việt
Nam, vừa biểu lộ được sinh hoạt tâm linh siêu việt của Phật
Giáo vừa biểu lộ được đời sống thực tế và đơn giản của quần
chúng nghèo khổ Việt Nam. Dòng thiền này truyền được 19 thế
hệ.
Dòng thiền thứ hai : là thiền phái Vô Ngôn Thông,
do thiền sư Vô Ngôn Thông người Trung Hoa sáng lập tại chùa
Kiến Sơ (Phù Đổng, Hà Bắc) vào năm 280. Người kế nghiệp ngài
là thiền sư Cảm Thành. Đây là thiền phái chịu ảnh hưởng Phật
Giáo Trung Hoa sâu đậm, tuy nhiên vẫn rất gần gũi với đời sống
xã hội, hòa nhập vào đời sống người dân trong khi vẫn duy trì
được sinh hoạt tâm linh độc lập của mình. Thiền phái này
truyền được 17 thế hệ.
Dòng thiền thứ ba : là thiền phái Thảo Đường, do
thiền sư Thảo Đường (người Trung Hoa) sáng lập, ngài vốn là tù
binh bị bắt tại Chiêm Thành, được vua Lý Thánh Tông
(1054-1072) giải phóng khỏi kiếp sống tù đày và vua cho lập
đạo tràng tại chùa Khai Quốc ở ngay kinh thành Thăng Long
(1069) đệ tử theo học rất đông, trong đó có cả chính vua Lý
Thánh Tông. Thiền phái này có khuynh hướng thiền tông trí thức
và văn chương, do đó không cắm rễ được trong quần chúng mà chỉ
ảnh hưởng được tới một số trí thức và vua quan có khuynh hướng
văn học. Dòng thiền này truyền được 6
đời.
Dòng thiền thứ tư : đó là thiền phái Trúc Lâm do
vua Trần Nhân Tông (1258-1305) khai sáng. Vua Trần Nhân Tông
học Phật qua sự hướng dẫn của Tuệ Trung Thượng Sĩ, một thiền
sư cư sĩ nổi tiếng đời Trần, sau khi xuất gia vào năm 1299 với
đạo hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà, ngài đã lên tu ở núi Yên Tử (tỉnh
Quảng Ninh) và tại đây, ngài đã lập ra thiền phái Trúc Lâm,
một dòng thiền Việt Nam đầu tiên, mang tính chất độc lập Việt
Nam với sự kết hợp hài hòa của Phật Giáo Ấn-Hoa. Lập ra thiền
phái Trúc Lâm này, vua Trần Nhân Tông đã thống nhất được các
thiền phái tồn tại trước đó và toàn bộ Giáo Hội Phật Giáo đời
Trần về một mối.
Nhìn chung thiền phái Trúc Lâm là một dòng thiền
tổng hợp được ba yều tố đặc thù của xã hội. Trúc Lâm đại diện
cho quý tộc, Pháp Loa đại diện cho nông dân và Huyền Quang đại
diện cho nho sĩ, tính cách quý tộc, nông dân và nho sĩ là thể
hiện toàn diện trong con người Trúc Lâm. Sự tổng hợp đó, đã
tạo nên nét đặc thù của thiền phái Trúc Lâm mà các thiền phái
trước đó không có được, kể từ đó đưa Đạo Phật đi vào xã hội
với tinh thần nhập thế cụ thể, giáo hội được tổ chức chặt chẽ,
cũng cố tinh thần đạo pháp và dân tộc xây dựng phồn vinh cho
đất nuớc. Sau thời đại Lý, Trần các dòng thiền Việt Nam dường
như lu mờ và tàn lụi hẳn, đến cuối thế kỷ thứ XX, tiếp nối
mạch thiền Việt Nam, Thiền Sư Thích Thanh Từ đã phục hưng nền
thiền tông Việt Nam; đó là thời điểm đầu những năm 1970 tại
Tu Viện Chơn Không (Vũng-Tàu)(1970-1986); rồi đến Thiền
Viện Thường Chiếu (1974-1994) và hiện nay là Thiền Viện Trúc
Lâm ở Đà Lạt. Đây có thể nói là một dòng thiền khác mang tính
cách độc lập của người Việt Nam. Thiền sư Thích Thanh Từ đã
không theo các dòng thiền nào truyền thống mà chỉ tổng hợp chỗ
thấy, chỗ ngộ và sự ứng dụng của ba thiền sư nổi tiếng là
Thiền Sư Huệ Khả (tổ thứ 2, Trung Hoa) Thiền Sư Huệ Năng (tổ
thứ 6, Trung Hoa) và Thiền Sư Trần Nhân Tông (Sơ Tổ Trúc Lâm,
Việt Nam) mà lập thành phương pháp tu tập cho thiền sinh Việt
Nam trong thời hiện đại . [ Ứng dụng phương pháp an tâm (tức phản quang tự kỷ) của Nhị
Tổ Huệ Khả làm phương châm để tu; Ứng dụng chủ trương Vô
Tướng, Vô Trụ, Vô Niệm của Lục Tổ Huệ Năng làm phương châm để tu; Còn một phương
châm
tu tập nữa là nhận ra bản-tánh, chân-tâm của chính mình và
sống trở về với nó ... ]
B. Tịnh Độ Tông :
Khác với Thiền Tông, Tịnh Độ Tông chủ trương
phải dựa vào tha lực tức sự giúp đỡ từ bên ngoài. Thật ra,
Thiền hay Tịnh Độ cũng chỉ là những pháp môn tu tập thích hợp
cho nhiều đối tượng khác nhau do Đức Phật truyền giáo ra.
Chính Đức Phật Thích Ca đã nhờ vào tự lực của mình để đến giác
ngộ thì cần phải giúp đỡ họ, sự trợ lực hay tha lực này rất
quan trọng. Điều này gợi cho tín đồ liên tưởng đến một cõi
Niết Bàn cụ thể đó là cõi Tịnh Độ hay thế giới Cực Lạc do Đức
Phật A-Di-Đà làm giáo chủ. Sự giúp đỡ đó còn cho thấy bản thân
của người tín đồ cần thường xuyên đi chùa dâng hương, cúng
dường, bố thí, làm những điều thiện, tránh các điều ác và
thường xuyên niệm danh hiệu Đức Phật A-Di-Đà để đạt đến nhất
tâm bất loạn và muốn đạt đến chỗ nhất tâm bất loạn này, hành
giả trong lúc niệm Phật phải hình dung, quán tưởng về thế giới
Cực lạc để tâm mình hướng tới.
Nhờ cách thức tu tập đơn giản như vậy nên Tịnh
Độ Tông là tông phái phổ biến khắp đất nước Việt Nam. Đâu đâu
ta cũng gặp người dân tụng Kinh A-Di-Đà và niệm danh hiệu của
Đức Phật A-Di-Đà. Tượng Phật A-Di-Đà cũng thuộc loại tượng
Phật lâu đời và phổ biến ở Việt Nam. Điển hình là pho tượng
Phật A-Di-Đà bằng đá, cao gần 2m, thờ tại chùa Phật Tích, huyện
Tiên Du, Tỉnh Bắc Ninh, được tạo tác dưới triều Lý Thánh Tông
năm 1057. Đây là một bằng chứng đánh dấu sự ảnh hưởng Tịnh Độ
Tông đầu tiên ở Việt Nam.
C. Mật tông :
Là một tông phái chủ trương sử dụng hình ảnh cụ
thể và những mật ngữ, mật chú để khai mở trí tuệ giác ngộ.
Tương truyền Mật Tông do Phật Đại Nhật chủ xướng và có hai bộ
kinh chính là Kinh Đại Nhật và Kinh Kim Cang. Mật tông truyền
vào Việt Nam không còn độc lập như một tông phái riêng mà
nhanh chóng hòa vào tín ngưỡng dân gian, pha trộn với các
truyền thống như chẩn tế, cầu đồng, dùng pháp thuật, yếm bùa
trị tà ma và trị bệnh. Mật tông không có dấu hiệu phát triển
rõ ràng ở Việt Nam, mà chỉ tùy thuộc vào sự thọ trì của từng
chùa và của mỗi cá nhân có cơ duyên đến với tông phái này mà
thôi.
3.Phật Giáo VN từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ
thứ XIII, thời kỳ cực thịnh :
Đến thế kỷ thứ X thì Việt Nam đã trải qua 1000
năm Bắc thuộc. Như ta đã thấy, Phật Giáo Việt Nam của thế kỷ
thứ V chỉ còn ghi lại hai thiền sư là Đạt Ma Đề Bà và Huệ
Thắng. Thế kỷ thứ VI ghi lại hai thiền sư Việt Nam : Quán Duyên
và Pháp Thiền. Chính trong thế kỷ này mà thiền sư Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi đến Việt Nam. Ba thế kỷ tiếp theo, thế kỷ VII, VIII và IX
là ba thế kỷ thuộc nhà Đường cai trị, đến thế kỷ thứ X thì
Việt Nam mới bắt đầu giành được quyền tự chủ. Chính trong thế
kỷ này Đạo Phật mới thực sự hưng thịnh và có những đóng góp
tích cực cho đất nước. Năm 971 vua Đinh Tiên Hoàng định giai
cấp cho tăng sĩ và ban chức tăng thống cho Thiền sư Ngô Chân
Lưu thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông, và ngài Khuông Việt Thái
Sư, chính thức tiếp nhận Phật Giáo làm nguyên tắc chỉ đạo tâm
linh cho chính sự. Cũng chính trong thế kỷ này vua Lê Đại Hành
đã mời thiền sư Pháp Thuận và thiền sư Vạn Hạnh của thiền phái
Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi làm cố vấn chính sự. Các thiền sư Khuông
Việt, Pháp Thuận và Vạn Hạnh cũng đã tiếp tục trợ giúp vua Lý
Thái Tổ trong thế kỷ kế tiếp.
Phật Giáo Việt Nam trong thời kỳ này phát triển
tới mức toàn vẹn và cực thịnh. Do ảnh hưởng tư tưởng của vua
Trần Nhân Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ đầu thế kỷ thứ XIII, ba
thiền phái Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường sát
nhập tạo thành một và đưa tới sự phát triển của thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử là thiền phái duy nhất dưới đời Trần. Vì vậy
đời Trần có thể gọi là thời đại thống nhất của Phật Giáo các
hệ phái trước đó. Tăng sĩ đời Trần không trực tiếp đóng góp
vào sự nghiệp chính trị như các thiền sư đời Lý, nhưng Phật
Giáo là một yếu tố quan trọng để liên kết nhân tâm. Tinh thần
Phật Giáo đã kiến cho các nhà chính trị đời Trần áp dụng những
chính sách bình dân, thân dân và dân chủ. Phật Giáo trong đời
Trần là quốc giáo, mọi người dân trong xã hội điều hướng về
Phật Giáo. Nhà nho Lê Quát, học trò Chu Văn An, đã lấy làm tức
giận vì thấy toàn dân theo Phật :"Phật chỉ lấy điều họa phúc
mà động lòng người, sao mà sâu xa và bền chắc đến như vậy ?
Trên từ Vương Công, dưới đến thứ dân, hễ làm việc gì thuộc về
việc Phật, thì hết cả gia tài cũng không tiếc. Nếu hôm nay đem
tiền để làm chùa xây tháp thì hớn hở, vui vẻ, như trong tay đã
cầm được biên lai để ngày sau đi nhận số tiền trả báo lại. Cho
nên trong kinh thành ngoài đến Châu Phủ, đường cùng ngõ hẻm,
chẳng khiến đã theo, chẳng thề mà tin, hễ chổ nào có nhà thì
có chùa Phật; bỏ đi thì làm lại, hư đi thì sửa
lại"...
Có rất nhiều chùa tháp qui mô to lớn hoặc kiến
trúc độc đáo đã được xây dựng trong thời Lý Trần như chùa Phật
Tích, chùa Đại Lãm, chùa Linh Xứng, chùa Một Cột, chùa Phổ
Minh. Khâm phục trước những thành tựu văn hóa của Phật Giáo
Việt Nam thời Lý Trần mà sách vở Trung Hoa truyền tụng nhiều
về 4 công trình nghệ thuật lớn mà họ gọi là An-Nam Tứ Đại Khí. Đó là :
Tượng Phật Chùa Quỳnh Lâm : chùa Quỳnh Lâm ở Đông
Triều (Quảng Ninh) được xây dựng vào khoảng thế kỷ XI, có pho
tượng Di Lặc bằng đồng mà theo văn bia mà nay vẫn còn giữ được
trong chùa thì tượng cao 6 trượng (1 trượng bằng khoảng 4m)
đặt trong một tòa Phật điện cao 7 trượng. Đứng từ bến đò Đông
Triều, cách xa 10 dặm vẫn còn trông thấy nóc chánh điện.
Tháp Bảo Thiên : gồm 12 tầng, cao 20
trượng do vua Lý Thánh Tông cho xây dựng vào năm 1057 trên
khuôn viên chùa Sùng Khánh ở phía Tây Hồ Lục Thủy (tức Hồ Gươm
Hà Nội ngày nay) bằng đá và gạch, riêng tầng thứ 12 đúc bằng
đồng. Đây là đệ nhất danh thắng đế đô một thời. Đến năm 1414
tháp bị quân Vương Thông tàn phá, nền tháp còn lại to như quả
đồi, có thời dùng làm nơi họp chợ; đến năm 1791 dỡ ra lấy gạch
xây thành còn thấy 4 pho tượng Kim Cương trấn giữ 4 cửa và
nhiều tượng chim thú khác. Thời Pháp bị phá huỷ hoàn toàn để
xây dựng nhà thờ lớn trên mảnh đất ấy.
Chuông Quy Điền : Năm 1101, vua Lý Nhân
Tông cho xuất hàng vạn cân đồng để đúc quả chuông này và dự
định treo nó tại khuôn viên chùa Diên Hựu trong lầu chuông
bằng đá xanh cao 8 trượng. Nhưng chuông đúc xong to quá (đường
kính 1,5 trượng (khoảng 6m) cao 3 trượng (khoảng 12 m), nặng
đến vài vạn cân) không treo nổi lên đành để ở ngoài
ruộng.
Vạc Phổ Minh : đúc bằng đồng vào thời
vua Trần Nhân Tông (1279-1293) đặt tại chùa Phổ Minh (làng Tức
Mặc, Nam Hà). Vạc sâu 6 thước, rộng 10 thước nặng trên 7 tấn.
Vạc to tới mức có thể nấu được cả một con bò mộng, trẻ con có
thể chạy nô đùa trên thành miệng vạc. Đến nay vẫn còn 3 trụ đá
kê chân vạc trước sân chùa Phổ Minh.
4. Phật Giáo VN trong thế kỷ XX, thời kỳ
phục hưng :
Phật Giáo Việt Nam đã trải qua thời cực thịnh
nhất dưới hai triều đại Lý, Trần; sang đến đời Hậu Lê rồi
Nguyễn Triều thì Phật Giáo phải nhường bước cho Nho giáo, lúc
ấy đang chiếm vai trò độc tôn.
Triều đại nhà Nguyễn truyền đến đời vua Tự Đức
thì mất chủ quyền, nước ta rơi vào vòng đô hộ của Pháp. Phật
Giáo Việt Nam vốn đã suy vi nay lại điêu tàn hơn. Trong bối
cảnh đó, Ky Tô giáo đã du nhập vào Việt Nam và dân tộc Việt
Nam lại tiếp nhận thêm một tôn giáo mới của phương Tây. Tuy
tinh thần khai phóng dung hợp của Phật Giáo suốt mấy thế kỷ
qua không còn được thể hiện trong chính sách quốc gia, văn hóa
và xã hội vào thế kỷ XX nhưng Phật Giáo vẫn là tôn giáo chính
của dân tộc, đóng vai trò hòa giải giữa các thế lực tranh
chấp, góp phần xây dựng tinh thần dân tộc, bảo vệ nền độc lập
của nước nhà.
Vào khoảng những năm 1920-1930, trong không khí
tưng bừng của phong trào chấn hưng Phật Giáo trên thế giới,
đặt biệt ở Nhật Bản, Trung Hoa, Ấn Độ và Miến Điện, một số
tăng sĩ và cư sĩ đã phát động phong trào chấn hưng Phật Giáo
tại Việt Nam, từ đó đưa đến sự thành lập Tổng Hội Phật Giáo
Việt Nam tại miền Bắc vào năm 1934 đặt trụ sở tại chùa Quán
Sứ, và xuất bản tạp chí Đuốc Tuệ. Ở miền Trung, Hội An-Nam Phật-Học cũng ra mắt tại chùa Từ Đàm và cho xuất bản tạp chí
Viên Âm vào 1934, đặt biệt hội đã mở các Phật Học Viện cho
tăng chúng tu học như Phật học đường Báo Quốc và Kim Sơn, Trúc
Lâm và Tây Thiên. Ở Bình Định có hội Phật Học Bình Định, ở Đà
Nẵng có hội Phật Học Đà Thanh, ra tạp chí Tam Bảo. Tại miền
Nam, năm 1920, Hội Lục Hòa được thành lập để đoàn kết và vận
động phong trào chấn hưng Phật Giáo. Hội nghiên cứu Phật Học
Nam Kỳ ra đời, đặt trụ sở tại chùa Linh Sơn; xuất bản tạp chí
Từ Bi Âm (1932). Năm 1933 Liên Đoàn Học Xã ra đời. Năm 1934,
hội Phật Học Lưỡng Xuyên ra đời, xuất bản tạp chí Du Tân Phật
Học và mở Phật Học đường Lưỡng Xuyên.
Nhờ phong trào chấn hưng Phật Giáo này mà đội
ngũ tăng ni được đào tạo qua nhiều trường lớp và phát triển
nhiều ở các tỉnh thành. Chùa chiền được xây dựng khắp nơi,
nhất là hệ thống chùa phật học ở các thành thị. Nhiều ngôi
chùa ở làng xã được trùng tu và có chư tăng ni trụ trì. Bên
cạnh đó, trong thời kỳ này, có nhiều hệ phái, tôn phái Phật
giáo ra đời, như giáo phái Khất Sĩ Việt Nam, Thiên Thai Giáo
Quán Tông, Phật Giáo Hoa Tông v.v... Một yêu cầu thống nhất
Phật Giáo được đặt ta tại Huế, đưa đến việc thành lập Tổng Hội
Phật Giáo Việt Nam đặt trụ sở tại chùa Từ Đàm - Huế, hội chủ là
Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, đây là một tổ chức thống nhất
Phật Giáo ba miền Nam, Trung, Bắc, đồng thời vạch ra một con
đường dân tộc nhân bản, hướng dẫn bước đi Phật-Giáo vào môi
trường tư tưởng và văn hóa, tiếp tục xây dựng con người và xã
hội Việt Nam. Điểm đặc sắc của Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ
XX là sự kết hợp của hai giáo phái Nam Tông và Bắc Tông vào
năm 1964 để thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Đến tháng 11 năm 1981, sau sáu năm đất nước được
thống nhất, một hội nghị với 165 đại biểu của 9 tổ chức Giáo
Hội hệ phái cả nước đã họp tại Chùa Quán Sứ - Hà Nội, thống
nhất thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. Hòa thượng Thích
Đức Nhuận làm Pháp Chủ Hội Đồng Chứng Minh Trung Ương, Hòa
Thượng Thích Trí Thủ làm chủ tịch Hội Đồng Trị Sự Trung Ương.
Giáo Hội đặt văn phòng I tại Chùa Quán Sứ - Hà Nội, văn phòng
II tại chùa Xá Lợi - Thành phố Hồ Chí Minh.
III. THỐNG KÊ MỘT SỐ THÀNH
QUẢ CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM :
Từ khi du nhập cho đến nay, Phật Giáo Việt Nam
đã trải qua bao thăng trầm, lúc thịnh lúc suy do nhiều nguyên
nhân khác nhau, tuy vậy các hệ phái Phật giáo vẫn được bảo
lưu, nét đặc trưng trong pháp môn tu hành vẫn được tôn trọng,
hệ thống chùa chiền, tăng ni đã được thống kê, quản lý thống
nhất. Theo số thống kê được công bố trong hội nghị thường niên
của Giáo Hội Phật giáo Việt Nam thì số tự viện Phật Giáo và số
tăng ni mà giáo hội đã thống kê được là 14.303 ngôi tự viện,
trong đó gồm 13.312 tự viện Bắc tông, 469 tự viện Nam tông
nguyên thủy và Khmer, 142 tịnh xá khất sĩ, 95 tịnh thất và 185
niệm Phật đường. Về tăng ni thì có 26.268 vị, có ba Học Viện
Phật Giáo, một Trường Cao Đẳng Chuyên Khoa Phật Học, 30 Trường
Cơ Bản Phật Học, một Trường đào tạo đội ngũ giảng viên hoằng
pháp. Ngoài ra Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đã thành lập được
Viện Nghiên Cứu Phật Học tại Thành Phố Hồ Chí Minh và Phân
Viện Nghiên Cứu tại thủ đô Hà Nội. Và đặc biệt là hội đồng
phiên dịch và ấn hành Đại Tạng Kinh Việt Nam cũng đã được
thành lập, tính đến nay hội đồng đã phiên dịch & ấn hành
hơn 30 tập kinh từ chữ Hán và chữ Pali sang chữ Việt.