...... ... |
. |
. |
. |
. |
|
|
Nhật Bản (Japan) một quốc
gia nằm phía đông châu Á. Diện tích 377.688 km2. Dân số 123.460.000
người. Mật độ dân cư : 331,7 người/km2. Dân số dưới 15 tuổi : 18,5%.
Tuổi thọ trung bình : 78,5 tuổi. Trình độ văn hóa cấp ba : 30,1%. Ngôn
ngữ chính : tiếng Nhật. Đơn vị tiền tệ : đồng yen. Thu nhập bình quân
đầu người : 15.260 đô la. Tôn giáo chính ở Nhật là Phật Giáo và Thần
Đạo (Shinto). Những tôn giáo nhỏ khác là Ky-Tô giáo, Tin-Lành giáo
và Chính-Thống giáo.
Phật Giáo Nhật Bản, thời kỳ hình thành (538-794) :
Theo biên niên sử của Nhật Bản,
PG chính thức được truyền đến Nhật từ Triều Tiên (Korea) vào năm 552
Tây Lịch (có chỗ ghi nhận là năm 538). Lúc bấy giờ vua nước Bách Tế
(Triều Tiên) đã gởi một phái đoàn truyền giáo đến Nhật. Phái đoàn
này đã được nhà vua Nhật Bản tiếp đón một cách nồng hậu và phái đoàn
đã dâng lên cho đức vua một tượng Phật bằng vàng, một vài quyển Kinh,
cờ lộng, chuông, mõ …
Tuy nhiên, PG chỉ thực sự cắm
rễ và lan tỏa tại Nhật là trong thời kỳ nhiếp chánh của Hoàng Thái
Hậu Suiko. Người kế vị của bà, Thánh Đức Thái Tử (Shotoku, 574-622)
được xem là sơ tổ (First Real Founder) của PGNB. Thánh Đức Thái Tử
vâng lời mẫu hậu Suiko đã cất công nghiên cứu và tuyên giảng ba bộ
Kinh Đại Thừa cho dân chúng Nhật, về sau những bài giảng này được
viết thành một bộ luận rất giá trị. Sau khi lên ngôi Thái tử Shotoku
đã ban hành ngay một chiếu chỉ rằng: ''Toàn dân Nhật Bản phải kính
ngưỡng và thọ trì Phật Pháp''. Ông đã cho xây chùa chiền trên khắp
đất nước. Một trong những ngôi chùa nổi tiếng thời ấy, nay vẫn còn
là Chùa Pháp Long (Horyji). Chùa này do chính Thái tử Shotoku đứng
ra xây dựng vào năm 607 và được xem là ngôi chùa gỗ có tuổi thọ lâu
nhất trên thế giới.
Phật Giáo Nhật Bản, thời kỳ phát triển (Heian/Bình An/ 794-1184) :
Trong triều đại Nại Lương
(Nara, 710-194) qua sự ủng hộ Phật Pháp của Hoàng đế Thánh Võ
(Shomu, 701-756, vị vua thứ bốn mươi lăm của Nhật) PG đã trở thành Quốc giáo (State religion) của xứ sở này. Năm 741, vua Thánh Võ đã
ban hành một quốc lệnh rằng mỗi làng và mỗi tỉnh phải xây dựng một
ngôi chùa và dân chúng phải thành tâm thọ trì Phật Pháp. Để làm
gương cho mọi người, chính vua Thánh Võ đã đích thân xây chùa Đông
Đại (Todai) tại kinh đô vào cuối năm 741, đây là ngôi tổ đình của
tông phái Hoa Nghiêm với pho tượng Phật Tỳ-Lô-Xá-Na (Vairocana)
khổng lồ được tôn thờ bên trong chánh điện. Cũng trong thời kỳ Nara
này, có sáu tông phái PG được truyền đến Nhật từ Trung Hoa và phong
trào nghiên cứu và tu Phật tại Nhật đã bắt đầu.
Sáu Tông phái PG đến từ Trung Hoa trong thời đại Nại
Lương (Nara, 710-194) :
1. Luật Tông (Ritsu) :
là một trong mười ba Tông Phái PG (TPPG) chính của Trung Hoa. Tông
này theo khuynh hướng bảo thủ giống như truyền thống ở các nước ở
Nam Á, được ngài Đạo Tuyên (Tao-hsuan, 596-667) dựa vào bộ Đại Thừa
Luật (Mahayana Vinaya) mà thành lập vào thời đại nhà Đường. Chủ
trương của tông là nghiêm trì giới luật để tiến đến Phật quả. Tông
này được ngài Giám Chân (Ganjin) giới thiệu đến Nhật vào năm 754.
2. Câu Xá Tông (Kusha):
Cũng là một tông phái bảo thủ, lấy Luận A-Tỳ-Đạt-Ma (Abhidharma) làm
chỗ nương tựa chính. Đó là một bộ luận nổi tiếng của ngài Thế Thân
(Vasubandu)
3. Thành Thật Tông (Jojitsu): Tông này dựa vào giáo lý tánh không
(non-substantiality) của Luận Thành Thật (Satyasiddhi) mà thành lập.
4. Tam Luận Tông (Sanron):
phát xuất từ phái Trung Quán ở Ấn Độ, một trường phái phát triển của
Đại sư Long Thọ (Nararjuna). Giáo lý tông này cũng nhấn mạnh đến tự
tánh không của vạn pháp. Như tên gọi của tông này, Tam Luận, tức là
dựa vào ba bộ luận chính, Trung Quán Luận (Madhyamika), Dvadasamuka
Sastra của Ngài Long Thọ, và Sala của Ngài Aryadeva.
5. Pháp Tướng Tông (Hosso): bắt nguồn từ trường phái
Du Già (Yogacara) của Ấn Độ, một tông phái của PG phát
triển có mặt từ năm 167 TL tại Ấn.
6. Hoa Nghiêm Tông (Kegon): dựa vào Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka) để lập tông. Chủ
trương của phái là tôn thờ và thực hành pháp hạnh của đức Phật Tỳ-Lô-Xá-Na.
Tất cả sáu tông phái trên đều có nhiều hành giả, học giả
theo đuổi học hỏi và hành trì, nhưng tầm ảnh hưởng của nó chỉ giới
hạn trong giới xuất gia mà không mở rộng ra bên ngoài.
Phật Giáo Nhật Bản, thời kỳ Kiếm Thương (Kamakura1185-1333) :
Đây là thời kỳ khủng hoảng, vì
cả nước bị đe dọa trầm trọng bởi tàn phá khốc liệt từ sự phân hóa
nội bộ và bạo lực dưới những tổ chức quân sự được thành lập năm 1185
của bộ tộc Minamoto, ngoại ô Kyoto. Bầu không khí mới này đã làm cho
việc tu tập và nghiên cứu Phật Đà bị khựng lại một lúc lâu. Tuy
nhiên, cuối cùng mọi việc cũng đâu vào đấy và PG vẫn tiếp tục công
việc của mình.
Nếu trong triều đại Bình An
(Heian, 794-1185) hai tông phái được vào Nhật Bản là Thiên Thai
Tông (Tendai) và Chân Ngôn Tông (Shingon); Hai tông phái này có một
hệ thống giáo lý sâu nhiệm và độc đáo, lập tức chinh phục và được
ủng hộ một cách nhiệt thành của quần chúng Nhật, nhất là tầng lớp
quý tộc; thì đầu triều đại Kiếm Thương (Kamukura, 1185-1333), hai
phái khác, Nhật Liên Tông (Nichiren) và Tịnh Độ Tông (Jodo) cũng lần
lượt xuất hiện và được truyền bá rộng rãi trên toàn nước Nhật.
Như vậy, cho đến thế kỷ mười
ba, tất cả những tông phái chính đều có mặt tại Nhật, bao gồm Thiền
Tông, Tịnh Độ Tông, Thiên Thai Tông, Chân Ngôn Tông, Nhật Liên Tông
…
* Thiền Tông (Zen Sect):
là một tông phái đặc biệt của PG Nhật. Thiền bắt nguồn từ thời Phật
Thích Ca, rồi được truyền tới Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma (Bodhidharma, con của
vua Chí Cương, thuộc dòng Sát Đế Lợi, nước Quốc Hương, Nam Thiên
Trúc, vùng Cao nguyên Dekkan, miền Nam Ấn Độ). Ngài là Tổ sư thiền
tông đời thứ 28 của Ấn Độ. Năm 480 vâng lời Thầy, Ngài đến Trung
Hoa để truyền bá pháp môn thiền. Ở Trung Hoa lúc đầu thiền bị ảnh
hưởng mạnh mẽ của đạo Lão và Khổng. Thiền chỉ độc lập và nổi tiếng
từ thế kỷ thứ bảy và đã trở thành một tông phái chính cho tới ngày
nay tại Trung Hoa.
Thiền được giới thiệu đến Nhật
vào khoảng thế kỷ thứ 9 từ Trung Hoa qua hai Thiền phái Lâm tế và
Tào Động, cả hai phái này đều ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của Lục Tổ
Huệ Năng ở thế kỷ thứ 8. Hiện nay ở Nhật có ba Thiền phái như sau :
* Thiền Lâm Tế (Rinzai Sect) : do công khai sáng của thiền sư người Nhật Vinh Tây
(Eisai, 1141-1215). Ngài xuất gia từ năm mười ba tuổi ở chùa An
Dưỡng (Annyo) ở Kibitsu. Ngài đã tìm đường đến Trung Hoa để học đạo
trong hai lần, vào những năm 1168 và 1187. Lần sau cùng Ngài về đến
Nhật vào năm 1191 và thành lập chùa Shofuku ở Hakata. Ngôi chùa này
được xem là thiền viện đầu tiên trên đất nước này. Năm 1215, triều
đình Nhật xây dựng Chùa Kiến Nhân (Kennin-ji) tại Kyoto, Ngài được
thỉnh về làm chứng minh đạo sư cho ngôi già lam này. Ngài cũng được
xem là người có công trong văn hóa uống trà của Nhật, Ngài đã mang
giống trà từ Trung Hoa về trồng ở Nhật. Vị thiền sư nổi tiếng của
Thiền phái này về sau là ngài Bạch Ẩn (Hakui Ekaku, 1685-1786) với
những tác phẩm để đời. Ngày nay ở Nhật có 14 chi phái thuộc dòng
Thiền này, tuy không hợp nhất về tổ chức, nhưng vẫn theo đuổi lý
tưởng ban đầu của tổ sư Vinh Tây.
* Thiền Tào Động
(Soto/Tsao-tung) : là một trong năm Thiền
phái chính của Trung Hoa và là một trong mười ba Tông phái chính của
PGNB. Đây là một Thiền phái kiểu mẫu như để so sánh với Thiền Lâm
Tế, cuối cùng nó dường như phổ biến hơn những Thiền phái khác ở
Nhật. Nếu Lâm tế thích ứng với giới thượng lưu trí thức, thì Tào
Động lại gần gũi với tầng lớp bình dân. Thiền Tào Động được Thiền sư
Đạo Nguyên (Dogen, 1200-1253) khai sáng. Đạo Nguyên vốn là đệ tử của
Ngài Vinh Tây, sau đó ông sang Trung Hoa du học và trở về Nhật Bản
xây dựng Thiền phái này. Người kế thừa và làm lớn mạnh dòng thiền
này là thiền sư Suzuki Shosan (1579-1653). Hiện nay ngôi già lam
chính của Thiền phái này là Chùa Tổng Trì (Soji-ji) ở Yokohama do
thiền sư Hành Cơ (Gyogi, 666-749) tạo dựng năm 1321.
* Thiền Hoàng Bá (Obaku sect) : đây là Thiền phái thứ ba của người Nhật, có tầm ảnh
hưởng ít hơn hai Thiền phái trên, do thiền sư người Trung Hoa Ẩn
Nguyên (Yin-Yuan, 1592-1673) khai sáng. Sau nhiều năm tu học tại quê
nhà, ông đến Nhật Bản để hoằng Pháp vào năm 1654 và tiến hành thành
lập Thiền phái này tại chùa Vạn Phước (Mampuku-ji) ở tỉnh Yamato.
Ông đã được vua Nhật ban cho danh hiệu là Quốc sư
(Daiko-Fusho-Kokushi), ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Hiện
tại có hơn 600 ngôi chùa là chi nhánh của Thiền phái này.
Nhìn chung cả ba Thiền phái
trên đã phát triển mạnh ở Nhật và có tầm ảnh hưởng sâu rộng trong
đời sống của người dân Nhật. Cả ba đều có nhiều trường đại học, nhà
xuất bản kinh sách riêng, cơ quan từ thiện ... Không những thế Thiền
đã ăn sâu vào tiềm thức của người Nhật, thiền đã đi vào hoa, vào
trà, vào nếp sống, nếp nghĩ của người dân và cuối cùng nó nâng lên
thành Đạo, Trà Đạo, Hoa Đạo ... Bản chất khiêm hạ mà sắc bén, từ ái mà
quật cường của người Nhật được cả thế giới ngưỡng mộ đều là kết quả
từ sự thực nghiệm Thiền định cả.
* Tịnh Độ Tông (Jodo/Pureland Sect) : đây là một tông phái rất phổ biến ở các quốc gia Bắc-phương PG, có nguồn gốc từ thế kỷ thứ hai Tây
Lịch tại Ấn Độ. Tông
này dựa vào giáo lý của Kinh Vô Lượng Thọ (Sukhavativyuha) và
Kinh A
Di Đà (Amitabha-sutra). Cả hai bộ Kinh này đều mô tả về cõi
giới Cực-Lạc ở phương Tây, nơi những hành giả tu tập theo tông này sẽ tái sinh
sau khi bỏ báo thân ở cõi Ta-Bà như là một kết quả từ niềm tín tâm
nơi Đức Phật A-Di-Đà và tu tập nhiều thiện nghiệp. Vị Tông chủ của
phái này là Đức Phật A-Di-Đà hay Đức Phật có ánh sáng vô lượng
(unlimited light Buddha). Tịnh Độ Tông được truyền đến Nhật Bản vào
khoảng thế kỷ thứ sáu với sự thiết lập của Ngài Pháp Nhiên (Honen,
1133-1212). Ngài Pháp Nhiên đã công khai hóa pháp môn Tịnh độ vào
năm 1175 ở Kyoto. Sau đó nó đã phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng
thích nghi với xã hội Nhật, kết quả là có năm chi phái Tịnh Độ xuất
hiện từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 13, bao gồm Dung Thông Niệm
Phật Tông (Yùzù-nembutsu) do Ngài Lương Nhẫn (Ryonin, 1073-1132)
thành lập; Ngài Thân Loan (Shinran, 1173-1263) với Tịnh Độ Chân Tông
(Jòdo Shin); Ngài Nhất Biến (Ippen, 1239-1289) với Thời Tông (Ji
sect) ... Ngày nay, ở Nhật chỉ còn hai trong năm chi phái trên còn
thịnh hành. Những ngôi chùa chính của tông phái này là chùa Chion ở
Kyoto và Chùa Zojo ở Tokyo. Vào năm 1993, các tông phái Tịnh Độ
này đã kết hợp để xây dựng một pho tượng Phật A-Di-Đà
(Daibutsu) cao 120 m, đây là một công
trình Phật sự vĩ đại của Phật Giáo Nhật Bản cuối thế kỷ hai mươi.
* Thiên Thai Tông (Tendai-shù): còn được gọi là Pháp Hoa Tông, được Ngài Trí Khải
(Chih-i, 538-597, thường được gọi là Thiên Thai Đại Sư ) dựa vào
giáo lý Pháp Hoa Kinh mà lập tông phái tại núi Thiên Thai. Trí Khải
Đại sư là tác giả của trên ba mươi luận bản nổi tiếng như Pháp Hoa
Huyền Nghĩa (Fa-hua hsuan-tsan), Pháp Hoa Văn Cú (Fa-hua Wen Chu),
Ma Ha Chỉ Quán (Mo-ho-chih-kuan) ... Tông này được Ngài Tối Trừng
(Saicho, 767-822), truyền đến Nhật năm 805. Ngài Tối Trừng sinh năm
767 tại Omi (Nhật Bản), xuất gia năm 12 tuổi. Năm 804, Ngài được
triều đình Nhật gởi sang Trung Hoa để học Phật. Ngài đã tận dụng cơ
hội này để học giáo nghĩa Thiên Thai dưới sự dẫn dắt của Dòsui, học
thiền với Hsiao-jan ... một năm sau Ngài hồi hương và tiến hành lập
tông này. Ngài viên tịch năm 822 ở tuổi 56, để lại phía sau mình một
công trình nghiên cứu đồ sộ với một trăm sáu mươi tác phẩm các loại.
* Nhật Liên Tông (Nichiren-shù) : còn được gọi là Pháp Hoa Tông (Hokke-Sect); hay Nhật
Liên Pháp Hoa Tông (Nichiren Hokke) được Ngài Nhật Liên (Nichiren,
1222-1282) thành lập. Tông này lấy tư tưởng Kinh Pháp Hoa làm chỗ
nương tựa chính. Ngài Nhật Liên sinh năm 1221, con của một gia đình
lao động ở Kaminato. Ngài xuất gia vào thuở thiếu thời. Lúc đầu học
theo Chân Ngôn Tông, rồi Thiên Thai Tông. Cuối cùng Ngài kết luận
rằng chỉ Kinh Pháp Hoa (Saddharmapundarika-Sutra/The Lotus of the
Good Law) mới là cứu cánh và đưa đất nước Nhật bản ra khỏi cảnh khốn
cùng. Hành giả theo tông này thường thọ trì Kinh Pháp Hoa và niệm
danh hiệu Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.
Tông này có bốn ngôi
chùa chính là chùa Bản Môn (Hommon-ji) xây dựng ở Tokyo năm 1291;
chùa Diệu Hiển (Myòken-ji) xây dựng năm 1326 và chùa Bản Quốc
(Honkoku-ji) xây dựng năm 1263 ở Kamakura, đến năm 1345 thì được dời
về Kyoto và chùa Pháp Hoa Kinh (Hokekyò-ji) xây dựng năm 1260 ở
Nakayama. Sau thế chiến thứ nhất, Tông này đã phát triển thêm nhiều
tổ chức như Soka Gakkai, Rissho Koseikai, Reiyukai... đều một lòng
xiển dương giáo nghĩa của Pháp Hoa Kinh. Riêng tổ chức PG Rissho
Koseikai được đạo hữu Nikkyo Niwano thành lập vào tháng 3 năm 1938,
đến nay vẫn được xem là một trong những tổ chức PG rất mạnh tại Nhật
với hơn 6 triệu hội viên trên khắp thế giới. Năm 1997, Hội này có mở
một trang nhà để phổ biến giáo lý rất phong phú, đó là:
http://www.mediagalxy.co.jp/kosei/index1.html
* Chân Ngôn Tông (Shingon Sect) : còn gọi là Mật Tông (Esoteric Sect) là một trong những
Tông Phái PG chính ở Nhật, được Hoằng Pháp Đại Sư (Kobo Daishi,
774-835) thành lập ở Nhật vào năm 806. Ngài vốn có tên là Không Hải,
sinh năm 774, năm 15 tuổi đến Nara để học chữ Hán, lịch sử, văn học
và Kinh điển PG. Sau khi so sánh Phật, Lão và Khổng, ông chọn Phật
để theo. Ông xuất gia năm 20 tuổi với Đại sư Gònso. Năm 22 tuổi ông
thọ cụ túc giới ở chùa Đông Đại. Năm 31 tuổi (804) ông được Thầy gởi
đi Trung Hoa để học với sư Hui-Kuo (746-805). Năm 806 Ngài trở về
Nhật và tu ở núi Mahinoo, trong thời gian này có rất nhiều người tới
để cầu học, trong đó có cả Ngài Tối Trừng. Năm 816 Ngài khởi công
xây dựng chùa Kim Cang (Kongò-ji) tại núi Koya thuộc tỉnh lỵ
Wakayama để hoằng dương pháp tu này. Vị tông chủ của giáo phái này
là Đức Đại Nhật Như Lai (Mahavairocana/Dainichi-nyorai), hành giả
của giáo phái tu theo lời dạy trong bộ Đại Nhật Kinh Sớ
(Dainichi-Kyò-sho). Hiện nay Chân Ngôn Tông vẫn phát triển đều đặn
và có sáu chi phái nhỏ khác nhau tồn tại ở Nhật.
Phật Giáo
Nhật Bản ngày nay :
Theo thống kê gần đây cho thấy
có khoảng 70% dân số là tín đồ Phật giáo. PGNB được chia thành mười
ba tông phái chính, có 80.000 ngôi chùa, 200.000 tăng sĩ. Có trên 20
đại học, trung học và viện nghiên cứu PG ở khắp đất nước Nhật Bản.
Hiện nay tại Nhật Bản có nhiều
tổ chức PG thành lập, đặc biệt là giới cư sĩ tại gia, để mở rộng
nhiều chương trình hướng dẫn quần chúng tu học Phật. Nhiều tổ chức
tôn giáo xuất hiện sau Thế chiến thứ II (1945) đều mang theo sự ảnh
hưởng sâu đậm của PG. Những hoạt động truyền giáo bên ngoài Nhật Bản
cũng gia tăng đáng kể, nhiều phái đoàn hoằng pháp liên tục được gởi
đi hải ngoại, đặc biệt là Bắc Mỹ và Châu Âu. Nhiều sách báo được ấn
hành trong nhiều loại ngôn ngữ khác nhau của phương Tây, các học giả
Nhật Bản đã hợp tác với các nhà nghiên cứu nước ngoài để biên soạn
bộ Bách Khoa Từ Điển PG (Buddhist Encyclopedias, ấn hành vào năm
1980). Toàn bộ Kinh sách của PG Tây Tạng đã được chuyển ngữ và được
xuất bản bởi một Viện Nghiên Cứu tại Nhật và một bộ sưu tập tất cả
những bài nghiên cứu giáo lý Phật Đà được in từ nhiều quốc gia khác
nhau, đã được chuyển ngữ và in tại Nhật. PG Nhật cũng hỗ trợ cho
nhiều học giả và nghiên-cứu-sinh từ Bắc và Nam Mỹ, châu Âu và châu
Á, đặc biệt các nước Ấn Độ, Trung Hoa, Tích Lan, Việt Nam ... đến
Nhật để học Phật. Rất nhiều tổ chức Từ Thiện PG được thành lập để
giúp người tị nạn và các quốc gia đang phát triển ở Á châu và Phi
châu.
*
Tổng hợp từ các tài liệu :
- Masaharu Anesaki (1930) History of Japanese
Religion, Kyoto. - Charles Eliot (1959) Japanese
Buddhism, Tokyo. - Yoshiro Tamura (1990) Tokugawa
Period Buddhism and the Path to Modernization, Dharma
World, Sep/Oct 1990. - Keiichi Yanagaw (1992),
Religion in Japan Today, Foreign Press Center, Tokyo.
- Kodansha (1990) Kodansha Encyclopedia of Japan, Kyoto.
- Kazumasa Osaka (1990-1999), Dharma World magazine, Tokyo.
[
BACK ]
|