Trung
Hoa (China) là một quốc gia nằm ở vùng Trung và Đông Á. Diện tích :
9,6 triệu km2, dân số : 1,139 tỉ người (1992). Thủ đô : Bắc Kinh.
Trung Hoa hiện nay là nước đông dân nhất trên thế giới. Là một quốc
gia có nền văn minh cổ đại và có nhiều phát minh khoa học đóng góp
cho sự tiến bộ của nhân loại. Ngành kinh tế chính : công nông
nghiệp. Nguồn tài nguyên thiên nhiên rất phong phú: than đá, dầu mỏ,
quặng sắt, quặng kim ... các ngành công nghiệp rất đa dạng, đặc biệt
phát triển các ngành công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp. Phật giáo
là một trong ba tôn giáo chính ở Trung Hoa.
- Con
đường và niên đại Phật Giáo du nhập vào Trung Hoa
- (Thời Hậu Hán, 25-220 TL) :
Theo
sử liệu cho thấy PG được giới thiệu đến TH do các nhà buôn hay các
nhà sư truyền giáo người Ấn qua các ngã đường biển và đường bộ. Về
đường biển thì xuất phát từ các hải cảng vùng Nam Ấn rồi qua ngã Sri
Lanka, Nam Dương để vào hải cảng Quảng Đông. Về đường bộ, còn gọi là
con đường tơ lụa (Silk road) nối liền Đông Tây, di chuyển bằng lạc
đà, xuất phát từ miền Đông Bắc Ấn, rồi băng qua các sa mạc ở Trung-Á
để tới Lạc Dương (Loyang, thủ đô của nhà Hán).
Theo
biên niên sử thì Phật giáo truyền đến Trung Hoa vào thế kỷ thứ 2
trước Tây Lịch từ Trung Á nhằm niên hiệu Nguyên Thọ đời vua Ai Đế
nhà Tiền Hán, nhưng PG không truyền bá rộng rãi cho đến năm 65 Tây
lịch, dưới triều vua Minh Đế ( Ming Ti, niên hiệu Vĩnh Bình thứ 10
nhà Hậu Hán, 25-220 TL), thì PG mới bắt đầu cắm rễ và phát triển ở
TH. Vì muốn thần dân tu học Phật pháp nên vua Minh Đế đã cử một
phái đoàn gồm 18 người đến Thiên Trúc để thỉnh cầu hai Thiền sư
người Ấn là Ca Diếp Ma Đằng (Kàsyapama'tanga) và Trúc Pháp Lan
(Dharmaraksa) đến TH hoằng pháp. Hai vị Tăng người Ấn này đã mang
đến TH bộ Kinh Bốn Mươi Hai Chương (Sutra in 42 Sections) và
trú ngụ tại Chùa Bạch Mã (Pai-ma-ssu, ngôi chùa đầu tiên ở TH do vua
Minh Đế xây dựng, đến nay vẫn còn) ở Lạc Dương để hoằng dương Phật
Pháp.
Tiếp
theo sau hai ngài Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, những nhà truyền
giáo khác đến TH là ngài An Thế Cao (An Shih-Kao), là người An Tức
(Parthian, thuộc Bắc Ấn) , ngài Chi Lâu Ca Sấm (Lokaksema), ngài
Trúc Phật Sóc (Sangha Buddha) đến TH vào năm 148 TL, mang theo nhiều
Kinh Đại thừa để phổ biến nơi vùng đất mới này.
Phật Giáo Trung Hoa, thời kỳ
hình thành :
PG đã thành hình và đã truyền bá rộng rãi trong dân chúng TH
dưới triều đại nhà Hán, nhưng PG trong thời kỳ này mang màu sắc pha
tạp của Nho giáo và các tín ngưỡng dân gian, cho dù các tư tưởng căn
bản PG như Duyên sinh vô ngã, Giới định huệ, Nhân quả, nghiệp báo
... đã được truyền dạy ngay từ buổi đầu. Chính ngay trong thời
nhà Hán, Lão giáo (Taoism) và Phật giáo đã chính thức kết hợp hài
hòa để mang đến ích lợi thiết thực cho người dân. Từ vua chúa đến
thần dân đều tin và phụng thờ Phật Thích Ca và Lão Tử trên cùng một
bàn thờ. Những bản kinh Phật được chuyển dịch ra Hoa ngữ đều dùng
những từ ngữ của đạo Lão để giúp cho người dân dễ hiểu vào giáo lý
Đạo Phật.
Sau triều đại nhà Hán, Phật giáo đã bắt đầu ảnh hưởng vào nền
văn hóa và văn chương của TH.
Phật Giáo trong thời kỳ Tam quốc ( 220-280 TL)
:
Sau khi nhà Hậu Hán sụp đổ, Trung quốc chia ra thành 3 nước,
đó là nước Ngụy, Thục và Ngô. PG trong thời đại này chỉ phổ biến ở
hai nước Ngụy và Ngô. Tại nước Ngụy, với sự xuất hiện của ngài Đàm
Ma Ca La (Dharmakàla) và ngài Đàm Đế đã giúp cho không khí phiên
dịch Luật tạng bắt đầu khởi sắc. Hai bộ luật được chuyển dịch ra Hán
ngữ trong thời kỳ là
Tăng Kỳ Giới Bản và
Đàm Vô Đức Yết
Ma.
Trong khi tại nước Ngô thì có các ngài Khương Tăng Hội (Kang
Seng Hui), một thiền sư người nước Khương Cư (Sogdiane), ngài từng
xuất gia và tu học tại Việt Nam trước khi sang TH hoằng pháp. Ngài
đến nước Ngô năm 247 (nhằm vào năm thứ 10, niên hiệu Xích Ô). Tại
nơi này ngài đã thành lập trung tâm hoằng pháp Kiến Sơ, tổ chức đại
giới đàn và độ người xuất gia. Tiếp đó ngài được vua Ngô Tôn Quyền
ủng hộ để xây dựng Chùa Kiến Sơ và ngôi chùa này về sau đã trở thành
trung tâm hoằng pháp nổi tiếng qua các triều đại như Tây Tấn, Tống,
Tề, Lương , Trần, Tùy. Ngôi chùa đã từng đổi tên như Trường Khánh
Tự, Phụng Hiến Tự, Thiên Hỷ Tự ...
Phật Giáo Trung Hoa, thời Tây
Tấn (265-316 TL) :
Khởi đầu nhà Tây Tấn, Tư Mã Viêm lên xưng đế và đóng đô ở Lạc
Dương, nhưng mãi đến năm 280, sau khi đánh tan nhà Ngô, nhà Tấn mới
thống nhất được đất nước. Trong thời kỳ này, có nhiều bậc danh tăng
xuất hiện để phiên dịch Kinh điển ra Hán ngữ. Đáng chú ý là ngài Đàm
Ma La Sát (Dharmaraksa, Trúc Pháp Hộ), người đã chuyển ngữ nhiều bộ
kinh quan trọng như
Kinh Pháp Hoa (Saddharma-pundarika
Sutra), một bộ Kinh Đại Thừa nổi tiếng mà về sau Tông Thiên Thai lấy
làm kim chỉ nam để tu tập. Ngài còn dịch thêm bốn bộ kinh khác là
Kinh Bát Nhã (Prajnaparamita),
Kinh Duy Ma Cật
(Vimalakirtidesa, kinh này về sau được ngài Cưu Ma La Thập dịch
lại),
Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Surangama Sutra),
Kinh A Di
Đà (Sukhavati-vyuha Sutra).
Phật Giáo
Trung Hoa, thời Đông Tấn (317-420 TL) :
Mở đầu nhà Đông Tấn, Tư Mã Duệ xưng đế ở Kiến Xương. PG
trong thời kỳ này được xem là phát triển trên cả hai phương diện cả
hình thức tín ngưỡng lẫn tư tưởng triết học. Có nhiều danh tăng đến
từ Ấn Độ và đặc biệt là ngay tại TH lại xuất hiện nhiều tăng sĩ tài
ba để đóng góp cho công trình phiên dịch và truyền bá Chánh Pháp.
Nổi bật nhất là ngài Cưu Ma La Thập (Kumarajiva, 344-413), được
người đời tôn xưng là Tam Tạng Pháp Sư, người có công phiên dịch
nhiều bộ Kinh Đại thừa từ Phạn ra Hán. Các dịch phẩm chính của ngài
là :
Kinh A Di Đà ( Amitabha Sutra, dịch năm 402),
Kinh
Pháp Hoa (Lotus Sutra, 406),
Kinh Duy Ma Cật
(Vimalakirtinirdesa, 406),
Kinh Kim Cang (Vajracchedika
Sutra, 407),
Luận Đại Trí Độ (Mahaprajnaparamita-Sastra,412),
Thập Nhị Môn Luận (Dvàdasadvara Sastra, 409).
Trong khi ở miền Nam thì có ngài Pháp Hiển (Fa Hsien,
337-422), một nhà chiêm bái Phật tích (399-314) và phiên dịch kinh
điển. Ngài đã vượt qua sa mạc Gobi và Hy-Mã-Lạp-Sơn để tới Tây vực,
ngài dành 6 năm để học chữ Phạn và chiêm bái, sau đó thỉnh kinh trở
về TH. Chính sự thành công của ngài đã gợi cảm hứng cho ngài Huyền
Trang hai trăm năm sau cũng lên đường đi Tây Trúc thỉnh kinh. Các
dịch phẩm quan trọng của ngài gồm có :
Kinh Đại Niết Bàn
(Mahaparinirvàna Sutra), và
Luật Tạng (Vinaya-Pitaka), đáng
kể nhất là tác phẩm
Phật Quốc Ký (Fo kuo chi/ Record of the
Buddhist countries) được xem là bộ sách giá trị ghi chép về lịch sử
và văn hóa của PG Ấn Độ trong thế kỷ thứ 4 và 5.
Sau thời đại nhà Đông Tấn, TH lại tiếp tục chia đôi đất nước
thành Nam và Bắc triều (420-588) cho nên PG cũng như vận nước thăng
trầm theo thời gian.
Phật Giáo ở miền Nam Trung Hoa
:
Nam phần TH [ Có các nước Tống (420), Tề (479), Lương (502),
Trần-Tùy (589) ] do các vua chúa người Hoa thống trị, đang trong
thời điểm không thỏa mãn với triết học của Nho giáo, nên đã chuyển
hướng, quan tâm đến giáo lý của đạo Phật. Do đó, chẳng bao lâu, PG
đã ảnh hưởng sâu rộng từ cung đình cho đến làng xã TH. Các bậc danh
tăng xuất hiện trong thời kỳ này có các ngài như Tăng Già Bạt Đà
La (Shanghabhadra), Tăng Tuệ, Huyền Xướng (nước Tề), nước Tống có
ngài Cầu-Na-Bạt-Đà-La (Gunabhadra), Cương Lương Da Xá (Kàlayàsas),
nước Lương với sự trị vì của Lương Võ Đế, một ông vua tín ngưỡng
Phật pháp nên trong thời kỳ này PG phát triển rất mạnh, nhiều kinh
sách được phiên dịch và ấn hành, các danh tăng tại nước này có các
ngài Bồ-Đề-Đạt-Ma (Bodhidharma) Tăng-Già-Bà-La (Sanghapàla), Ba-La-Mật-Đa (Paramàntha)....
Phật Giáo ở miền Bắc Trung Hoa
:
Miền Bắc TH [ Gồm các nước Bắc Ngụy (439), về sau chia thành
Đông Ngụy (534) và Tây Ngụy (535) theo sau triều Đông Ngụy là Bắc Tề
(550), và kế tiếp Tây Ngụy là Bắc Chu (536)], không do các vua chúa
người Hoa trị vì, họ không theo Nho giáo, nên rất ủng hộ PG. Tuy
nhiên, PG cũng đã trải qua hai kỳ pháp nạn dưới triều vua Thái Võ Đế
(thuộc nhà Bắc Ngụy, 466 TL) và vua Võ Đế (triều đại Bắc Chu, 560
TL) nên PG tưởng có lúc đã tàn lụi nơi miền Bắc. Nhưng do có nhiều
tăng sĩ đến từ Ấn Độ đã giúp phục hưng Phật pháp tại nơi này. Vào
cuối thế kỷ thứ 4 TL, 90% dân số miền Bắc TH (sát với Trung Á và con
đường lụa) là Phật tử. Và từ nơi đây, PG đã truyền bá đi Triều Tiên,
Nhật Bản và nhiều quốc gia láng giềng khác.
Trong hai thế kỷ 5 và 6 TL, các Tông phái PG Ấn độ bắt đầu
truyền đến TH, đặc biệt trong thời kỳ này các tông phái mới cũng
được phát sinh tại xứ sở này. PG đã trở nên ảnh hưởng mạnh trong
giới trí thức và có quyền lực ở TH, chùa chiền được vua chúa và nhân
dân thi đua xây dựng trên khắp đất nước. Do đó không có gì ngạc
nhiên, khi triều đại nhà Tùy (581-618) lên ngôi sau khi thống nhất
đất nước, PG đã trở thành Quốc giáo (state religion) của đất nước
này.
- Phật Giáo Trung Hoa, thời
kỳ phát triển :
-
- Thời đại nhà Tùy (581-618) :
Thời kỳ vàng son của PGTH tập trung vào triều đại nhà Tùy (Sui, 581-618), đây là thời kỳ kiến thiết PGTH. Dưới triều đại nhà
Tùy có nhiều vị vua kính ngưỡng và hộ trì PG như vua Tùy Văn Đế và
vua Tùy Dạng Đế nên PG đã phát triển rất nhanh. Chùa chiền được xây
dựng khắp mọi nơi, người dân mến mộ đạo và phát tâm xuất gia ngày
càng đông, ngay cả vua Tùy Dạng Đế cũng đến quy-y và thọ Bồ tát giới
với ngài Trí-Khải Đại Sư ở núi Thiên-Thai và tổ chức cúng dường
1.000 vị tăng. Các danh tăng có công hoằng pháp và phiên dịch kinh
điển trong thời kỳ này là các ngài Đạt-Ma-Cấp-Đa (Dharmagupta); Na-Liên-Đề-Xá (Nàrendrayasas); ngài Xà-La-Quật-Đa (Janagupta)
...
Thời đại nhà Đường (618-907,
Mậu Dần - Đinh Mão) :
Mặc dù phần lớn các vua nhà Đường luôn là tín đồ của đạo Lão.
Nhiều vị vua ủng hộ Phật pháp vì thuận theo lòng dân, nhưng cũng có
vua thẳng tay đàn áp PG, vì cho rằng PG không bao giờ có thể thay
thế được Nho giáo và Lão giáo, chẳng hạn vào năm 845 TL, vua Võ Tôn
(Wu-tsung), đã mở chiến dịch khủng bố PG. Theo sử liệu ghi nhận có
trên 40.000 tự viện bị phá hủy và 260.500 tăng ni bị buộc phải hoàn
tục. Tuy nhiên, đó chỉ là một khúc quanh của lịch sử PGTH, thời gian
còn lại của nhà Đường là phục hưng và có thể nói PGTH trong thời kỳ
này được phát triển toàn diện từ kiến thiết hạ tầng đến học thuật
tông phái, triết học và nghệ thuật. Và những thành công rực rỡ của
PGTH trong thời kỳ đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tu học không
những trong phạm vi đương đại mà còn kéo dài đến tận các thế kỷ sau, không những chỉ ảnh hưởng trong nước mà còn truyền bá ra các quốc
gia PG lân cận nữa.
Các bậc danh tăng thạc đức xuất hiện trong thời kỳ như ngài
Pháp Tạng của Hoa Nghiêm tông, ngài Đạo Tuyên của Luật tông, ngài
Huệ Năng của Thiền tông, ngài Kim Cương Trí của Mật Tông, và đặc
biệt có ngài Huyền Trang (Hsuan-tsang, 600-664), đã lên đường đến
Tây Trúc để chiêm bái, học hỏi trong 16 năm và mang về cho TH nhiều
tài liệu Kinh sách quý giá trong thời kỳ này. Tác phẩm
Đại Đường
Tây Vực Ký (Ta-t'ang hsiyu chi) của ngài đã trở thành tư liệu
nghiên cứu lịch sử, văn bản học, văn hiến học vô giá cho thời đại
hôm nay; các công trình nghiên cứu phiên dịch và sáng tác của ngài
như
Kinh Bát Nhã (Prajnaparamita sutra, 600 quyển),
A-tỳ-đạt-ma-câu-xá-luận,(Abhidharma-kosa-sastra),
Duy
Thức Tam Thập Tụng Luận (Trimshika- sastra)
Nhị
Thập Tụng
Luận (Vimsatikakarika-sastra),
Du Già Sư Địa Luận
(Yogacaryabhùmi-sastra) hay
Thành Duy Thức Luận (Vijinaptimatrata- sastra, tác phẩm sáng tác) ... đã trở thành một
công trình văn hóa của toàn nhân loại.
Một nhà dịch thuật kinh điển khác trong thời kỳ này là ngài
Nghĩa Tịnh (I-ching, 635-713), là một nhà chiêm bái và phiên dịch
kinh điển quan trong của PGTH. Năm 617, ngài lên đường hành hương
sang Ấn Độ bằng đường biển và lưu lại nơi ấy 20 năm. Tại Đại học
Nalanda ngài đã theo học giáo nghĩa của cả hai hệ thống tư tưởng
Tiểu thừa (Hinayana) và Đại thừa (Mahayana) và tiếp đó ngài bắt đầu
chuyễn ngữ những kinh sách quan trọng ra Hán ngữ. Năm 695, ngài trở
về TH và mang theo 400 Kinh sách các loại. Tại quê nhà với sự hợp
tác của ngài Thực Xoa Nan Đà (Sikshananda), ngài tiếp tục công việc
nghiên cứu và dịch thuật của mình. Các dịch phẩm quan trọng của ngài
là
Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh (Buddhavatamsaka
sutra),
Luật Tạng (Vinaya-pitaka) ,
Căn bản thuyết nhất
thiết hữu bộ Tì-nại-da (Mulasarvastivada) và trên 50 dịch phẩm
quan trọng khác.
Cũng trong thời điểm này có nhiều tông phái PG ra đời tại TH
để sánh vai với các trường phái học thuật xứ sở này, để cùng nhau
mang lại ích lợi và phát triển tâm linh cho người dân. Các tông phái
đáng chú ý là Tịnh Độ tông, Thiền tông, Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm
tông v.v...
Các Tông Phái Phật Giáo Trung Hoa
:
Luật Tông (Lu/Vinaya) :
Là một trong những Tông Phái chính của PGTH. Tông này theo
khuynh hướng bảo thủ giống như truyền thống ở các nước ở Nam Á, được
ngài Đạo Tuyên (Tao-hsuan, 596-667) dựa vào bộ Tứ Phần Luật (The
Vinaya in Four Parts, bản dịch của ngài Buddhayashas) mà thành lập
vào thời đại nhà Đường. Chủ trương của tông là nghiêm trì giới luật
để tiến đến Phật quả. Đây là một tông phái kiểu mẫu nhất để lập lại
trật tự và giữ vững quy cũ thiền môn của PGTH.
Câu xá Tông (Kosha-tsung/Realistic) :
Tông này phát xuất từ một ý tưởng trong luận bản A Tỳ Đạt Ma
Câu Xá (Abhidharma-kosha sastra) của ngài Thế Thân (Vasubandhu ,
316-396) là em của đại sư Vô Trước (Asanga) và từng là một học giả
lừng danh của phái Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivada/ All things
exist, một trong 18 tông phái của PG Tiểu Thừa ). A Tỳ Đạt Ma Câu Xá
Luận [ được ngài Chân Đế dịch (Paramàrtha, 563-567), nhưng về sau
được ngài Huyền Trang dịch lại ] là một luận bản phê bình đại cương
về hệ thống triết học A Tỳ Đàm (Abhidharma) của Tiểu Thừa. Tông này
được thành lập không bao lâu thì sát nhập vào Tam Luận
Tông.
Tam Luận Tông ( San-lun/Three Treatises) :
Do ngài Cưu Ma La Thập thành lập. Tông này phát xuất từ phái
Trung Quán ở Ấn Độ, một trường phái phát triển của Đại sư Long Thọ
(Nararjuna). Giáo lý tông này cũng nhấn mạnh đến tự tánh không của
vạn pháp. Như tên gọi của tông này, Tam Luận, tức là dựa vào ba bộ
luận chính, Trung Quán Luận (Madhyamika), Thập Nhị Môn Luận
(Dvadasamuka Sastra) của Ngài Long Thọ, và Bách luận (Shata sastra)
của Ngài Thánh Thiên (Aryadeva).
Pháp Tướng Tông (Fa-tsiang/Idealist) :
Bắt nguồn từ trường phái Du Già (Yogacara) của Ấn Độ, một tông
phái của PG phát triển có mặt từ năm 167 TL tại Ấn. Tại TH do ngài
Huyền Trang dựa theo bộ Nhị Thập Tụng luận (Vimsatikàkàrikà) mà
thành lập.
Mật Tông (Mi-tsung/Tantric) :
Do ngài Thiện Vô Úy (Subhakarasimha, 637-735) thành lập vào
năm 716. Vị tông chủ của giáo phái này là Đức Đại Nhật Như Lai
(Mahavairocana), hành giả của giáo phái này tu theo lời dạy trong bộ
Đại Nhật Kinh (Mahavairocana sutra, do ngài Thiện Vô Úy dịch).
Người kế thừa tông này là ngài Kim Cương Trí (Vajrabodhi, 670-741)
người Ấn, đến TH vào năm 720 và ngài Bất Không Kim Cương
(Amoghavajra,705-774, người Ấn), hai ngài có công giải thích Kinh Đại
Nhật, lập đàn tràng Mandala và nhiều lễ nghi khác để hướng dẫn đồ
chúng thực hành. Tông này chỉ hoạt động gần 100 năm thì bị thay thế
bởi Lạt Ma giáo của Tây Tạng.
Hoa Nghiêm Tông (Hua Yen/Flower Adornment) :
Do ngài Tu-Shun (557-640) dựa vào Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka
Sutra) để lập tông. Nhưng ngài Pháp Tạng (Fa-Ts'ang, 643-712 TL,
gốc người Soghdian nhưng sinh tại Trường An -TH, là tổ thứ 3 của Hoa
Nghiêm tông) đã có công xiển dương tông này. Ngài Pháp Tạng trước đó
từng là thành viên trong ban phiên dịch của pháp sư Huyền Trang,
ngài đã tâm đắc và dẹp tan mọi ảo mộng về duy tâm sau khi đọc Kinh
Hoa Nghiêm. Hoàng Hậu Võ Tắc Thiên (trị vì năm 690-705) rất sùng mộ
tông này nên vào năm 704 đã thỉnh cầu ngài Pháp Tạng vào cung đình
để thuyết giảng Kinh Hoa Nghiêm. Các vị tổ thừa kế tông này là ngài
Chih-Yen (602-668), Ch'eng-Kuan (738-838)và Kuei-feng Tsung-mi
(780-841). Tiếp đó tông này phát triển rất mạnh ở TH. Tông này tôn
thờ và thực hành pháp hạnh của đức Phật Tỳ-Lô-Xá-Na.
Thiên Thai Tông (T'ien-T'ai/White Lotus) :
Còn được gọi là Pháp Hoa Tông, một trong những tông phái
chính của PGTH được Ngài Trí Khải (Chih-i, 538-597 TL, thường được
gọi là Thiên Thai Đại Sư) dựa vào giáo lý Kinh Pháp Hoa
(Saddharma-pundarika) mà lập tông tại núi Thiên Thai vào năm 575, (nơi đây hiện còn ngôi chùa Quốc Thanh do chính Ngài Trí Khải xây
dựng vào năm 601, được xem là thánh tích quan trọng của PGTH). Trí
Khải đại sư là tác giả của trên ba mươi luận bản nổi tiếng như
Pháp
Hoa Huyền Nghĩa (Fa-hua hsuan-tsan),
Pháp Hoa Văn Cú (Fa-hua Wen
Chu),
Ma Ha Chỉ Quán (Mo-ho-chih-kuan) ... các vị tổ trong dòng
truyền thừa tông này là Kuan-ting, Fa-hua, T'ien-kung, Tso-ch'i,
Ch'an-jan và ngài Tao-Sui, người có công giới thiệu tông này đến
Nhật bản vào thế kỷ thứ 9.
Tịnh Độ Tông (Ch'ing-t'u/Pureland ) :
Đây là một tông phái rất phổ biến ở các quốc gia Bắc phương
PG, có nguồn gốc từ thế kỷ thứ hai Tây lịch tại Ấn Độ. Tông này dựa
vào giáo lý của
Kinh Vô Lượng Thọ (Sukhavativyuha) và
Kinh A-Di-Đà (
Amitabha-sutra). Cả hai bộ Kinh này đều mô tả về một cõi giới
Cực-Lạc ở phương
Tây, nơi những hành giả tu tập theo tông này sẽ tái sinh sau khi bỏ
báo thân ở cõi Ta-Bà như là một kết quả từ niềm tín tâm nơi Đức Phật
A-Di-Đà và tu tập nhiều thiện nghiệp. Vị Tông chủ của phái này là Đức
Phật A-Di-Đà hay Đức Phật có ánh sáng vô lượng (unlimited light
Buddha). Tại TH tông này do Tổ Huệ-Viễn (Hui-Yuan, 334-416) khai sáng
vào năm 402, nhưng đến khi Ngài Đàm Loan (476-542) thời nhà Ngụy mới
chính thức hình thành và đến đời ngài Đạo Trác (562-645) thời nhà
Đường mới phát triển toàn diện và truyền bá khắp TH.
Thiền Tông (Ch'an/Zen) :
Là một tông phái đặc biệt và thành tựu nhất của Phật Giáo TH.
Thiền bắt nguồn từ thời Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, rồi được Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma (Bodhidharma, 470-536, là Sơ Tổ của dòng Thiền TH), con của
vua Chí Cương, thuộc dòng Sát Đế Lợi, nước Quốc Hương, Nam Thiên
Trúc, vùng Cao nguyên Dekkan, miền Nam Ấn Độ. Ngài là Tổ Sư Thiền
tông đời thứ 28 của Ấn Độ. Năm 526 vâng lời Thầy Prajnatara (Tổ thứ
27), Ngài đến Trung Hoa để hoằng pháp. Tại Trung Hoa lúc đầu Thiền
bị ảnh hưởng mạnh mẽ của đạo Lão và Khổng. Thiền chỉ độc lập và nổi
tiếng từ thế kỷ thứ bảy, tức phải đợi đến đời Tổ Huệ Năng (Hiu Neng,
638-713, Tổ thứ sáu) thì Tông này mới được truyền bá rộng rãi và đã
trở thành một Tông phái chính cho tới ngày nay. Các bộ kinh
chính của Tông này là :
Kinh Lăng Già (Lankavatara),
Kinh Bát Nhã
(Heart sutra),
Kinh Duy-Ma-Cật (Vimalakirtinirdesa),
Kinh Kim-Cang-Bát-Nhã (Vajracchedika), và về sau có thêm bộ
Pháp Bảo Đàn Kinh của
Lục Tổ Huệ Năng nữa.
Phật Giáo Trung Hoa, thời kỳ
suy vi và chấn hưng :
Sau cuộc đàn áp dã man dưới triều đại vua Võ Tôn vào năm 845.
Cả Thiên Thai Tông và Hoa Nghiêm Tông đều bị tàn lụi vì sự đơn độc
của hai tông phái này. Thiền và Tịnh Độ tông với nhiều tín đồ, được
sống sót, phục hồi và tìm lại chỗ đứng trong xã hội Khổng Mạnh.
Triều đại nhà Nguyên (1215-1368)
:
Mật giáo của PG Tây Tạng được giới thiệu đến miền Bắc TH nơi
được sự đở đầu của hoàng gia sau khi Mông cổ xâm lăng TH, nhưng phần
lớn theo khuynh hướng chính trị hơn là tôn giáo. Trong thời kỳ này
đại tạng Kinh của Tây Tạng được truyền đến TH và được chuyển dịch
sang hán ngữ.
Triều đại nhà Minh (Ming, 1368-1662)
:
Khởi đầu từ vua Chu Yuan Chang, một vị vua rất kính ngưỡng
Đức Phật Di Lặc (MaitryaBuddha), nên hết lòng ủng hộ Thiền tông và Tịnh
Độ tông. Do đó trong thời kỳ này hai tông phái chính trên đã phục
hưng, phát triển mạnh và truyền bá rộng khắp
TH.
Triều đại nhà Thanh (Ch'ing, 1662-1911)
:
PG tiếp tục phát triển, nhất là Mật tông của Tây Tạng được
hoàng gia bảo trợ nên có nhiều ưu thế hơn. Các hoàng đế Thuận Trị,
Khang Hy, Ung Chính, Càn Long là những ông vua hết lòng hộ trì Phật
pháp và bảo trợ nhiều công trình Phật sự để đời như cho khắc in ba
Đại Tạng Kinh TH. Tuy nhiên cuộc nổi loạn vào các năm 1851-1864 ở
miền Nam TH do vua Manchu của nhà Thanh cầm đầu, đã tạo ra một cuộc
khủng bố khốc liệt đối với PG, kết quả nhiều tự viện bị hủy diệt và
tịch thu. Sau đó, PGTH phải cầu viện PG Nhật bản trợ giúp để phục
hồi.
Đầu thế kỷ 20 là thời điểm chấn hưng PGTH. Sau cuộc cách mạng
Tân Hợi năm 1911 đã tạo ra một làn sóng mới về dân chủ tự do cho
nhân dân TH thoát khỏi ách thống trị của chế độ phong kiến. Năm
1912, Tổng Hội Phật Giáo TH (Chinese Buddhist Association) ra
đời tại Thượng Hải, một năm sau đó một hội khác ra mắt tại Bắc Kinh
là Trung Ương PG Công Hội. Đến năm 1922, công cuộc chấn hưng
PG đã lên cao với sự lãnh đạo phong trào tích cực của Đại sư Thái Hư
(T'ai-Hsu, 1890-1947), người khai sáng Hội PG TH (Buddhist
Society of China) có hơn 5 triệu thành viên trên khắp đất nước. Mở
đầu Ngài cho thành lập Phật Học Viện Pháp Tạng (Fa t'sang Buddhist
School). Ngài nhấn mạnh rằng chương trình dạy được kết hợp hài hòa
giữa Phật học và khoa học để thu hút giới thanh niên trí thức, kết
quả là học viên theo học rất đông.
Không những Đại sư Thái Hư chăm lo chấn hưng nền PG trong
nước mà Ngài còn có nhiều đóng góp để chấn hưng PG thế giới. Chẳng
hạn, năm 1924, Ngài tổ chức Hội Nghị Phật Giáo Thế Giới
(World Buddhist Conference) tại Lô Sơn, TH. Năm 1925, Ngài tổ chức
Hội Nghị Phật Giáo Đông Á (East Asian Buddhist Conference) ở
Tokyo, Nhật bản. Và từ năm 1928, Ngài bắt đầu các chuyến đi hoằng
pháp ở các nước phương Tây. Ngài đã trở thành một trong những nhà
truyền giáo người châu Á đầu tiên đến diễn thuyết tại Pháp, Đức, Anh
và Mỹ quốc, riêng tại Pháp, vào 1931, ngài đã cho xây dựng một Học Viện Phật
Giáo tại Paris để hướng dẫn quần chúng Tây phương học
Phật.
Nhìn chung với sự góp sức chấn hưng của các Đại sư Thái Sư và
sự ủng hộ của chính phủ TH, PG đã nhanh chóng phục hưng về mọi
phương diện từ kiến thiết trùng tu cơ sở cho đến văn hóa nghệ thuật,
in ấn kinh điển. Phong trào chấn hưng PG tại TH lúc ấy đã ảnh hưởng
và lan tỏa đến các nước làng giềng như Nhật-Bản, Triều-Tiên và Việt-Nam.
Tham
khảo theo các tài liệu :
-
Daisaku Ikeda, The Flower of Chinese Buddhism,
Weatherhill, New York, 1997
-
Peter Harvey, An Introduction to Buddhism, teachings,
history and practices, Cambridge University Press,
London,1997
-
William E. Soothill & Lewis Hodous, A Dictionary of
Chinese Buddhist Terms, Motilal Banarsidass Publishers, Delhi,
India, 1997
-
Andrew Skilton , A Concise History of Buddhism,
Windhorse Publications, 1994
-
John Snelling , The Buddhist Handbook, the complete
guide to Buddhist Schools, Teachings, Practice and History,
Inner Traditions, Canada, 1992
-
Most Ven. Thich Huyen Ton, Lịch Việt Nam Văn Hiến Năm
Ngàn Năm, Melbourne, Úc Châu, 1990
[
BACK ]