......
... |
. |
. |
. |
. |
|
|
Người tu gánh vác được giáo pháp của Phật, làm lợi ích
cho đời đều là những người trước hiếu thảo với cha mẹ. Kế đến biết quí
kính Thầy Tổ là bậc tiền bối đã duy trì Phật pháp tồn tại, ngày nay
chúng ta mới biết để tu hành. Nếu đi tu chỉ muốn cho thân mình được
nhàn hạ sung sướng, mà không nghĩ đến công ơn của những bậc tiền bối,
không nghĩ đến sự tiếp nối, thì không làm được việc gì để cho người
sau nương theo tu học, thật là một đời tu vô nghĩa vô ích.
Nghiệm lại, tôi thấy tôi là người có nhiều phước, gặp
được bậc thầy (cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa) là một tấm gương hiếu
thảo, luôn biết ơn những bậc tiền bối và có lòng thương chúng sanh,
đem hết khả năng ra phục vụ đạo pháp mà không bao giờ thấy mệt mỏi
chán nản. Thế nên, tôi nghĩ đời tôi nếu ngày nào đó, tôi không làm
được việc gì nữa thì tốt hơn là theo Phật. Tôi không muốn sống đời vô
ích, chỉ biết dung dưỡng cho thân mình, mà không nghĩ tới đạo, không
làm lợi ích cho chúng sanh, sống như vậy không có ý nghĩa. Hiện tại
Tăng, Ni có duyên phước gặp được thầy tốt bạn lành, phải ráng làm sao
cho đời tu của mình là một đời tu cực kỳ hữu ích cho đạo cho đời. Ðừng
để đời tu của mình là đời ăn nhờ, ở đậu, không lợi ích gì cho ai,
khiến cho thế gian phỉ báng chê cười, uổng đi một đời tu và mai kia
cũng không ra gì hết. Tôi thường nhắc nhở Tăng, Ni phải noi gương
những bậc tiền bối, phải học và phải huân tập cái hay, cái cao đẹp của
các Ngài, cố gắng làm cho được. Tập theo gương tốt đó để tạo cho đời
tu của mình thành một phương thuốc giúp đời, chứ không phải là con mọt
hay con sâu trong đạo để cho đời phiền trách.
Thầy tôi dạy người muốn làm việc lớn, đem lợi ích cho
đạo cho đời phải gầy dựng cho mình một khả năng, nếu không có khả năng
thì không làm gì được. Muốn làm việc gì phải có khả năng về việc đó.
Ví dụ muốn sáng tác dịch thuật hay giảng dạy giáo lý, phải có học lực
khá về nội điển lẫn ngoại điển mới làm được. Muốn tu thiền phải có khả
năng về thiền mới tu được. Nói rộng hơn, học và tu theo Phật, chúng ta
phải có khả năng hiểu đạo thấu suốt, mới truyền bá Phật pháp thấu suốt
được. Nếu không hiểu thấu suốt thì khó cho việc truyền bá Phật pháp.
Hơn thế nữa, chúng ta là người tu hành theo lời Phật dạy, phải là
người biết đường và đi trước, tức là có kinh nghiệm tu hành mới hướng
dẫn cho người sau được. Biết đường và đi trước dẫn đường là khả năng
phải có của người tu. Nếu hướng dẫn người tu mà không biết đường đi
tới giác ngộ, không có khả năng đi trước để dẫn đường thì e rằng không
hướng dẫn được. Thế nên làm Phật sự phải có khả năng.
Ðiều thứ hai, thầy tôi dạy phải bền chí. Bền chí là yếu
tố cần thiết trong mọi công việc, nhất là sáng tác dịch thuật hay
giảng dạy. Việc này đòi hỏi sự cần cù liên tục ngày đêm; không bền chí
thì không thể đeo đuổi được lâu dài. Chỉ hứng thú nhất thời thì việc
làm không tới nơi tới chốn. Việc tu cũng vậy, nếu không bền chí thì
khi khỏe vui mới tu, khi buồn mệt không tu. Tu như thế không bao giờ
có kết quả. Tại sao vậy ? Vì tu là sức mạnh liên tục, nhờ liên tục mà
chóng thành công. Tu là đi trên con đường dài muôn dặm, người đi được
phải bền chí. Lúc khỏe vui cũng đi, lúc mệt yếu cũng cố gắng đi; khỏe
vui đi nhanh, mệt yếu thì đi chậm. Ði không bao giờ dừng nghĩ, nếu
dừng nghĩ thì không đến đích. Dù gặp khó khăn trở ngại, hoặc vấp ngã
trật chân trầy mặt đôi ba phen, cũng phải cố gắng đứng lên đi cho đến
đích, chứ không dừng nghỉ. Ðó là điều thiết yếu mà người tu phải
có.
Ðiều thứ ba, thầy tôi dạy làm việc phải có sức khỏe, sức
khỏe cũng là yếu tố cần thiết trong mọi công việc. Sức khỏe kém thì
thân thể mỏi mệt, tinh thần bì quyện (mỏi mệt), không thể ngồi lâu và
không đủ sáng suốt để phiên dịch, sáng tác hay giảng dạy. Tu cũng vậy,
phải khéo giữ sức khỏe không nên hủy hoại. Ðừng nghĩ phải ép xác, phải
hành hạ thân cho kiệt quệ mới là tu. Tu như vậy không tới đâu hết, mà
phải điều hòa sức khỏe cho tốt, nhờ sức khỏe tốt tinh thần mới minh
mẫn, công phu tu hành mới tới nơi tới chốn. Ðức Phật Ngài đã từng tu
khổ hạnh, sức khỏe kiệt quệ trầm trọng, Ngài tuyên bố con đường khổ
hạnh không nên đi, vì không đem lại sự sáng suốt giác ngộ.
Ðiều thứ tư, thầy tôi dạy làm việc gì phải thích thú
việc đó. Nói cách khác là phải yêu nghề. Làm thầy tu phải yêu sự
nghiệp thầy tu, nếu chán thì không tu trọn đời được. Ngài nói dù có
khả năng, có sức khỏe và bền chí, nhưng nếu không thích thú thì khó mà
thành tựu, nhất là việc phiên dịch, sáng tác hay giảng dạy. Có thích
thú mới vượt qua những khó khăn nhọc nhằn, khi thành công cảm thấy vui
mừng thì mới làm được. Việc tu cũng vậy, nếu chúng ta tu mà thấy khó
nhọc chán ngán thì đời tu sẽ thối chuyển. Thế nên người tu tinh thần
phải phấn phát, nhất là tọa thiền, nếu cảm thấy uể oải mệt nhọc thì sẽ
hôn trầm hoặc trạo cử, xả thiền trước giờ qui định. Ngược lại nếu vui
thích, tinh thần phấn chấn thì tọa thiền không chán, không mệt. Tinh
thần phấn chấn giúp cho công phu tu tập được kết quả tốt. Ðó là những
kinh nghiệm của bậc thầy để lại, chúng ta phải ráng học và thực
hành.
Sau đây tôi nhắc cho tất cả Tăng Ni luôn luôn nhớ, đời
tu là cuộc sống thanh cao siêu thoát, chứ không phải là kiếp sống tầm
thường của kẻ tàn phế. Nhiều người tu có quan niệm như người tàn phế
vô dụng, nghĩ vào chùa để cho yên thân nhàn hạ, chứ không thấy cuộc
sống của người tu là cao thượng siêu thoát. Từ cách sống hằng ngày đến
sự tu hành, chúng ta phải vươn lên; xử sự với mọi người, chúng ta là
bậc thầy, chứ không phải là người chiêu đãi mời khách, không phải là
kẻ thương mại khoe hàng. Chúng ta phải biết người tu là bậc thầy, có
trách nhiệm chỉ cho người đời những cái mê lầm đau khổ để cho họ
tránh, không phải mời khách đến cho đông để chúng ta có phương tiện
sống cho thoải mái. Phải biết bổn phận mình là người cầm đuốc soi
đường, ai đến với mình nếu không sáng nhiều thì cũng được một phần
sáng nhỏ, để cho họ bớt tối tăm mê mờ. Do đó người tu phải có đời sống
cao thượng đẹp đẽ, chớ sống quá tầm thường thấp kém.
Thứ nữa, tu là làm việc phi thường, người có tâm niệm
thấp hèn yếu đuối không thể làm được. Thế nên lúc nào cũng phải rèn
luyện cho mình có tâm hồn cao cả, ý chí vươn lên, quyết vượt khỏi vòng
trần tục, thì chúng ta mới có đủ tư cách và khả năng phi thường để làm
việc phi thường. Như vậy mới xứng đáng là bậc thầy, còn nếu dung dưỡng
tâm yếu hèn thì sẽ trở thành người hư tệ. Chúng ta phải cương quyết và
can đảm làm được việc khó làm, để đạt mục đích tối hậu của người tu là
giác ngộ. Tôi mong tất cả Tăng, Ni luôn luôn nhớ, việc làm của mình là
việc phi thường, chứ không phải vào chùa làm Tăng, để cầu chén cơm
manh áo, chỗ ở nhàn hạ rảnh rang. Ðường người tu là đường dốc đứng đầy
chông gai, chúng ta phải tận lực xông pha lên tận đỉnh, không phải
nhàn nhàn tản bộ dưới dốc là đến. Vì vậy chúng ta phải nung đúc quyết
tâm, bền lòng thực hiện cho bằng được hạnh tu giải thoát.
Tôi thấy nhiều người chưa tu mà có tâm rất thật thà đáng
mến. Ngược lại nhiều người tu mà có tâm lợi dưỡng, cầu danh thì thật
là quá tệ. Tăng Ni đã có duyên ở chùa, phải quyết tâm nỗ lực tu cho
xứng đáng là người xuất gia. Ðừng làm cây lục bình ở dưới sông, nước
lên thì trôi lên, nước rút thì trôi xuống. Phải tự quyết định đời
mình, vì không ai bắt mình vào chùa, mà mỗi người tự phát nguyện đi
tu, để giải khổ cho mình và độ người hết khổ. Thế mà sau khi cạo tóc ở
chùa, tới giờ tụng kinh thì bê tha, tỏ ra mỏi mệt không muốn tụng, tới
giờ ngồi thiền thì ngáp dài ngáp vắn không muốn ngồi. Như vậy có phải
tự mình phản bội chí nguyện xuất gia của mình không ? Tư cách đó không
phải là tư cách của người quyết chí thoát trần. Vậy tất cả Tăng, Ni
phải cố gắng tu hành cho xứng đáng là người xuất gia thoát tục, để mai
kia nhắm mắt theo Phật, thì những việc mình làm để lại cho người sau
là cái gương tốt, mới không hổ thẹn một đời tu và đền được cái ơn khó
đền.
( Tuần Báo Giác Ngộ, Số 127, Tháng 9 Năm 1998
)
Hôm nay đột xuất tôi được chư Tăng, Ni và Phật tử tỉnh
Quảng Ngãi mời về đây thăm viếng, đồng thời xin một thời pháp ngắn.
Đến nơi, được sự đón tiếp của đông đảo quí vị, lại còn có các em trong
Gia đình Phật tử nữa, tất cả đều vượt ngoài sức tưởng tượng của chúng
tôi. Vì thế tuy đi đường nhọc nhằn, tôi cũng không nỡ từ chối nói pháp
cho quý vị nghe, do đó có bài pháp Lục Hòa này.
Tăng, Ni là hàng xuất gia đều biết tính quan trọng của
phép Lục Hòa đối với đời sống Tăng đoàn. Quí vị phải ứng dụng cho được
những điều căn bản đức Phật đã dạy, đồng thời nhắc nhở gia đình Phật
tử cùng hiểu biết, sống đúng với tinh thần ấy. Khi lập Thiền viện,
nghiên cứu kỹ giới luật nhà Phật, tôi thấy sáu phép hòa thuận là phần
căn bản, đức Thế Tôn dạy cho hàng tu sĩ chúng ta. Thế nên nói tới
Tăng, Ni là nói tới Lục hòa.
Tăng, chữ Phạn là Sangha, Trung-Hoa dịch âm là Tăng già,
dịch nghĩa là Hòa hợp chúng. Tức chỉ một số tu sĩ, hoặc Tăng hoặc Ni
sống chung với nhau trong tập thể, hòa hợp vui vẻ tu hành, nên còn gọi
là hòa hợp Tăng. Quí thầy, quí cô sống hòa hợp thì gọi là Tăng, không
hòa hợp thì không đủ nghĩa của Tăng. Đức Phật đặt sự hòa hợp trên tất
cả các giới luật. Nếu chúng ta sống không hòa hợp thì sự tu hành không
bao giờ tiến. Đa số Tăng, Ni đều biết Lục hòa rồi, nhưng ở đây tôi
cũng xin nhắc lại từng phần để quý vị thấy được chỗ thấu đáo Phật dạy
:
1. Thân hòa đồng trụ :
Điều này vào thời đức Phật thực hiện rất dễ, nhưng thời
chúng ta ngày nay hơi khó một chút. Bởi vì sống chung một chùa, một
Tịnh xá thì chư Tăng hoặc chư Ni cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng tu
như nhau không khó. Tất cả nếp sống, công tác, hạnh kiểm tu hành hằng
ngày đều như nhau, gọi là thân hòa đồng trụ. Trong trường hợp mỗi
thầy, mỗi cô ở mỗi chùa thì việc hòa hơi khó. Vì vậy thân hòa đồng trụ
là chỉ cho một tập thể chung sống một chỗ, chứ không chỉ cho những
người sống rời rạc. Cho nên các vị sống riêng tư phải chịu thiệt thòi
này.
Chúng ta sống trong chùa hay thiền viện thì thực hiện
thân hòa đồng trụ dễ. Bởi vì không ở riêng, không có quyền lợi riêng
nên làm cùng làm, ăn cùng ăn, mặc cùng mặc, mọi công tác hay giờ tu
hành đều nhịp nhàng với nhau. Hòa hợp như vậy thì nếp sống đạo đức rất
tốt. Đó là nói về thân hòa đồng trụ.
2. Khẩu hòa vô tránh :
Tức miệng cùng hòa
hợp nhau, không gây gổ, không nói những lời dữ, lời nặng nề, không
tranh hơn thua với nhau. Tăng Ni thấy điều này dễ hay khó ? Nhất là
phái nữ sống chung với nhau một chùa, có cãi không ? Có, nên điều này
rất khó. Ở đây tôi nhắc chung cho cả các Phật tử tại gia. Chúng ta
sống làm sao được khẩu hòa vô tránh, tức là miệng nói những lời hòa
nhã, nhẹ nhàng, dễ mến, chớ không cãi lẫy, rầy la lớn tiếng. Nhưng e
rằng có vị làm Trụ trì hoặc Tri sự nói :“Sai làm mà không làm, không
rầy sao được ?”. Mới nghe thấy có lý nhưng trên tinh thần đạo đức thì
khác.
Chúng ta lâu nay có quan niệm, những gì mình nghĩ đều
cho là đúng, ai nói khác hơn mình không vui, mà không vui thì có cãi.
Ví dụ có hai người, một người khen hoa hồng đẹp, một người chê xấu.
Người khen hoa hồng đẹp bị người kia chê :“Nói bậy, nó xấu như vậy mà
nói đẹp, đẹp ở chỗ nào”. Bấy giờ người khen hoa hồng đẹp chắc khó nín
được. Khi mình nói đẹp, người khác chê xấu thì bực bội nên cãi nhau.
Cả hai đều không biết điều đó đúng hay không ? Mỗi người có quyền
nhìn, có quyền nhận định riêng. Ta thấy đẹp, đó là nhận định riêng của
mình. Người khác thấy xấu, đó là nhận định riêng của họ. Cho nên muốn
khỏi cãi nhau, chúng ta lắng nghe Phật dạy trong kinh A-hàm: Người
biết tôn trọng chân lý là khi nói điều gì, chỉ nói “đây là cái nghĩ
của tôi”. Ngang đó thôi, không thêm chữ “đúng”. Nếu nói tôi nghĩ đúng
thì sanh chuyện ngay. Mỗi người có quyền nhận định riêng, hoa hồng đẹp
hay xấu, mình cãi với nhau làm chi ? Nó là nó thôi. Tại vì ta cho nhận
định của mình là đúng, người khác nói ngược lại thì nổi sân lên. Mà
nhận định của mình có đúng chân lý chưa ? Dĩ nhiên là chưa.
Tôi thường ví dụ, hôm trước tôi ngồi trên núi, thấy
hướng Nam có cụm mây đen, gió thổi đùa qua, một lát mưa xuống ào ào.
Hôm nay tôi thấy cụm mây đen như thế, nghĩ thế nào cũng mưa nên bảo
quí thầy đem đồ vô. Nếu thầy nào không nghe lời, tôi sẽ giận và rầy
la. Đó là do tôi lấy kinh nghiệm hôm trước đặt cho hôm nay. Nhưng
không ngờ một lát gió đổi hướng, mây tan, trời không mưa. Lúc đó sao ?
Mình kêu người ta đem đồ vô, nhưng trời không mưa, mình có xin lỗi
không ? Lỡ rồi làm thinh, không ai nhắc tới thì thôi, thông qua luôn.
Quý vị làm Trụ trì, Tri chúng hay vấp phải lỗi này lắm.
Trên thế gian, mọi sự việc xảy ra đều tùy duyên. Hôm qua
duyên khác hôm nay duyên khác. Vậy tất cả suy nghĩ của chúng ta có
đúng không ? Đúng một phần thôi, chứ chưa phải tuyệt đối. Nhưng khi
suy nghĩ điều gì, ta thường cho đó là đúng tuyệt đối, ai làm khác thì
nổi giận liền. Do nổi giận nên gây ác khẩu, nói bậy, nói những lời vô
nghĩa, khiến cho người ta đau buồn. Đó là phạm lỗi khẩu hòa vô tránh.
Tăng Ni phải nhớ, sống sao cho người đến chùa, Tịnh xá
không nghe một tiếng la hét nào hết. Như thế mới tốt, mới vui hòa. Nếu
vào chùa lát nghe cô này la, cô kia cự thì có hòa không ? Người tu còn
không hòa, làm sao dạy Phật tử sống hòa vui được. Cho nên Phật bắt
buộc chúng ta phải lấy chữ “Hòa” làm nền tảng tu và dạy người. Phải
hiểu nhận định của mình chỉ đúng phần nào thôi, chớ không bảo đảm trăm
phần đều đúng. Nên khi trình bài ý kiến của mình với người khác, chỉ
nên nói “cái hiểu của tôi như thế, anh chị có thể nghĩ khác” thì không
có lỗi, chớ đừng vội cãi vã. Nhiều khi ta cãi trước khi sự việc đến.
Đó là điều không có tốt trong đạo. Cho nên Tăng, Ni phải tự kiểm để
biết những gì sai lầm của mình, mà chỉnh lại cho đúng.
3. Ý hòa đồng duyệt :
Ý
của chúng ta hòa hợp, vui vẻ với nhau. Hòa thì vui. Muốn hòa vui thì
phải làm sao ? Phải đừng cho cái nghĩ của mình là đúng. Ta thích điều
đó mà người khác không làm, không giúp, còn ngăn cản thì mình có giận
không ? Chắc chắn là giận. Nhưng quí vị thử nghiệm lại xem, huynh đệ
sống chung, tất cả ý niệm, suy gẫm đều giống hệt hay mỗi người mỗi ý ?
Hầu hết là mỗi người mỗi ý, không ai giống ai. Nếu giống hệt Phật
không bắt chúng ta hòa làm chi. Người nghĩ thế này, người nghĩ thế nọ,
không giống nhau thì sống chung có vui không ? Sống gượng thôi chớ
không vui. Người tu mà bực bội, không vừa lòng mãn ý thì sống năm mười
người, hai ba chục người hoặc cả trăm người thì chắc lộn xộn lắm. Bởi
vậy nên cái hòa của ý hết sức quan trọng.
Bây giờ muốn ý hòa chúng ta phải làm sao ? Phật dạy muốn
hòa thuận với nhau, trước hết không nên bám giữ, cố chấp ý riêng của
mình. Tại sao ? Vì ý là cái suy nghĩ luôn luôn sanh diệt. Mà suy nghĩ
thì không bao giờ đúng 100%, mười phần trúng được năm ba phần thôi. Có
sai nên biết ý mình chưa toàn vẹn, chưa bảo đảm, làm sao cố chấp được.
Nếu trên thế gian, suy nghĩ cái gì đúng cái ấy thì người ta có nghèo
khổ không ? Chắc không ai nghèo khổ hết. Bởi vì suy nghĩ đâu đúng đó,
thì thiên hạ đều làm giàu hết rồi. Trong đạo cũng vậy, nếu ta nghĩ gì
đều đạt hết thì ngày nay chùa nào cũng to, Phật cũng lớn, mọi người
đều quy hướng về mình, nhưng sự thật không phải vậy. Ý nghĩ không hoàn
toàn mà ta cố chấp, bảo vệ, đó là sai lầm. Từ sai lầm này sanh ra
tranh cãi, bực bội với nhau, đi đến chỗ không còn tình, không còn
nghĩa gì cả. Nên biết Phật dạy người tu sống giữ ý hòa đồng duyệt để
cuộc sống hòa vui, chớ không buồn giận, oán hờn nhau.
Thực tế ở trong chùa hay thiền viện, tất cả Tăng, Ni đều
hoàn toàn hài lòng, vui vẻ hết hay ráng nhịn nhau ? Ráng nhịn nhau mới
yên, chớ không ai bằng lòng ai. Đó là chuyện thường. Trong việc tu
hành, chúng ta phải xét thật kỹ, tu là để giải thoát sanh tử, cứu độ
chúng sanh. Nếu trong chúng năm mười người, mỗi người nghĩ khác, ai
cũng cố chấp ý nghĩ của mình là đúng thì cuộc sống có hòa vui không ?
Năm mười người đã không hòa được, nói gì độ chúng sanh ! Chẳng lẽ độ
cho nhiều để cãi cho lắm sao ? Cho nên quí vị thu đệ tử, phải khéo hòa
hợp chúng, không để có những ý niệm riêng tư.
Sống được hòa vui như vậy, ai đến chùa cũng thấy niềm
vui toát ra cả, không có gì khó chịu hết. Ngược lại nếu nội bộ trong
chùa không hòa vui, ý Tăng Ni không hợp, Phật tử bắt gặp những bất
bình của mình, khiến họ kinh sợ, không dám đến chùa nữa. Thế nên quan
trọng là chúng ta phải hòa vui với nhau. Điều này không thể thiếu được
ở một người tu.
4. Kiến hòa đồng giải :
Tức những thấy biết của mình, chúng ta cùng đem ra giải
thích để huynh đệ cùng hiểu, cùng thông cảm với nhau.
5. Giới hòa đồng tu :
Chúng ta cùng giữ giới với nhau, không dám sai phạm để
cùng an vui tu tập.
6. Lợi hòa đồng huân :
Ở
trong chùa hay Tịnh xá, nếu có ai cúng dường thì Tăng Ni cùng chia
đồng đều nhau, không được người nhiều, kẻ ít. Nhưng bệnh của Phật tử
bây giờ thấy thầy, cô nào dễ thương thì cúng nhiều, thầy cô nào quí vị
không thích thì cúng ít hoặc không cúng. Người được nhiều cũng không
dám chia cho người ít, sợ bổn đạo biết được buồn. Do đó sau một thời
gian trong chùa có người giàu, kẻ nghèo. Người nghèo không có xu con,
người giàu dư dã xài không hết. Như vậy đâu thể gọi là lợi hòa đồng
huân.
Bởi thế, muốn thực hiện điều này tôi bắt buộc Tăng Ni
trong các thiền viện không được nhận tiền riêng. Ai cúng thì cúng
chung cho tập thể, Ban quản chúng nhận rồi dùng cho những nhu cầu
chung, chia đều toàn chúng, không được thương người này chia nhiều,
ghét người kia chia ít.
Tóm lại, trong sáu điều “Hòa” của nhà Phật, chúng ta xét
thật kỹ để ứng dụng tu hành. Nếu chư Tăng, chư Ni sống chung trong một
chùa hoặc Tịnh xá hòa hợp như vậy, thì Phật pháp truyền bá rất dễ
dàng. Ta khỏi cần thuyết pháp cho Phật tử nghe, chỉ cần nhìn thấy nếp
sống của mình, trên dưới hòa thuận vui vẻ thì họ liền quý mến. Quí vị
thuyết pháp hay, người ta mới nghe thì phục, nhưng tới chùa mình thấy
lục đục, kẻ phiền người giận tất nhiên Phật tử sẽ thối Bồ-đề tâm.
Thế nên trọng tâm của người tu, dù không giỏi nhưng khéo
sống đúng với tinh thần Lục hòa của đạo Phật thì việc tu tập sẽ được
tiến triển đều, đồng thời giúp cho tín tâm Phật tử ngày càng sâu đối
với Tam-Bảo, nhất là Tăng-bảo. Tăng Ni trong mùa an cư kiết hạ, quý vị
cố gắng tập sống theo tinh thần Lục hòa. Dù chưa trọn vẹn nhưng chúng
ta cố tập, từ từ cũng sẽ được hoàn bị. Có thế việc tu mới lợi
lạc. Nếu chúng ta không tập sống Lục hòa thì sự tu chỉ có hình thức
thôi, niềm an vui lợi lạc không được bao nhiêu. Đó là tôi nói riêng về
Tăng Ni.
Tiếp theo, tôi nói qua giới Phật tử. Quí vị ai cũng muốn
có cuộc sống vui hòa nhưng thật ra rất khó. Như năm 1996 tôi có qua
Mỹ, một số Phật tử ở Cali ham tu thiền, họ xin lập đạo tràng khoảng
ba, bốn chục vị. Tôi nhớ chư Tăng thì giữ Lục hòa, nên Phật tử giữ Tam
hòa được rồi. Nếu Phật tử ở tại gia đình mà giữ được Tam hòa là đã
tiến bộ lắm. Tam hòa là gì? Là thân hòa, khẩu hòa, ý hòa. Thân hòa thì
dễ rồi còn khẩu hòa, ý hòa dễ hay khó ? Phần nhiều Phật tử tại gia ít
được khẩu hòa. Tại sao ? Vì quí vị luôn luôn nghĩ mình đúng, nên nói
gì người khác không nghe theo thì giận. Trong bụng giận rồi thì thốt
ra lời nói khó chịu, nặng nề. Người nghe lời nói nặng cũng không chịu
nhịn, sợ thua nên sanh ra đôi chối, cãi vã, thành ra không hòa.
Ví
như chúng ta ra đường, bị ai đó có ác ý chửi “Cha chị”. Lúc đó mình
giận không ? Nổi giận liền. Nhưng nếu khi người ta nói “Cha chị”, mình
liền thưa :“Cám ơn anh, cám ơn chị đã nhắc tới cha tôi”. Vậy thôi.
Mình quên người ta nhắc lại cho nhớ, nổi giận làm gì ? Hoặc giả sử ta
làm trái ý ai, họ mắng mình là con bò. Khi ấy ta nên nói thế này :“Dạ
phải, tôi có uống sữa bò”. Uống sữa bò thì tế bào bò có trong mình,
cãi làm chi, có xấu hổ gì đâu. Nhưng nghe nói con bò thì quí vị giận
đùng đùng lên, rồi hung dữ với nhau. Nếu xét theo lẽ thật, đâu có gì
đáng kể. Hiểu vậy Phật tử cười hoài không giận gì hết.
Khi trí tuệ không sáng, người ta bực bội nói lời vô
nghĩa, mình chấp lời vô nghĩa kia để giận thêm thì cả hai đều vô nghĩa
hết. Thế nên người biết tu phải tập đức nhu hòa. Chúng ta thấy đâu
phải những vị có đức hạnh không ai dám chửi, người lớn cũng bị chửi
như thường. Kể cả đức Phật cũng thế, nhưng khi bị chửi Ngài xử sự khác
chúng ta.
Có
lần Phật đi khất thực vào xóm của Bà-la-môn. Các đệ tử Bà-la-môn thấy
Phật khất thực, họ đem cơm cúng dường. Ngài đến dưới cội cây ngồi ăn,
sau đó thuyết pháp cho họ nghe. Kết quả họ xin quy y theo Phật hết.
Qua đôi ba lần, xóm đó từ từ chuyển thành Phật tử hết. Các thầy
Bà-la-môn tức quá, chờ đức Phật vào làng khất thực, họ theo sau kêu
tên Phật chửi rất thậm tệ. Chửi thì chửi Phật cũng cứ đi từ từ, không
trả lời chi hết. Chịu hết nổi, vị thầy Bà-la-môn kia chặn đầu Ngài hỏi
:
-Cồ-đàm, có nghe tôi chửi không ?
Phật nói :“Nghe !”
-
Nghe sao không trả lời ?
Phật đáp :
-
Như nhà ông có đám giỗ mời thân quyến tới dự. Khi cúng kính xong, quà
còn nhiều nên ông phân chia để tặng họ. Những thân quyến không nhận,
vậy những món quà đó thuộc về ai ?
-
Tôi tặng mà người ta không nhận thì nó thuộc về tôi, chớ về ai
?
Phật nói :
-
Cũng vậy, ông chửi mà ta không nhận thì những lời ấy thuộc về ai
?
Bây giờ quý Phật tử nghe người ta chửi có nhận không ?
Nhận, nên tức tối phiền não hoài. Còn Phật không nhận nên Ngài chẳng
dính dáng gì. Người chửi tự nhớ, tự chịu, tự khổ. Ngày nay chúng ta
quý trọng đức Phật ở chỗ Ngài cũng bị người ta chửi, nhưng bình thản
không dao động, chớ đâu phải Ngài không bị chửi. Chẳng những đức Thế
Tôn không giận, không buồn mà còn thương người chửi nữa, vì biết họ
nói bậy.
Phật tử đừng nói chửi, vừa thấy ai nói lén nhỏ nhỏ sau
lưng đã lắng nghe rồi. Lắng nghe để nhận. Đức Phật bị kêu tên chửi còn
không màng, nên bây giờ chúng ta mới lạy Ngài. Nếu Thế Tôn cũng như
mình thì ngày nay làm gì có đạo Phật. Chính vì Phật không nhận nên
Ngài không buồn không giận. Vì vậy Ngài trả lời một cách tự nhiên “Ông
chửi ta không nhận thì lời đó thuộc về ông.” Ngoại đạo nghe thế tự xấu
hổ bỏ đi. Chính nhờ tâm sáng suốt, từ bi ấy mà bây giờ chúng ta mới
lạy Ngài.
Rồi một lần nữa, Phật đi khất thực cũng một thầy
Bà-la-môn kêu tên Ngài chửi, Phật vẫn ung dung đi. Cuối cùng Bà-la-môn
kia chạy lên chặn đường Phật :
-
Cồ-đàm, ông thua tôi chưa ?
Phật liền nói bài kệ :
Người hơn thì thêm
oán
Kẻ thua ngủ không
yên.
Hơn, thua hai đều
xả,
Ấy được an ổn ngủ.
Người nào không nghĩ hơn thua mới ngủ yên. Nếu thấy mình
thua thì oán hờn người hơn, tức quá ngủ không yên. Còn hơn người thì
bị người oán. Vì vậy đức Phật dạy :“Hơn thua hai đều xả, Ấy được yên
ổn ngủ”. Sở dĩ chúng ta cung kính quý trọng đức Phật, vì đứng trước
ngang trái Ngài luôn nhẫn nhịn được.
Ngày nay chúng ta tu muốn người quý trọng mình, mà động
tới sân si đủ thứ thì ai kính phục được ? Nên người thật tu không
giành hơn, không cho thắng người là thành công. Hơn thắng như thế là
mê. Chúng ta tỉnh sáng phải giữ thái độ an bình, hòa nhã, không giận
hờn.
Tôi thường ví dụ, như chúng ta vào bệnh viện tâm thần
thăm người thân trong đó. Khi vào mình không chọc ghẹo ai hết, nhưng
họ xúm quanh chửi mình, lúc đó chúng ta nghĩ sao? Nên giận hay nên
thương ? Người bệnh tâm thần không biết phải quấy nên chửi mình, ta
biết họ bệnh nên thương, chớ không giận. Cũng thế, chúng ta sống với
mọi người chung quanh, có khi mình không làm việc xấu quấy mà họ cứ đổ
cho ta xấu quấy, như vậy người đó tỉnh sáng hay bệnh ? Việc không mà
nói có, đó là bệnh. Họ cũng giống người bệnh tâm thần, nên ta thương
chớ đâu có giận. Nếu gặp người bệnh tâm thần chửi, ta chửi lại, kẻ
bàng quan sẽ nói sao ? Ông kia điên gặp chị nọ khùng, phải không ? Nếu
không điên thì khi họ chửi, mình đừng chửi lại, đừng giận mà thương
hơn.
Người biết tu, gặp kẻ mê ta phải tỉnh, người kia điên
chúng ta phải sáng suốt, chớ không ai ăn thua với người điên. Đó là
điều quan trọng mà thế gian không biết. Nhiều khi nghe một lời nói hết
sức vô nghĩa mà ta lại nổi nóng, cãi nhau thành việc lớn. Từ đó làm
khổ nhau, từ cái khổ này kéo đến cái khổ nọ. Trong đạo cũng vậy, nhiều
chuyện rất nhỏ mà do không khéo hòa với nhau nên thành lớn. Nhiều
người vì cãi thua, tức quá muốn tự tử, thật hết sức dại khờ.
Vừa rồi tôi đi qua Úc, có một Phật tử nữ đến thưa với
tôi rằng :“Thầy làm ơn về cầu siêu giùm người bạn của con”. Tôi hỏi
:“Bạn của cô làm sao mà phải cầu siêu ?”. Cô ta thưa :“Anh ấy tinh
thần không được sáng suốt, anh tự tử bằng cách thắt cổ chết trong vườn
nhà. Sau khi anh chết hai ba hôm, con nằm mộng thấy anh về đứng ngoài
sân kêu hoài :“Lạnh quá, làm sao cho anh bớt lạnh”. Con đem mền ra bảo
đắp, anh nói “không được”. Trải qua mấy hôm con đều thấy như vậy !”…
Như vậy mới biết : cái liều lĩnh để mà chết thì sẽ sanh
làm loài ngạ quỷ lang thang khổ sở chớ không phải chết là hết ! … Gần
nhất, cách đây chừng 1, 2 tuần có một việc xảy ra ở dưới Hồ Tuyền Lâm,
bên cạnh Thiền viện của tôi : Ba đứa học sinh lớp 11, nó đi chơi và rủ
nhau xuống thuyền của mấy người làm củi, nó bơi đi chơi rồi bị chết
chìm. Bốn đứa mà chỉ có một đứa lội lên bờ được, còn ba đứa kia thì bị
chết chìm … Cha mẹ của nó hay được liền đem tên họ của nó lại nhờ
Thiền viện cầu nguyện dùm ... Ba hôm sau, có một đứa gia đình ở Đức
Trọng, mẹ nó bất thần được người con nhập về kể lại câu chuyện nó chết
như vậy đó, nó nói : “Bây giờ ba má đừng có khóc nữa, con bây giờ được
mấy Thầy mời lên chùa, con học đạo, tu hành, con vui lắm !” … Mấy
người hàng xóm nghe bà mẹ nói như vậy họ không tin. Họ nói chắc bả
điên bả nói bậy. Họ hỏi vặn lại : “Vậy mấy đứa bạn của mày học ở trỏng
có những đứa nào kể tao nghe coi ?”. Nó kể rõ ràng từng đứa một … Cho
nên cha mẹ nó mới đem hương quả lên chùa nhờ quý Thầy, Cô tụng kinh
thêm …
Như vậy, mấy vị mới thấy chết chưa phải là hết, mà càng
chết oan chừng nào thì vong linh đó nó cứ lẩn quẩn, lang thang khổ sở
chừng đó... Nên người biết tu rồi, dù có xảy ra chuyện buồn phiền mấy
cũng bỏ qua đi, phải sáng suốt mà tu hành. Đó mới chính là cứu mình,
còn liều chết bậy bạ chẳng những không cứu mình mà còn liên lụy đến
những người thân khác nữa ! …
Cũng như ở Bình Dương, có một cô bé đi học, thi Cử nhân.
Khi thi chỉ thiếu một điểm nữa là đậu, mà bị đánh rớt ! Rớt rồi Cô tức
quá nên tự tử ... Ít hôm sau khi cô tự tử, cô về báo mộng cho mấy
người chị của cô thấy, nói rằng :“Bây giờ em khổ lắm, em sống lang
thang đói lạnh, không biết đi đâu về đâu, xin mấy chị làm ơn giúp em
!”. Mấy người chị không biết làm sao ! Nhân có đi xuống dưới Thường
Chiếu nghe kinh, rồi mới đưa tên của cô vô trong đó nhờ quý Thầy, quý
Cô cầu nguyện dùm. Được ít hôm, cô lại về báo mộng cho mấy người chị
thấy, cô nói rằng : “Bây giờ em khỏe rồi, mấy chị đừng có lo cho em
nữa, em bây giờ vào trong chùa làm thuốc phụ với người ta, em khỏe lắm
!” ( Bên Linh Chiếu có Tuệ Tĩnh Đường làm thuốc nên cô vào trong đó
phụ làm ! )
Như vậy, chết không phải là hết mà đó là cái khổ dây dưa
không cùng, nên người biết đạo, biết tu rồi, nhất là trong giới ni
chúng trẻ, dù có gặp chuyện gì buồn phiền mấy cũng nên bỏ qua đi, phải
cố gắng mà tu hành ! Chúng ta nên nhớ tự tử chết là mối nguy hiểm
nhất, vì như thế chẳng những không giải thoát cho chính mình mà còn
luân hồi triền miên, khổ sở vô cùng. Khổ cho bản thân mình và khổ lây
cho nhiều người khác nữa ! ...
Chúng ta tu không chỉ tụng kinh, niệm Phật, tọa thiền là
đủ, mà phải sống đúng với tâm của người hiểu đạo. Mọi việc hơn thua,
phải quấy của các huynh đệ trong chùa đều là chuyện nhỏ, không có gì
quan trọng hết. Việc lớn của chúng ta là làm sao thoát ly sanh tử, đó
mới là cao siêu, là mục đích chúng ta nhắm đến. Muốn thoát ly sanh tử
trước hết sống với huynh đệ, chúng ta phải hòa nhã, thuận thảo, vui
tươi. Nhờ sự hòa vui đó lòng ta yên ổn, việc tu hành được nhẹ nhàng.
Nếu tới giờ niệm Phật, ngồi thiền mà cứ nhớ việc cãi vã
hồi chiều, nhớ câu người ta chửi mình hoài, thì niệm Phật ngồi thiền
có yên không ? Dĩ nhiên là không. Nhớ lời qua tiếng lại hoài, rốt cuộc
mình chịu thiệt thòi. Nên người biết tu phải sống đúng tinh thần Lục
hòa. Dù chưa giải thoát nhưng giữ được Lục hòa thì trên đường tu chúng
ta sẽ an ổn. Niệm Phật thì được nhất tâm, tọa thiền thì dễ định. Đó là
thành công rồi. Nếu không như vậy, chúng ta sẽ bị nhiều khổ lụy, tu mà
không giải thoát, ngược lại còn trầm luân ! …
Vì
vậy tôi thấy vấn đề Lục hòa rất thiết yếu, rất quan trọng đối với cuộc
sống tu hành của chúng ta. Hôm nay đủ duyên gặp quý thầy, quý cô tiếp
đón và xin nghe pháp, chúng tôi đem hết tâm tư của mình, khuyến nhủ
Tăng, Ni sống đúng theo tinh thần Lục hòa của Phật dạy, để đời tu của
chúng ta xứng đáng.
Thật ra ai rồi cũng đến ngày già, già rồi cũng đến ngày
chết, có ai sống đời đâu ? Dù chùa to, Phật lớn, đệ tử bao nhiêu cũng
là trò chơi thôi, cái quan trọng là tâm mình an ổn thanh tịnh, không
còn vướng bận những trói buộc của thế tục nữa. Đó là nhân giải thoát.
Chúng ta đã gieo nhân giải thoát, thì phải ráng nuôi trồng nó cho tới
ngày đạt được quả giải thoát, đừng nản chí bỏ nửa chừng. Đó là lời tha
thiết chân thành của chúng tôi, mong tất cả Tăng, Ni cố gắng thực hiện
tu hành cho tới ngày viên mãn.
( Giảng ở Chùa Sư Nữ Tịnh Nghiêm – Quảng Ngãi
– Tháng 6 năm 2002 )
*************************************************
Kinh và Thiền hai bên nó khế hợp nhau mà lâu nay chúng ta nghe trong
nhà thiền gọi là giáo ngoại biệt truyền, chúng ta ngỡ rằng thiền thì
không dính dáng gì tới Kinh ! Nhưng thật sự thì Phật dạy từ phương
pháp tu cho tới giáo lý đều là một chứ không có hai. Lời Phật nói là
giáo, Phật dạy tu thiền tức là tâm. Tâm Phật và miệng Phật không hai
cho nên chúng ta tu theo Phật không thế nào mà khác hơn được.
Nhưng mà trong Kinh Kim Cang chúng ta đọc thấy rõ ràng là một bộ
Kinh chỉ thẳng vào con đường tu thiền, cho nên Ngũ tổ Hoằng Nhẫn
ngài dạy người tu sĩ có ngộ đạo thì tụng Kinh Kim Cang. Đời của Ngài
chú trọng người Phật tử nên trì tụng Kinh Kim Cang. Bởi vậy cho nên
Lục tổ Huệ Năng gánh củi xuống nhà của người mua nghe nhà bên cạnh
có một ông tu sĩ tụng Kinh Kim Cang, hỏi ra mới biết Kinh đó do Ngũ
tổ dạy tụng. Như vậy chúng ta mới thấy rằng đâu phải nói tu thiền
thì không tụng Kinh ? Nghĩa là Ngài dạy phải tụng Kinh Kim Cang. Còn
bây giờ chúng tôi khuyên quý vị tụng Kinh gì ? Tụng Bát Nhã. Bởi vì
Kinh Kim Cang và Bát Nhã khác nhau chỗ nào mà lối dạy có khác như
vậy ? Kinh Kim Cang thì nhiều quá, mà Phật tử bây giờ ít thì giờ,
tụng hết một bộ thì không có đủ, mà chẳng lẽ tụng từng phần từng
phần thì không kết thúc, chỉ có Bát Nhã là tóm gọn, Bát Nhã cũng là
cốt tủy của Kim Cang. Cho nên chúng ta tụng Kim Cang là khi nào thì
giờ rộng, còn nếu thì giờ hẹp chúng ta tụng Bát Nhã cho gọn dễ thuộc,
còn Kim Cang thuộc lòng có dễ không ? Chắc khó lắm ! Bởi vậy nên bây
giờ rút gọn là tụng Bát Nhã !
Nhưng mà Kim Cang thì có nhiều người họ chấp, nhứt là đi về miền tây
bị các vị họ chỉ trích, tôi hồi xưa tôi nghe họ chỉ trích nhiều lắm.
Họ dẫn câu là :
"Nhược dĩ sắc kiến ngã; Dĩ âm thanh cầu ngã; Thị nhơn hành tà đạo;
Bất năng kiến Như-Lai".
"Lấy sắc tướng mà cầu Ta; Lấy âm thanh mà cầu Ta; Đó là hành đạo tà;
Không thể thấy được Phật !".
Mấy ông đó nói rằng : tu theo đạo Phật rồi mình làm cái tượng Phật
cho to để thờ, thì cái đó là gì? Sắc tướng ! Rồi mỗi tối gõ mõ tụng
kinh đánh chuông, đó là gì ? Âm thanh ! Dùng sắc tướng, âm thanh đó
để cầu Phật thì họ nói hành đạo đó là đạo tà, không thể thấy Phật ! Rồi như vậy họ kết thúc là ở chùa tà hết trơn. Tu mà không có
đúng chánh pháp, tu theo đạo tà, rồi nói làm sao đây ? Có Kinh đàng
hoàng, có Kinh để chỉ trích chúng ta ! Bởi vậy, nên nếu người học
Phật mà không có nắm vững thì nghe chỉ trích đó mình sẽ bối rối
không biết phải trả lời thế nào ? Vì rõ ràng nhìn trong chùa thì
thấy Phật thờ nhiều lắm, không phải một ông mà rất nhiều ông, đó là
sắc tướng. Rồi âm thanh tối nào cũng nghe đánh chuông, đánh mõ rùm.
Đó là sắc tướng và âm thanh ! ...
Cái câu đó quý vị phải nên hiểu cho kỹ : Đức Phật chỉ Phật là Phật
Pháp thân, mà Pháp thân thì không tướng, mà mình dùng tướng để thấy
thì làm sao thấy pháp thân ? Pháp thân là không có âm thanh mà mình
dùng âm thanh để cầu thì làm sao cầu được ? Như vậy thì sắc
tướng âm thanh không thể cầu Phật pháp thân, mà chỉ khi nào lặng hết
vọng tưởng, tâm thanh tịnh thì chừng đó mới thấy được Phật pháp thân
!
Như vậy thì nói để răng để nhắc chúng ta đừng dính mắc với sáu trần
ở bên ngoài, không dính mắc với sáu trần thì chúng ta nhận ra được
Phật thiệt của chính mình là Phật pháp thân ! Người ngoài họ nghe họ
không hiểu rồi họ cứ lấy cái đó họ phê phán, rồi mình không hiểu
theo, nghe họ phê phán mình hoảng, rối rắm không biết bây giời phải
tu làm sao đây, tu mà hổng cho thờ Phật, hổng cho tụng Kinh thì tu
thế nào ? Như vậy thì chúng ta thờ Phật, chúng ta tụng Kinh phải
đúng với ý nghĩa thờ, đúng với ý nghĩa cúng thì không có bị kẹt !
...
Thường thường thờ Phật để làm gì ? Đó là một câu hỏi mà tất cả người
tu chúng ta cần phải nhớ. Thờ Phật để làm gì ? Thờ Phật để Phật
chứng minh cho mình mỗi đêm mình lạy cho có phước phải không ?
- "Không"
mà đêm nào cũng ở trước Phật lạy hoài mà sao nói không được ?
Bởi vì trong nhà Phật nói rằng chúng ta thờ Phật là để nhớ lại tất
cả các công đức của Phật, ôn lại, nhìn tượng Phật để nhớ cái đức
tướng từ bi trí tuệ của Ngài, để rồi mình nương theo, học theo chứ
hổng phải mình thờ Ngài để lạy cho có phước. Lạy hoài mà không có
làm theo thì có phước không ?
Như vậy chúng ta thờ Phật là để nhớ, bắt chước học theo cái gương
hạnh của Ngài mà gọi là trí tuệ và từ bi viên mãn. Vì vậy mà lạy
Phật để nhớ công đức của Phật ! Nên trong nhà Thiền cũng có cái lối
dạy quán công đức Phật đó, quán Đức Phật có đức tướng gì để mà mình
học, mình bắt chước theo, chứ không phải thờ để lạy được phước.
Nhưng mà bây giờ người ta thì sao, để lạy được phước ! Phật tử tới
chùa muốn cúng chùa thì mấy Thầy mấy Cô biểu lạy Phật đi cho có
phước, phải không ? Cứ như vậy mà không biết ý nghĩa của việc thờ Phật,
lễ Phật ! ...
Như vậy thờ Phật là để nương theo cái đức tướng của Ngài mà mình tập
tu đúng với cái công hạnh của Ngài. Đức tướng của Ngài là thấy Phật
từ bi, Phật trí tuệ rồi chúng ta tập tu từ bi trí tuệ theo Ngài. Đó
gọi là thờ Phật để mà tu theo Phật !
Rồi bây giờ nói tới tụng Kinh. Tụng Kinh để làm chi ? Tụng Kinh để
cho có phước cầu an cầu siêu cho bà con, phải không ? Mà bây giờ cái
đó cũng hơi nhiều ! Tụng để có phước cầu an cầu siêu cho người ta
chứ hổng phải tu. Thật ra, tụng Kinh Phật nó có hai cái thiết yếu :
+ Cái thiết yếu thứ nhất : lặp lại lời của Phật dạy, để cho nó huân
tập, un đúc trong tâm mình càng nhớ sâu. Những lời Phật dạy mình đọc
qua một lần mình hay quên, cho nên mỗi đêm đọc tới đọc lui cho mình
thấm nhuần, nhớ lời Phật dạy để tu. Đó là cái gốc của việc tụng Kinh.
+ Cái thiết yếu thứ hai : đọc lời Phật dạy chỉ chú ý nghe không có
nghĩ gì khác thì tâm mình lúc đó nó thanh tịnh. Cho nên lối tụng
Kinh ta nói có ba nghiệp được thanh tịnh : một là đứng nghiêm trang
hoặc là quỳ gối nghiêm trang trước bàn Phật, đó là thân nghiệp thanh
tịnh. Miệng đọc lời Phật, đó là khẩu nghiệp thanh tịnh. Ý duyên theo
lời Kinh không nghĩ cái gì khác, gọi là ý nghiệp thanh tịnh. Như vậy
thì tụng Kinh cốt để giữ cho ba nghiệp được thanh tịnh. Tụng một giờ
thì ba nghiệp được một giờ thanh tịnh, tụng hai giờ thì ba nghiệp
được hai giờ thanh tịnh. Bởi vì thân nghiêm trang, miệng nói lên lời
của Phật dạy, ý duyên theo lời Kinh không có nghĩ khác cho nên ba
nghiệp thanh tịnh, mà ba nghiệp thanh tịnh tức là tu, phải không ?
Tụng Kinh để tu ba nghiệp thanh tịnh chứ hổng phải tụng Kinh để cầu
phước ban cho người ta. Nhưng mà bây giờ Phật tử mình thì muốn chia,
mình tu hổng biết thanh tịnh được bao nhiêu chưa biết mà tụng cầu
cho người này siêu, cầu cho người kia hết tội, hết lỗi đủ thứ hết.
Tại vì người tu từ bi quá, biểu chia thì tôi chia cho, được hay
không được là chuyện sau, nhưng mà giờ đó tu tâm mình được yên lặng
hay ba nghiệp mình được thanh tịnh thì mình phải sẵn lòng chia sớt
cho họ, nhưng cái đó chỉ là phần phụ, còn phần chính là tụng Kinh để
ba nghiệp thanh tịnh !
Như vậy, hiểu được cái nghĩa đó thì một là tụng Kinh mà hiểu nghĩa,
để cho in sâu lời Phật dạy, đi đứng nằm ngồi đều nhớ rõ Phật dạy cái
gì cái gì không nghi ngờ để mà tu. Cái thứ hai khi tụng Kinh thì cái
giờ tụng Kinh nghiêm trang tề chỉnh là để giữ cho ba nghiệp được
thanh tịnh, một giờ ba nghiệp thanh tịnh là một giờ tu rất là đắc
lực, vậy thôi. Còn cái chuyện gì xa nữa đó là ở ngoài. Nhưng mà bây
giờ tôi thấy làm cho có hình thức vậy thôi. Nói tới cầu siêu thì
nặng về người chết, phải không ? Lên tụng thì hướng về người chết nói
đủ thứ hết, chứ còn thật tình là để ba nghiệp được thanh tịnh. Đó là
cái chỗ căn bản để chúng ta không lầm ! ...
Như vậy thờ Phật để chúng ta học theo cái gương, đức hạnh của Phật
để ứng dụng tu. Nhìn thấy Ngài, để nhớ mà ứng dụng tu hằng ngày. Còn
tụng Kinh để thuộc, để nhớ lời Ngài dạy ứng dụng tu. Đó là cái gốc.
Còn ba nghiệp thanh tịnh là cái phần tu riêng của chính mình. Như
vậy thì đó là cái ý nghĩa của việc thờ Phật và tụng Kinh !
( Trích
trong “Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật” - TV. Trúc Lâm Đà Lạt - ngày 25/02/2002 )
Bồ Tát đã tu chứng từ tứ-địa tới ngũ-địa thì có được 32 ứng thân.
Khi đã có 32 ứng thân cho nên vì lòng từ bi mà chúng sinh nào có cái
duyên cảm thông được cái lòng từ bi của Ngài thì Ngài liền hiện thân
để mà độ thoát. Như vậy cái thân của Ngài hiện đó là ứng thân, mà
ứng thân do lòng từ bi mà thị hiện. Như vậy thì Bồ Tát Quán Thế Âm
là cái hạnh đại bi, do tu cái hạnh đại bi nên tùy chúng sinh có cái
khổ đau nào mà tưởng niệm đến Ngài, tức là cảm thông được tới Ngài
thì Ngài tùy hiện thân mà giáo hóa để cho người ta thoát khỏi cái
khổ sở, cho nên nói là Ngài bố thí vô úy.
Như vậy thì chúng ta mới thấy cái công hạnh của Bồ Tát Quán Thế Âm
là hạnh từ bi mà đã là hạnh từ bi cho nên mọi khổ não của chúng sinh
nếu có cái duyên cảm ứng được với Ngài thì Ngài liền ứng thân để
giáo hóa, để mà thức tỉnh. Cái điều này chúng ta thực ra cũng không
có thể nói một chiều hoặc là Sự không, hoặc là Lý không được mà phải
nói tới cả hai chiều. Thì cái điều này tôi sẽ kể lại cho quý vị nghe
một câu chuyện cho quý vị thấy :
Hồi xưa khi còn đi giảng, kỳ đó tôi lên Lộc Ninh, thì có ông đó ổng
tên Truyền, hồi đó ổng làm Phó Quận Trưởng ở Lộc Ninh, ổng đứng ra
tổ chức cuộc giảng và mời tôi và Thầy Huyền Vi lên đó giảng.
Lần đầu tiên chúng tôi lên, khi gặp tôi ông đó mới đặt câu hỏi :"Thưa
quý Thầy ! Không biết Bồ Tát Quán Thế Âm có hiện đến khi nào mình
cầu nguyện Ngài, thì Ngài có hiện đến với mình hay không ?".
Cái điều đó khi tôi nghe hỏi thì tôi có hơi nghi trong lòng, nhưng
tôi không trả lời liền, mà tôi hỏi lại :"Theo đạo hữu thì đạo hữu
thấy sao ?". Ổng mới nói rằng :"Với tôi thì điều đó tôi tin chắc
chắn có !". Tôi mới hỏi tại sao, thì ổng kể lại câu chuyện như sau :
Ổng có một đứa con mới có 13, 14 tuổi còn đang đi học, nó bị bịnh
nặng, chở xuống Bệnh Viện Đồn Đất Sài Gòn để chữa trị. Khi đó nó nằm
nửa tháng bịnh không giảm, mà Bác Sĩ chạy, bây giờ phải đem về chứ
để đây thì chết ở trong bệnh viện, không cứu chữa được ! Lúc đó ổng
túng quá đành phải đem về nhà coi như là chờ chết thôi chứ không còn
cách gì để cứu chữa được. Vì Bác Sĩ ở Bệnh Viện Đồn Đất mà chạy rồi
thì còn gì mà cứu nữa ? Khi đưa đứa nhỏ về đó rồi thì ổng nói ngày
nào ổng cũng thành tâm khấn nguyện, ổng cũng chưa quy y, chưa gì hết
trơn. Ổng nói ổng chỉ biết cầu nguyện vậy thôi chứ hổng biết làm sao
! ...
Bỗng một đêm đó, ổng ngủ ổng thấy Đức Quán Thế Âm Bồ Tát hiện tới
đứng trên hoa sen rõ ràng trước mặt ổng, rồi nói :"Con của nhà ngươi
đau, muốn trị cho lành thì sai người đi lên hướng Bắc tìm một ông
Thầy Thuốc rước về thì sẽ trị lành !". Khi giật mình thức dậy thì
ổng nói ổng nhớ rõ ràng hình dáng của Bồ Tát Quán Thế Âm ra sao, ổng
thấy rõ lắm ! Thì sáng lại ổng mới sai người trong gia đình ổng đi
lên hướng Bắc hỏi thăm ông Thầy Thuốc thì gặp được ông Thầy Thuốc
Bắc, rồi mới rước về trị bịnh, cho uống có 3 thang thuốc thì thằng
nhỏ mạnh liền ! Thì từ đó ổng mới lập bàn thờ để thờ một Tượng Bồ
Tát Quán Thế Âm thôi ! Rồi từ đó ổng mới phát lòng tin Phật & Bồ Tát
và ổng rước chúng tôi lên giảng ! ...
Như vậy thì mình nói sao ? Có hay không ? Đứng về mặt Sự thì có
những cái cảm ứng mà cảm ứng đó là tùy cái duyên chứ không phải ai
cũng cảm được hết ! Cũng như trong Kinh thường nói : mặt trăng ở
trên hư không thì chỗ nào có nước là có bóng mặt trăng hiện, phải không ? Nhưng mà chỗ nào nước trong thì mới hiện rõ, chỗ nào nước đục
nó hiện được không ? Thì thấy cái bóng mờ mờ thôi, phải không ? Thì
cũng vậy, nghĩa là nếu mình có sự cảm ứng, cái phước lành của mình
nó có thì có sự cảm ứng rõ ràng. Còn cái phước lành của mình không
có thì cái cảm ứng nó không có. Như nước đục hoặc là chỗ cái ao khô
thì bóng mặt trăng đâu có hiện được, phải không ? Chỉ có ao nước trong
thì bóng mặt trăng mới hiện, chứ không phải Bồ Tát đến với mình hay
là không đến với kẻ khác mà chỉ là do cái tâm mình thành kính, cái
phước lành mình nó còn, đứa nhỏ đó cái nghiệp nó chưa hết cho nên
rồi khiến thấy được cái duyên như vậy để mà cứu đứa nhỏ.
Bởi vậy nên đi qua nhiều nơi rồi có những cái điều mình mới thấy
rằng mình không thể nói một chiều được. Bởi vậy cho nên ở đây mình
phải hiểu Quán Thế Âm Bồ Tát có hai mặt : Sự và Lý. Mà Sự và Lý viên
dung thì nó không có bị chướng, không bị trái, nếu chỉ nghiêng về Lý
không thì cũng không được, mà nghiêng về Sự không thì cũng bị kẹt.
Cho nên chúng ta không nên chấp một bên mà bị mắc kẹt. Vì vậy mà ở
đây nói ứng thân Bồ Tát có mà có với ai tùy cái nguyện của họ mà nó
cảm thông được với Ngài thì liền có thấy Ngài hiện, còn nếu không
cảm thông được thì không thấy. Đó là cái ý nghĩa mà tôi muốn nói cho
quý vị nghe hôm nay !
(
Trích Trong
“Kinh
Pháp Hoa - Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn”
)
Tôi thường than : nếu mà Đạo Phật chỉ lấy cái cúng kính làm Phật sự
thì chắc suốt kiếp không bao giờ chúng ta giác ngộ được ! Mà nếu
người tu không ai giác ngộ hết thì Đạo Phật còn hay mất ? Nếu nặng
về cúng kính thì là nặng về lòng tin. Bây giờ tôi đặt câu hỏi quý
Phật tử hãy trả lời dùm tôi : Tu tương đối như tôi cũng được nhiều
năm, mà giả sử người thân của tôi bệnh, tôi cầu cho họ hết bệnh được
không ? Người thân tôi tạo tội, họ chết, tôi có cầu về Cực-Lạc được
không ? Nếu người thân của tôi bệnh tôi cầu không hết mà mấy Phật tử
bệnh tôi cầu hết không ? Vậy mà mấy Phật tử yêu cầu tôi cầu nguyện
dùm ! Nếu không hứa thì Phật tử nói là Thầy không thương, mà nếu hứa
thì cái việc làm của tôi là sao ?
Tôi rất là đau ! Đời tu là một đời cao cả, siêu thoát, mà nhiều khi
mình làm những chuyện không đâu ! Nếu cầu cúng mà được thì chắc Đức
Phật Thích Ca đã từng làm. Mà đọc sử của Ngài suốt đời từ lúc thành
đạo cho tới nhập Niết-Bàn, tôi chưa thấy Ngài đi cầu cúng lần nào
hết. Mà có một lần, những người Bà-La-Môn tới gặp Ngài, hỏi Ngài một
câu :"Ngài Cù Đàm ! Đệ tử Ngài chết, Ngài có cầu nguyện sanh về cõi
lành được không ?". Phật không trả lời, Phật hỏi ngược lại họ :"Đệ
tử của các ông chết, các ông có cầu về cõi lành được không ?". Mấy
ổng nói :"Được". Phật liền dùng cái thí dụ. Phật nói :"Ví như có một
cái giếng sâu, người ta lăn một cục đá để bên miệng giếng. Khi đó
mời hai, ba chục thầy Bà-La-Môn đến chung quanh, yêu cầu quý thầy
chấp tay thành tâm cầu nguyện viên đá này tôi xô xuống giếng nó nổi
đừng chìm, quý thầy cầu được không ?". Các ông đó lắc đầu, cầu không
được ! Hỏi tại sao cầu không được, mấy ổng trả lời :"Vì đá nó nặng,
nước nó nhẹ, nhất định phải chìm tận đáy giếng !". Rồi Phật mới đưa
thí dụ khác :"Ví dụ như có người đem một chai dầu tới, cũng mời hai,
ba chục thầy Bà-La-Môn đến chấp tay cầu nguyện, khi tôi đổ dầu xuống
giếng, các ngài cầu nguyện cho nó chìm tận đáy giếng, các ngài cầu
được không ?". Mấy ổng nói :"Không được !". Phật hỏi :"Tại Sao vậy
?". Mấy ổng bảo :"Vì dầu nó nhẹ, vì nhẹ cho nên nó phải nổi, chứ cầu
cách mấy nó cũng nổi !". Phật mới nói :"Cũng như vậy ! Người nghiệp
nặng giống như đá, đá thì phải chìm, dù cho các ông có thiện chí cầu
nguyện nó cũng không nổi ! Còn người có cái phước lành, giống như
dầu, nó nhẹ, dù các ông có ác ý cầu nguyện nó chìm, nó cũng không
chìm được !". Thì như vậy, Phật chấp nhận cầu nguyện hay không chấp
nhận ? Đó là trong Kinh Trung A-Hàm đã nói rất rõ ! ...
Rồi thực tế, đời Ngài từ lúc thành đạo cho tới ngày nhập Niết-Bàn,
trong số Phật tử cư-sĩ của Ngài, người mà có công lớn nhất là ông
Cấp-Cô-Độc. Mà khi ông Cấp-Cô-Độc bệnh nặng, cho người tới báo tin
với Phật, thì Phật cho Ngài Xá-Lợi-Phất tới thăm, rồi nhắc nhở ít
câu Kinh rồi về. Sau thì cho Ngài A-Nan tới thăm, rồi cũng nhắc nhở
ít câu Kinh rồi về. Chết không ai đi đưa hết trơn, cũng không có cầu
nguyện gì hết ! Như vậy cho nên Chư Tăng mới có thì giờ vô rừng tọa
thiền, mới có thì giờ mà chiêm nghiệm sự tu hành ! ... Còn bây giờ,
đi tu rồi cứ nay thì đi cầu an, mai thì cầu siêu, cầu hoài, mà đi
cầu hoài thì tâm đâu còn yên tịnh ? Như vậy một đời tu làm cái việc
thiệt là hổng biết nói sao ? ...
Tôi nói bây giờ giả sử có một người làm ác rồi chết, con cái khá giả
mời quý Thầy quý Cô tới tụng Kinh cầu nguyện, nhưng mà quý Thầy quý
Cô tới, họ nói tôi cúng cho quý Thầy quý Cô mười triệu, nhưng mà quý
Thầy quý Cô phải cam đoan với tôi rằng cầu nguyện Ba của tôi phải về
Cực-Lạc, nếu không về thì quý Thầy quý Cô đọa địa ngục, thì quý Thầy
quý Cô dám nhận mười triệu để cầu không ? Như vậy, mình không bảo
đảm được cái việc làm của mình. Nếu nó là lẽ thật thì ai không dám
bảo đảm ? Không dám bảo đảm là không phải lẽ thật ! Thì như vậy,
không phải lẽ thật mà mình đi làm suốt ngày, suốt đời thì có đáng
thương không ? Đó là một điều rất là đáng thương, mà bây giờ nói thì
đụng chạm, không tốt. Đó là cái điều tôi nói là vết thương tôi mang
ở trong lòng, tôi thật sự rất buồn !
Bây giờ, riêng bản thân tôi, tôi khuyên dạy quý Phật tử : Biết tu
thì phải tránh cái nhân ác, làm những cái nhân lành, tránh thân khẩu
ý đừng tạo ác, mà luôn luôn tạo nghiệp lành, đó là quý Phật tử sẽ
tới an vui ! Tôi dạy như vậy, quý Phật tử làm đúng như vậy, nếu
không có kết quả được an vui đời này và đời sau, chết tôi đọa địa
ngục tôi chịu, tôi cam kết như vậy ! Bởi vì cái gì là lẽ thực mình
mới dám cam kết, mà không có lẽ thực thì mình đâu dám cam kết. Mà
rồi trong nhà tu của chúng tôi bị cái không thực nó chi phối hết thì
giờ, cái đó thật là đáng thương !
Bởi vậy nên rồi tôi rất là vô tình, nhiều khi Phật tử khỏe mạnh tới
chùa cúng kính, tới chừng bệnh kêu tôi cầu, tôi làm thinh, hoặc giả
chết, mời tôi tới mà tôi không tới, thì có những Phật tử than trách
là Thầy không thương ! Tôi nói tôi chỉ sẵn sàng dạy nói những gì tốt,
đẹp, hay của Phật pháp cho quý vị nghe trong khi sống, ráng tu để
chuyển nghiệp của mình, chứ còn chết rồi tôi không có làm gì được
hết. Đó là lẽ thực, nhưng mà lẽ thực thì lúc nào nó cũng buồn,
không có được vui, phải không ? Chứ còn nghe gia đình Phật tử có
bệnh hoạn, hoặc là có đám ma chay gì đó thì có quý Thầy tới thì thấy
vui, nhưng vui mà nó không có kết quả, thì đó là một điều thiệt hại
lớn cho người tu. Tôi thì quý trọng người tu nên tôi phải nói thẳng
như vậy. Nên nhớ : Lời ngay thì dễ mích lòng, phải không, nhưng mà
phải nói !
(
Trích Trong Tham Vấn Hòa Thượng Thích Thanh Từ
)
Hôm nay đủ duyên ban Hoằng pháp mời chúng tôi về đây
giảng pháp cho Tăng Ni, Phật tử nghe. Nhận thấy người Phật tử cần có
niềm tin chân chánh đối với giáo pháp, đồng thời để cho giới Tăng Ni
hiểu rõ những pháp môn Phật dạy nên tôi sẽ nói về Phương pháp tu Tịnh
độ tông và Thiền tông.
Trong nhà Phật không có pháp nào chống đối với pháp nào,
chỉ phương pháp thực hành khác nhau thôi. Hôm nay chúng ta sẽ đối
chiếu giữa hai pháp môn Tịnh độ và Thiền tông, để nhận rõ những điểm
dị đồng của hai pháp môn này.
Phật tử Việt-Nam tu theo Phật từ thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ
thứ 19, đa số nặng về tu Thiền. Nhưng đến thế kỷ thứ 19, 20 lại nghiên
về Tịnh. Như vậy hai pháp này có gì giống nhau, có gì khác nhau ?
Chúng ta phân tích cho rõ, để không nghĩ tu Thiền đúng hay tu Tịnh độ
đúng. Nếu hiểu lầm chúng ta dễ phỉ báng nhau, chống đối nhau. Đó là
điều không tốt trong đạo.
Trước hết tôi nói về phương pháp tu Tịnh độ, cốt lõi nằm
ở chỗ nào ? Chúng ta ai cũng biết rõ phương pháp tu Tịnh độ là niệm
danh hiệu đức Phật A-Di-Đà. Niệm cho đến bao giờ nhất tâm bất loạn thì
khi lâm chung Phật sẽ đón về Cực-Lạc, hoặc thấy Phật hiện ở trước mắt.
Phương pháp này rất dễ tu, chỉ dùng câu niệm Phật chí thành sẽ được
kết quả. Vì vậy Phật dạy người tu pháp môn Tịnh độ phải đủ ba điều
kiện : một là Tín, hai là Hạnh, ba là Nguyện.
Tín nghĩa là tin chắc rằng có cõi Cực-Lạc cách thế gian
mười muôn ức thế giới. Cõi này hiện có đức Phật A-Di-Đà đang thuyết
pháp. Nếu người thành tâm niệm tới chỗ nhất tâm bất loạn thì Phật
A-Di-Đà sẽ đón về cõi Cực-Lạc. Tin khẳng định như vậy niệm Phật mới có
kết quả. Câu Nam mô A-Di-Đà Phật hết sức là giản đơn, vậy mà sau này
có nhiều người chế biến đơn giản hơn nữa. Chỉ niệm A-Di-Đà Phật là đủ.
Đó là một sai lầm.
Tôi xin nêu ví dụ thế này, nếu tên cha của chúng ta là
Nguyễn Văn A, có người nào đó kêu Nguyễn Văn A, Nguyễn Văn A hoài,
mình giận không ? Kêu tên cha mình sao không giận được ? Bây giờ Đức
Phật hiệu A-Di-Đà, đó là tên của Ngài. Chúng ta cứ niệm A-Di-Đà Phật
hoài tức là kêu tên của Ngài, như vậy có tội không ? Đó là một nghi
vấn mà đa số Phật tử khi bị hỏi đều lúng túng. Ở đây tôi sẽ giải thích
cho quí vị hiểu rõ.
Tên Phật là A-Di-Đà Phật, tiếng Phạn là Amita Buddha.
Chữ Nam mô tiếng Phạn là Namo cũng đọc là Nẳng mồ, dịch nghĩa là cung
kính hướng về. Namo Amita Buddha, nghĩa là thành tâm hướng về đức Phật
A-Di-Đà. Nếu ta niệm Nam mô A-Di-Đà Phật là cung kính hướng về đức
Phật A-Di-Đà, như vậy có tội không ? Như nói cung kính hướng về ông
Nguyễn Văn A, thì người đó có giận ta không ? Không. Đằng này Phật tử
bỏ hai chữ cung kính, chỉ niệm A-Di-Đà Phật, khác nào kêu tên Phật.
Như thế vô tình làm giảm lòng cung kính của mình đối với đức Phật. Cho
nên Phật tử đừng đơn giản hóa như vậy.
Xưa nay chúng ta quen nghe từ Lục tự Di-Đà, nghĩa là sáu
chữ Nam mô A Di Đà Phật. Nam mô là hai, A Di là bốn, Đà Phật là sáu.
Hai chữ đầu là cung kính, bốn chữ sau là tên. Lúc nào chúng ta cũng
thành tâm cung kính niệm Phật, nhờ vậy mới đi tới nhất tâm bất loạn.
Nếu niệm chỉ để niệm thì việc niệm Phật không có ý nghĩa gì
cả.
Thứ hai là Hạnh. Biết có cõi Cực-Lạc, đức Phật A-Di-Đà
đang giáo hóa ở đó, giờ đây chúng ta phải tha thiết thành tâm niệm
danh hiệu Ngài để được nhất tâm bất loạn. Nhờ tâm tha thiết đó, niệm
lâu sẽ được kết quả nhất tâm bất loạn. Trong Kinh A-Di-Đà có câu
:“Hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày cho đến bảy ngày niệm
danh hiệu Phật A-Di-Đà được nhất tâm bất loạn, khi lâm chung sẽ thấy
đức Phật A-Di-Đà và Thánh chúng hiện ở trước”. Niệm Phật muốn cho kết
quả tốt đẹp phải tha thiết, đi đứng nằm ngồi đều niệm Phật để cho tâm
mình đừng nghĩ tưởng loạn động nữa. Như vậy mới đi tới chỗ nhất tâm
bất loạn. Đó là phần Hạnh.
Thứ ba là Nguyện. Người tu niệm Phật lúc nào cũng nguyện
được vãng sanh về cõi Cực-Lạc, làm dân ở cõi Phật. Nguyện đó cần phải
tha thiết thì công phu mới có kết quả như sở nguyện. Ba phần Tín,
Hạnh, Nguyện là căn bản, cốt lõi trong sự tu của pháp môn Tịnh độ. Nếu
thiếu một trong ba phần này, tu sẽ không kết quả.
Gần đây các vị Tôn túc lại nói đơn giản hơn một chút :
ai niệm Phật mười câu, khi nhắm mắt cũng được Phật đón về Cực-Lạc. Gọi
đó là đới nghiệp vãng sanh, tức mang nghiệp về Cực-Lạc tu tiếp. Đơn
giản hóa khiến cho Phật tử sanh tâm lười biếng, tu sơ sơ thôi. Chừng
nào gần chết niệm mười câu thì Phật đón về bên ấy. Nói thế là vô tình
làm cho Phật tử sanh tâm khinh lờn, lười biếng ...
Kinh A-Di-Đà không có nói như vậy. Phật dạy chúng ta
niệm Phật cho tới nhất tâm bất loạn, chừng đó Phật mới đón. Chúng ta
tu đúng, kết quả mới đúng; tu không đúng, kết quả sẽ không đúng. Quí
vị thử nghĩ : nếu mình còn nóng giận, mình tham lam, còn nhiều tật
xấu, mà khi gần chết chỉ cần niệm mười câu danh hiệu Phật là được đón
về Cực-Lạc; tức là đem nghiệp về bển hẳn tu từ từ, phải hôn ? Nghĩ như
vậy thì khỏe quá rồi ! … Cho nên có nhiều người phản bác, họ nói rằng
:“Cõi Cực-Lạc là cõi nước Tịnh-độ (tịnh là trong sạch, độ là cõi
nước), cõi nước hoàn toàn trong sạch thì đâu có chứa những chúng sanh
còn đầy dẫy tham, sân, si !”. Còn nghiệp xấu làm sao mang về bên đó
được, ai dung mình ? Cho nên tôi hay nói đùa, quí Phật tử còn sân
nhiều mà về Cực-Lạc, lỡ nổi sân cãi nhau, chừng đó Phật mất công đưa
về bên này một lần nữa. Vì làm ô uế cõi thanh tịnh thì phải đưa trở
lại chớ sao ! Muốn sanh về cõi tịnh thì nghiệp cũng phải thanh tịnh.
Nghiệp còn xấu xa nhơ nhớp mà đòi về cõi tịnh thì điều đó quá đáng,
chắc khó mà được ! …
Như vậy nhắc lại một lần nữa, cõi Cực-Lạc là chỗ chúng
ta nguyện về, đó là mục tiêu quy hướng của mình trong lúc tu nên nói
là Nguyện, còn cái Hạnh của mình là đi đứng nằm ngồi đều niệm Phật để
cho cái tâm mình nó không còn nghĩ tưởng sai lầm nữa, như vậy thì mới
đi tới chỗ nhứt tâm bất loạn, mà nhứt tâm bất loạn thì kết quả chúng
ta sẽ thấy Phật hiện tiền ở trước mắt. Điều đó là một lẽ thực !
Ở
đây, tôi kể cho quí vị nghe : Thầy của chúng tôi là Hòa thượng Thiện
Hoa, Ngài có một bà mẫu, lúc Ngài đi tu mới 7 tuổi, bà mẫu bà rất mộ
Phật nên con trai út mới có 7 tuổi xin tu thì bà cho tu, chính bà
đưa Hòa thượng đi vào chùa để tu. Sau khi con tu rồi thì bà cũng tập
tu theo, mỗi tháng bà ăn 10 ngày chay và chỉ chuyên niệm Phật, nhất
là những năm bà cụ lớn tuổi 70 hơn về sau. Lúc đó, chúng tôi có mặt
ở trong chùa, thấy bà cụ không có ở chung trong chùa mà chỉ ở một
cái thất riêng với người cháu nấu cơm cho bà ăn. Bà có một xâu chuỗi
huyền đeo ở cổ, mỗi khi bà quét nhà thì một tay lần chuỗi một tay
cầm chổi, khi bà nhổ cỏ cũng vậy, một tay nhổ cỏ một tay lần chuỗi,
bà làm cái gì cũng một tay làm, một tay lần chuỗi, không bao giờ bà
quên. Như vậy cho đến năm bà 84 tuổi, bà sắp mất thì Thầy chúng tôi
và Tăng Ni tụ về đông, lúc đó tôi có mặt rõ ràng. Khi bà nằm giữa
cái giường, ở trên là Thầy chúng tôi, hai bên là Tăng Ni, còn mấy
người cháu nội thì ngồi ở
dưới chân bà. Lúc đó bà hơi mệt, mệt một chút rồi bà cười, bà cười hết
sức là vui, ai thấy cũng mừng hết ! Thấy bà cười, mấy người cháu nội mới
hỏi :“Bà nội, bà nội, bà thấy cái gì bà cười ?”. Bà nói :“Tao thấy
Phật tới rước tao”. Mấy người cháu nội nói :“Cho tụi con theo không bà
nội ?”. Bà nói :“Không được ! Chỉ rước có mình tao thôi hà !”. Chừng
khoảng 15 phút sau bà cười một lần nữa y như trước, rồi 15 phút sau bà
cười một lần nữa rất là vui, rồi bà thở khì bà đi … Như vậy toàn chúng
có mặt hôm đó không có ai khóc được hết, thấy bà vui quá mình không
khóc được. Đó là một lẽ thực tôi chứng thực ở trước mắt ! …
Như vậy thì cái tu của một bà cụ chưa xuất gia, chỉ ăn
chay một tháng 10 ngày, nhưng tha thiết niệm Phật, niệm được nhứt tâm,
thì khi nhắm mắt cũng thấy Phật hiện trước để đón bà! Cái điều đó
chúng ta còn nghi ngờ gì được ? Nhưng mà phải nhớ : Niệm Phật cho đến
nhứt tâm !
Còn chúng ta bây giờ hay có cái bệnh niệm Phật tính
chuỗi. Bữa này được hai chuỗi, ba chuỗi. Ngày mai tính thêm bốn chuỗi.
Tính rồi ghi vô sổ, tới tháng trình với thầy. Như vậy tính chuỗi để
trình với Thầy mà tâm mình nó chưa có yên. Niệm Phật như vậy là chưa
đúng cách, chưa được. Chúng ta niệm Phật đừng nghĩ tính chuỗi để trình
thầy, mà làm sao : đi, đứng, nằm, ngồi cũng đều niệm Phật. Khi nào có
việc gì cần nghĩ thì nghĩ, không có việc thì cứ nhớ Phật và niệm Phật
luôn thì mới tới chỗ nhứt tâm, mà nhứt tâm thì nhắm mắt sẽ thấy Phật,
đó là một lẽ thường ! … Đó là tôi nói về phương pháp niệm
Phật.
Chúng ta tu phải thật tu, tu cho thành công. Chớ không
phải tu cho thiên hạ thấy mình tu giỏi. Trọng tâm của niệm Phật là
niệm đến nhất tâm bất loạn. Tại sao ? Bởi vì tâm của chúng ta luôn
loạn động, ít khi được yên hoàn toàn. Nếu có cũng một tí xíu thôi, rồi
nghĩ chuyện khác. Hết nghĩ chuyện này tới nghĩ chuyện kia liên miên.
Tâm chao đảo, xao xuyến đó là tâm tạo nghiệp với nào là thương ghét,
buồn giận v.v… Hoặc nghiệp sanh lên các cõi lành, hoặc nghiệp đọa
xuống các đường dữ.
Bây giờ muốn cho nghiệp lặng hết thì phải làm sao ? Phải
tin tưởng có đức Phật A-Di-Đà, tin tưởng có cõi Cực-Lạc. Tin như vậy
rồi chú tâm niệm Phật không nhớ gì hết. Lâu ngày chỉ còn câu niệm
Phật, cuối cùng câu niệm Phật cũng lặng luôn. Đó là niệm tới nhất tâm.
Nhất tâm là không còn niệm thứ hai nữa. Cuối cùng niệm Phật cũng phải
buông, chừng đó mới thấy Phật.
Chủ đích của pháp môn này là dùng câu niệm Phật để dẹp
trừ tâm loạn tưởng. Tâm loạn tưởng hết rồi gọi là niệm Phật nhất tâm,
lúc đó trí tuệ sáng suốt hiện tiền. Cho nên niệm Phật tới nhất tâm là
đi tới chỗ định, từ định phát sanh trí tuệ. Gốc của sự tu là đi tới
thiền định và trí tuệ để được giải thoát. Cho nên biết nhất tâm của
người tu niệm Phật gọi là Niệm Phật Tam-muội, cũng đồng nghĩa với chỗ
định của người tu thiền.
Như thấy người đi ngoài đường, vừa đi vừa nói lẩm nhẩm
một mình, chúng ta bảo kẻ đó điên. Người tỉnh táo sáng suốt có chuyện
cần nói mới nói, không thì thôi. Còn cứ lẩm nhẩm một mình hoài, không
phải điên là gì ? Cũng thế, chúng ta khá hơn một chút không nói ra
miệng, nhưng nói thầm trong bụng. Cứ lầm thầm nói này nói kia hoài
không yên, như vậy mình có điên không ? Nên Phật gọi là vọng tưởng
điên đảo. Điên đảo là nghĩ bậy, lộn xộn, không có thứ tự. Nhiều việc
không cần nói mà cứ nói, không cần nghĩ mà cứ nghĩ. Đó là vì chúng ta
không làm chủ được mình. Do đó phải mượn câu niệm Phật để quên các
niệm lăng xăng, nhớ làm chủ. Đến lúc nào các thứ vọng tưởng điên đảo
hoàn toàn lặng hết thì trí tuệ sáng ngời, là lúc thấy Phật. Đó là tôi
nói về Tịnh độ.
Bây giờ nói về tu Thiền. Thiền tông tu như thế nào ? Nói
tới tu thiền là nói tới định. Trong ba môn vô lậu học : Giới, Định,
Tuệ; Định là thiền định, từ thiền định phát sanh trí tuệ. Cho nên
Giới, Định, Tuệ còn được gọi là ba môn giải thoát. Trong Bát chánh
đạo, từ Chánh kiến tới cuối cùng là Chánh định, Phật cũng dạy tu để
được định. Tâm loạn tưởng hết gọi là định. Nói về pháp Lục độ cũng
phải định rồi tuệ: bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định,
trí tuệ. Có thiền định mới có trí tuệ.
Người tu Phật phải biết rõ Phật là bậc giác ngộ sáng
suốt, giác ngộ một cách viên-mãn. Lâu nay chúng ta thường học : Tự
giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Tức là mình giác ngộ rồi, giúp cho
người khác cũng được giác ngộ. Mình và người đều giác ngộ tròn đầy thì
thành Phật. Nhưng giác ngộ từ đâu mà có ? Từ tâm định mà có, chớ không
phải ở ngoài đến. Lâu nay chúng ta không biết, cứ nghĩ tu để được
phước đức nhiều, để Phật độ cho làm ăn phát tài, để gia đình không bị
tai nạn v.v… Thật sự tu là phải dẹp bỏ tâm lăng xăng điên đảo của
mình. Nó được lặng yên đi thì mới đi tới trí tuệ sáng suốt. Người tu
thiền nhất là Thiền tông, tâm phải được định.
Lâu nay tôi vẫn thường nghĩ nước Việt-Nam chúng ta được
duyên lành gặp Phật pháp từ thế kỷ thứ 3. Ngài Khương Tăng Hội dạy Lục
Diệu Pháp Môn, là sáu phương pháp tu để cho tâm an định. Có khi Ngài
cũng ứng dụng pháp Lục độ để tu. Như vậy từ thế kỷ thứ 3 Tổ tiên mình
đã tu thiền. Tới thế kỷ thứ 6 có tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi từ
Trung-Hoa sang dạy tu thiền. Thế kỷ thứ 9 có ngài Vô Ngôn Thông cũng
từ Trung-Hoa sang dạy tu thiền. Thế kỷ 17, 18 có các ngài Nguyên
Thiều, Liễu Quán đều dạy tu thiền. Như vậy hệ thống tu thiền dài gần
hai ngàn năm.
Có
một lần đi Nhật, trên tàu tôi gặp hai, ba vị tu sĩ cũng qua Nhật. Tôi
làm quen và hỏi: “Quí vị qua Nhật làm gì ?” Họ nói :“Qua Nhật để học
thiền”. Sau này tôi được một Phật tử trình bày cho nghe, có vị sư Nhật
lập một thiền đường ở Paris - Pháp. Đến kỳ nghỉ hè vị ấy đi thăm các
nước Đông-Nam-Á. Lúc về Sư kể lại Phật giáo các nước Tích-Lan,
Miến-Điện, Thái-Lan v.v… cho những thiền sinh nghe. Trong số ấy, có
một cô Phật tử Việt-Nam hỏi :“Thưa thầy, thầy có sang Việt-Nam không
?”. Sư đáp :“Có”. Phật tử hỏi tiếp :“Thưa thầy, thầy thấy Phật-Giáo
Việt-Nam thế nào ?”. Sư cười ha hả nói: “Tạp nhạp !”.
Nghe vậy tôi rất buồn. Khi sang Nhật tôi thấy rõ có
những tông phái : Nếu là Thiền thì có những thiền đường rất đàng
hoàng. Nếu là Tịnh độ thì tu cũng rất đàng hoàng. Tu môn gì ra môn ấy.
Về tới Việt-Nam thật là chịu thua, không biết mình tu pháp gì, đủ thứ
hết. Vì vậy người ta chê tạp nhạp cũng phải.
Tại sao thiền được truyền vào Nhật-Bản sau Việt-Nam năm
trăm năm, mà bây giờ người ta qua đó học. Còn Thiền tông đã có mặt ở
Việt-Nam lâu thôi là lâu, mà không ai thèm tới học với mình, ngược lại
mình còn qua Nhật học nữa chớ. Có tủi chưa ! Đó là điều tôi thấy rất
tủi. Vì thế sau khi học xong chương trình trong đạo, tôi phát nguyện
chuyên tâm nghiên cứu về thiền, nhất là thiền Việt-Nam.
Lúc đầu tôi đọc sử ba mươi vị Tổ ở Ấn-Độ, Trung-Hoa. Đọc
tới đọc lui muốn điên cái đầu mà vẫn không hiểu gì hết. Thấy như các
Ngài nói đùa nói cợt chơi vậy, chớ không có lẽ thật. Nhất là đọc câu
chuyện tổ Đạt Ma với ngài Huệ Khả. Ngài Huệ Khả hy sinh đứng ngoài
tuyết suốt đêm tại Thiếu Lâm. Miền Bắc Trung-Hoa bấy giờ tháng mười
một, tuyết xuống ngập đầu gối, mà Ngài vẫn đứng thản nhiên để cầu đạo.
Tổ Đạt-ma nhìn thấy hỏi : “Ông cầu gì mà khổ hạnh như vậy ?”.Ngài Huệ
Khả thưa: “Con muốn cầu Ngài chỉ phương pháp tu để được giác ngộ”. Tổ
quở :“Muốn cầu giác ngộ thành Phật phải nhiều đời nhiều kiếp hy sinh
thân mạng mới được. Ông dùng chút khổ hạnh như vậy làm sao cầu được
?”. Ngài Huệ Khả nghe thế, liền đi xuống bếp lấy dao chặt một cánh tay
dâng lên nói :“Con xin dâng cái này để cầu pháp”. Tổ gật đầu nói
:“Được !” và đặt hiệu là Huệ Khả.
Câu chuyện này tôi dịch rồi mà vẫn bán tín bán nghi.
Ngài Huệ Khả chặt cánh tay đem dâng Tổ, lúc đó có ra máu không, sao
không nghe băng bó ? Chẳng lẽ để máu me chảy dầm dề dâng cho Tổ ? Tôi
ngờ ngay chỗ đó. Hơn nữa, sau này không thấy sử ghi Ngài cụt một cánh
tay. Đó là hai điều tôi ngờ. Do đó tôi nghĩ đây là các ngài muốn diễn
tả tâm quyết liệt tu hành. Dù chết, dù bỏ thân mạng cũng không tiếc,
để người sau bắt chước. Sự thật ra sao thì không rõ.
Sau khi được Tổ nhận làm đệ tử rồi, một hôm Ngài bạch
với Tổ :“Tâm con không an, xin Hòa thượng dạy con pháp an tâm”. Khi đó
Tổ nhìn thẳng vào mặt ngài Huệ Khả bảo: “Đem tâm ra ta an cho”. Ngài
sửng sốt quay lại tìm tâm. Tìm một hồi không được, Ngài thưa : “Bạch
Hòa thượng, con tìm tâm không được”. Tổ bảo :“Ta đã an tâm cho ngươi
rồi”. Ngay đó Ngài biết đường vào.
Lúc trước chúng tôi đọc đi đọc lại nhiều lần, cứ ngỡ như
Tổ đùa chơi vậy, không dạy gì cả. Nhưng sau một thời gian, có cơ hội
nhập thất chuyên tu, đọc lại chỗ đó tôi sửng sốt không ngờ Tổ chỉ một
cách hết sức khéo léo, hết sức cụ thể, chớ không phải chuyện tưởng
tượng. Thật là khéo léo làm sao!
Tâm không an là tâm nghĩ chuyện này, chuyện nọ. Có khi
mình dặn nó nhớ Phật thôi đừng nhớ bậy, mà nó cứ nhớ bậy hoài. Hoặc
bảo nó nhớ hơi thở, đừng nhớ bậy mà nó cứ nhớ chuyện này chuyện nọ,
không an. Nhưng tổ Đạt-ma không dạy cách nào hết, mà bảo “Đem tâm ra
ta an cho”. Bình thường nó lăng xăng lộn xộn, nhưng khi tìm lại nó ở
đâu ? Tìm lại thì mất tăm, mất dạng. Cho nên ngài Huệ Khả trình bày
một cách thật thà “Con tìm tâm không được”. Tổ bảo “Ta đã an tâm cho
ngươi rồi”.
An
bằng cách nào ? Đó là điều hết sức quan trọng mà người học Phật chúng
ta không nắm được. Tổ Đạt-ma khi truyền thiền sang Trung Hoa, ngài có
lập bốn câu châm ngôn :
Bất lập văn
tự
Giáo ngoại biệt
truyền
Trực chỉ nhân
tâm
Kiến tánh thành Phật
!
Lấy bốn câu đó làm tiêu chuẩn. Như vậy bảo “Đem tâm ra
ta an cho”, câu đó trong kinh điển nào ? Không có. Thế mà ngài Huệ Khả
nhân đó ngộ được pháp tu. Nên nói bất lập văn tự.
Trong mười mục chăn trâu, mục thứ nhất là tìm trâu. Nhà
thiền còn dùng từ “Phản quan tự kỷ”, tức là nhìn lại chính mình. Bởi
vì lâu nay chúng ta mê lầm cho tâm lăng xăng lộn xộn là tâm mình thật.
Vì thế bị nó dẫn dụ lôi kéo tạo nghiệp không cùng. Bây giờ ta nhìn
thẳng mặt xem nó ở đâu thì nó mất. Như vậy cần gì mượn phương tiện, cứ
nhìn thẳng xem tâm lăng xăng đó ở đâu, nó sẽ tự mất. Nhìn lại tâm lăng
xăng của chính mình gọi là phản quan tự kỷ. Đó là lối tu không dùng
lời giảng trong kinh, cũng không dùng chữ nghĩa, chỉ nhìn lại mình là
vọng tưởng tự lặng, tự yên.
Vì
thế chúng tôi mới hướng dẫn Tăng Ni và Phật tử tu bằng cách, khi niệm
dấy khởi mình nhìn lại biết nó hư vọng thì nó tự mất. Người tu Tịnh độ
niệm Phật để dứt niệm bậy, dừng các thứ nghĩ khác. Còn người tu thiền
nhìn thẳng vào những dấy niệm đó xem mặt mũi thế nào, thì nó tự mất.
Cả hai pháp chủ yếu đều dẹp tâm lăng xăng. Vì tâm lăng xăng là tâm tạo
nghiệp, tâm giả dối. Thấy rõ được bộ mặt thật của nó rồi, tự nhiên nó
không còn, vì bản chất của nó vốn là hư vọng.
Chúng ta có hai thứ mê lầm : một là lầm thân này thật,
hai là lầm tâm sanh diệt là tâm mình thật. Thân xác thịt này thật
không ? Ai cũng nói nó giả, nhưng thử thiên hạ đánh một bạt tay, lúc
đó mới biết giả hay thật ? Nhất định ăn thua tới cùng. Khi học kinh
Phật nói giả ta cũng tin là giả, nhưng gặp việc thì thành thật hết.
Tất cả chúng ta đều nhiều lần chứng kiến những người
thân của mình đang sống khỏe mạnh, bỗng nhiên ngả bệnh rồi chết. Khi
còn sống, còn nói năng, làm việc ta cho là thật. Nhưng ngã bệnh tắt
thở, lúc đó thật hay giả ? Nếu thật thì còn, mà bây giờ không còn. Nên
thấy người đi trước giả thì biết thân mình tuy còn hoạt động đây nhưng
cũng là giả. Thế nhưng chúng ta vẫn cứ mê lầm ngỡ nó là thật.
Từ
mê lầm ngỡ thân này thật, đi tới mê lầm thứ hai là những nhu cầu nó
đòi hỏi, ta cũng thấy thật luôn. Muốn ăn ngon phải chạy tìm món ăn
ngon, muốn mặc đẹp phải chạy tìm mặc đẹp. Tất cả những gì nó muốn đều
chạy theo nó hết. Suốt đời làm cho nó thỏa mãn, mà có bao giờ được
thỏa mãn đâu. Như vậy không mê lầm là gì ?
Vì
muốn thỏa mãn vật chất nên con người không từ bỏ những việc làm xấu
nào để đạt được mong muốn của mình. Từ đó sanh ra tranh đấu giành
giựt, rồi sát phạt nhau đủ thứ khổ đau. Bây giờ biết cuộc sống này giả
tạm, bảy tám chục năm là cùng. Thì thôi sống vừa phải, giành giựt nhau
làm gì, cuối cùng có còn không ? Mất hết. Trên thế gian bao nhiêu sự
giết hại, cũng vì giành giựt với nhau để thỏa mãn cho thân này. Đó là
lầm về thân.
Kế
đến là lầm về tâm. Những thứ nghĩ phải nghĩ quấy, nghĩ hơn nghĩ thua
cho đó là tâm mình thật. Khi cho nó là tâm mình thật rồi, ta nghĩ thế
này là đúng, người khác nghĩ thế khác, họ cũng cho là đúng. Hai cái
đúng nghịch nhau gặp nhau sẽ tóe lửa, chớ không thể nào yên được. Cho
nên người ta cãi vã, đánh đập nhau cũng chỉ vì cái đúng của tôi. Nhưng
thật ra có tâm vô thường nào đúng đâu ? Nó chỉ đúng với người này mà
không đúng với người khác. Hoặc đúng trong trường hợp này mà không
đúng trong trường hợp khác.
Ví
dụ tôi ngồi trên núi thấy hướng nam có một cụm mây đen, gió thổi bay
qua một chút sau trời mưa. Hôm sau tôi cũng thấy như thế nên kêu mọi
người chung quanh đem đồ vô, lát nữa trời sẽ mưa. Người nào không chịu
đem vô tôi giận, bực bội la “Tại sao không đem đồ để mưa ướt”. Nhưng
một lát gió thổi ngược hướng, mây bay tuốt, trời không mưa ? Như vậy
tôi la có đúng không ? … Cái nghĩ của mình chẳng qua do kinh nghiệm
quá khứ, mình đặt ra như vậy và tưởng là đúng. Nhưng quá khứ đâu có
lặp lại, mọi sự luôn đổi thay, lấy việc quá khứ cho là hiện tại rồi
kết luận đúng 100% là một sai lầm. Bởi lầm mê cho cái nghĩ của mình là
thật nên sanh ra tranh đấu, hơn thua, phải quấy với nhau ! … Khi ta
nghĩ thế này, người khác nghĩ thế khác, mỗi người chỉ nên nói đây là
cái nghĩ của tôi. Nếu những suy nghĩ ấy giống nhau thì tốt, không
giống nhau cũng không sao. Đừng nói cái nghĩ của tôi là đúng. Bởi vì
hai cái nghĩ khác nhau đều đúng sẽ dẫn đến đấu tranh. Trong khi đó
chuyện đúng sai không quyết định được, vì các pháp luôn thay đổi. Sống
yên ổn vui vẻ hòa hợp là được. Đừng cho lý lẽ của mình là đúng, người
khác sai rồi giận hờn trách cứ làm chi cho mệt.
Những suy nghĩ của chúng ta là vọng tưởng, không phải
chân lý, làm sao cả quyết là đúng được? Nó sanh đó rồi diệt đó, không
phải tâm mình thật, chỉ là bóng dáng sanh diệt thôi. Biết nó không
thật thì việc tu dễ dàng. Đức Phật đã thấy được tận gốc ngọn của đau
khổ. Từ chấp thân chấp tâm thật mà tạo ra không biết bao nghiệp khổ
đau. Vì vậy Phật dạy trước phải phá chấp thân là thật. Thân này hiện
có do duyên hợp tạm bợ, không phải thật. Tâm phân biệt duyên theo
cảnh, duyên theo bóng dáng sáu trần cũng là tạm bợ không thật. Thân và
tâm không chấp thật, nhất định sẽ tới chỗ an định tâm, trí tuệ sáng
suốt chân thật hiện ra.
Phương pháp niệm Phật cũng để diệt tâm loạn tưởng.
Phương pháp thiền định cũng để diệt tâm loạn tưởng. Kết quả chung của
người tu đạo Phật là đi tới chỗ định, dừng tâm loạn tưởng. Tâm loạn
tưởng dừng rồi thì trí tuệ chân thật mới hiện ra. Vì vậy chúng ta
không phải tìm kiếm ở đâu xa, mà hãy quay lại thấu suốt nơi mình, tự
nhiên sẽ nhận ra cái chân thật sẵn có. Cái chân thật đó đức Phật
Thích-ca đã thực hiện được sau khi thiền định bốn mươi chín ngày đêm
dưới cội Bồ-đề.
Những gì Ngài thấy biết, nói lại cho chúng ta nghe, muôn
đời không sai chạy. Còn thấy biết thế gian chỉ có giá trị tạm thời
trong một giai đoạn nào thôi. Tùy theo nhu cầu sống thay đổi nó cũng
thay đổi, chớ không nguyên vẹn. Cho nên lời Phật dạy là chân
lý.
Có
lần Phật hỏi các Tỳ-kheo :“Mạng người sống trong bao lâu ?”. Có thầy
thưa :“Bạch Thế Tôn, mạng người sống trong ba tháng”. Phật lắc đầu nói
:“Ông chưa hiểu đạo !”. Vị khác thưa :“Bạch Thế Tôn, mạng người sống
trong một tháng”. Phật cũng lắc đầu. Các thầy lần lượt đứng lên thưa
bảy ngày, ba ngày, chỉ trong bữa ăn. Phật đều lắc đầu nói :“Ông cũng
chưa thấy đạo !”. Cuối cùng một Tỳ-kheo thưa :“Bạch Thế Tôn, mạng
người sống trong hơi thở”. Phật nói :“Đúng, ông mới thấy đạo
!”
Chúng ta thử nghiệm lại xem có người nào thở khì ra,
không hít lại mà sống không ? Thở khì ra không hít lại là chết. Đó là
lẽ thật. Phật chỉ đúng lẽ thật cho chúng ta không lầm lẫn. Nhưng người
thế gian lầm lẫn nhiều quá. Vì vậy nghe Phật dạy khó hiểu, không thâm
nhập được.
Phật nói do thiền định có trí tuệ. Trí tuệ này khác với
trí thức. Muốn có trí tuệ này phải thiền định, từ định sanh tuệ. Muốn
định thì phải buông xả hết mọi suy nghĩ, mọi lo lắng, mọi tính toán.
Còn học giả hay trí thức, tức là giỏi phân biệt. Trí phân biệt này do
lượm lặt kiến thức của người này, người kia gom lại thành một số kiến
thức của mình, gọi là trí thức. Nếu gom thật nhiều gọi là bác học. Thế
nên lý thuyết của người khác chỉ đúng trong một thời đại, một giai
đoạn. Qua thời đại khác, giai đoạn khác nó không còn đúng nữa. Như vậy
suốt đời lao theo việc học, rốt lại cũng không có cái gì là của mình,
không có gì đúng mãi.
Ví
dụ như Tổ tiên, ông bà chúng ta ngày xưa rất quí trọng Nho giáo. Những
lý thuyết của đức Khổng Tử đều được tôn trọng và học hiểu. Nhưng tới
thời này đem ra dùng không được. Những gì Khổng Tử nói ngày xưa chẳng
những bây giờ không dùng, mà còn có thể bị phản đối nữa là khác. Như
phái nữ hồi xưa dạy tam tùng tứ đức, tại gia tùng phụ, xuất giá tùng
phu, phu tử tùng tử. Bây giờ ở Tây phương họ không chịu như thế. Bất
kỳ một học thuyết nào khi đã bị chống đối thì nó không phải là chân lý
rồi.
Còn trí tuệ Phật nói phát xuất từ tự tâm mình. Do tâm
yên lặng trí phát sáng, thấy đúng như thật. Như khi tâm Phật định rồi
sáng lên, Ngài chứng được Thiên nhãn minh, thấy vô số vi trùng trong
bát nước, thấy vô số thế giới bên ngoài vũ trụ. Phật thấy thân này là
một ổ vi trùng nên trong kinh chữ Hán có câu :“Nhân thân chi nội hữu
vô số vi trùng tại trung vi trú”. Hồi xưa có ai biết vi trùng là gì
đâu, ngày nay mới biết thân này có bao nhiêu tỉ tế bào đang thay nhau
hoạt động, để giữ cho thân được tồn tại trong một khoảng thời gian
giới hạn nào đó.
Đức Phật đã thấy tường tận mọi thứ bằng trí tuệ của
Ngài, chớ không học với ai hết. Ngồi yên định, tâm sáng tự phát ra
thấy tột lẽ thật của muôn pháp. Trí tuệ này còn được gọi là Tự nhiên
trí hay Vô sư trí, là trí không thầy hay trí có sẵn. Giới, Định, Tuệ
trong nhà Phật là vậy. Hiểu rõ chỗ này chúng ta mới biết đường
tu.
Tu
niệm Phật hay tu thiền cốt đi tới định tâm. Nhất tâm là không còn niệm
thứ hai, đó là định. Thiền định cũng không còn dấy niệm khác, đó là
định. Trọng tâm của đạo Phật dạy không hai, nhưng phương tiện dùng có
khác. Với người tin ở bên ngoài thì dạy niệm Phật. Với người tin nơi
mình, trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật thì dạy tu thiền. Chỉ
thẳng tâm người, cái gì giả biết giả đừng theo, nhận ra bản tâm liền
được giác ngộ. Hai bên khác nhau ở trong và ngoài. Nhưng gặp nhau một
chỗ là đều đi tới nhất tâm.
Phật nói Tịnh độ có hai phần : sự Tịnh độ và lý Tịnh độ.
Sự Tịnh độ là tin có cõi Cực Lạc, có đức Phật A-Di-Đà sẽ đón mình. Lý
Tịnh độ là tự tánh Di-Đà, duy tâm Tịnh độ. Nghĩa là tâm tịnh thì cõi
nước tịnh, Phật A-Di-Đà là tánh giác của chúng ta. Như trên đã nói
A-Di-Đà là tiếng Phạn, Trung-Hoa dịch là vô-lượng-thọ, vô-lượng-quang,
nghĩa là sống lâu vô lượng, ánh sáng vô lượng. Phật nói tánh giác sẵn
có của mình không sanh diệt nên tuổi thọ vô-lượng. Tánh giác đó cũng
là trí tuệ sáng ngời, thấy biết đúng như thật nên gọi là
vô-lượng-quang.
Như vậy Tự tánh Di-Đà, chỉ tâm thanh tịnh là Tịnh độ. So
với Thiền tông chỗ cứu kính không hai. Thiền định để dừng tâm lăng
xăng, trí tuệ phát sáng. Định tuệ song song, có an định mới có trí tuệ
và ngược lại có trí tuệ thì luôn an định. Nói vậy nhiều vị cho rằng
khó hiểu. Bây giờ tôi lấy ví dụ gần nhất, như khi chúng ta gặp việc
rối, đầu óc nặng trĩu. Lúc đó mình nghĩ được gì không ? Không nghĩ
được gì hết. Khi tâm trí thanh thản nhẹ nhàng mình mới nghĩ được điều
hay. Thế nên các nhà khoa học phát minh được những điều mới từ sự chăm
chú. Họ dồn hết tâm lực vào một vấn đề, chuyên ròng năm bảy năm vào
việc ấy, hôm nào đó bỗng nhiên họ sáng tỏ. Thử hỏi lúc đó họ học với
ai ? Không học với ai hết, chỉ do chú tâm yên định vào một vấn đề nên
phát sáng ra.
Trí vô sư ai cũng có hết, nhưng chúng ta không sử dụng
được vì tâm loạn động. Muốn sử dụng nó phải lắng tâm loạn động ấy đi
nó mới xuất hiện. Trí vô sư còn gọi là Phật tánh. Cho nên thiền định
của Thiền tông là phải lặng tâm lăng xăng hư ảo không thật, đừng chạy
theo nó nữa.
Các Thiền sư khéo diễn tả những giai đoạn tu bằng hình
ảnh thằng chăn rượt bắt con trâu. Lúc đầu trâu còn hoang khó dạy, lôi
đầu nó không được, buộc lòng phải có roi có dây dàm để lôi nó. Đó là
chỉ cho người tu giai đoạn đầu, tâm quá lăng xăng cần có giới luật làm
dây dàm để kềm chế. Nếu không có giới lấy gì kềm chế, cứ thả trôi riết
thì không còn làm chủ được mình nữa. Vì vậy giới luật là sợi dây xỏ
mũi, là cây roi chận đón con trâu, không cho chạy càng vào lúa mạ
người. Điều khiển con trâu từ hung hăng trở thành hiền hòa. Tới khi
trâu đã thuần thục, thằng chăn nằm ngủ khò, không thèm coi chừng nó
cũng yên. Nhưng còn trâu, còn chăn là chưa xong. Tới ngày nào con trâu
mất, thằng chăn cũng không còn, chừng đó chỉ còn mặt trăng tròn
sáng.
Chúng ta tu cho tới chỗ không còn vọng niệm, cũng không
còn chăn vọng niệm mới là lúc hoàn toàn an định. An định rồi thì trí
tuệ mới phát sáng. Trí tuệ phát sáng chúng ta mới làm lợi ích cho mọi
người một cách tự tại. Vì vậy bức tranh số chín là hình ảnh một ông
già quảy cá chép, bầu rượu vô xóm. Đó là tự tại đi giáo hóa chúng
sanh, không còn lo phiền gì nữa.
Như tôi chẳng hạn, ngày xưa đi giảng nhiều, ngày nào
cũng phải soạn bài. Có khi soạn không kịp, khuya tôi ngồi thiền yên
tịnh, tự hỏi mai giảng cái gì đây, bỗng nhiên trong trí hiện ra đề tài
cho ngày mai giảng. Rõ ràng khi ta không nghĩ lăng xăng thì trí sáng,
còn suy nghĩ hoài trí không sáng suốt nên không giải quyết được việc
gì. Đó là những kinh nghiệm nhỏ thôi, nếu thiền định được hoàn toàn an
định thì trí tuệ tuyệt vời biết mấy. Nhà Phật gọi từ chân-tánh phát ra
diệu-dụng là vậy.
Trí đó là tuệ chớ không phải là thức. Tuệ là cái thấu
suốt được chân lý muôn đời không thay đổi, còn thức do lượm lặt được ở
người khác, nó sẽ đổi thay. Một bên thâu vô, một bên loại ra. Muốn có
trí thức thì thâu vô, muốn được trí tuệ thì loại ra. Chúng ta ngồi
thiền bỏ hết vọng tưởng thì trí tuệ sáng suốt phát sinh. Còn thế gian
thu vô, học cho nhiều riết đầu óc tối mù, không sáng nổi. Như vậy trí
thức là do học bên ngoài mà được, còn trí tuệ do thiền định mà
được.
Hiểu như vậy mới thấy được ý nghĩa của người tu Phật.
Nhiều người tu mà không biết tu để làm gì, niệm Phật để làm chi. Cứ
nghĩ niệm để có công đức vậy thôi, không biết rằng mục đích niệm Phật
để đạt được kết quả định tâm, phát sanh trí tuệ. Nhờ câu niệm Phật
chúng ta dập tắt hết những nghĩ suy loạn tưởng. Chúng lặng hết rồi thì
trí tuệ sáng ngời. Trí tuệ sáng ngời mới giác ngộ, thành Phật !
Phật tử tu mà còn lăng xăng lộn xộn quá. Tu cũng ham
nhưng nghe ông thầy nào coi số hay cũng muốn coi thử số mình tốt hay
xấu. Hoặc sửa soạn cưới vợ gả chồng cho con cái, nhờ thầy xem tuổi.
Đứa được tuổi nó không chịu, đứa không được tuổi nó chịu, rồi đâm ra
phiền não đủ thứ hết. Đó là vì không biết đạo. Phật không dạy những
điều như thế. Phật dạy chúng ta tu nếu biết làm lành, biết tạo duyên
tốt thì sẽ hưởng quả tốt, chớ không phải tướng số làm cho chúng ta
tốt. Mỗi con người đều có tâm tư nguyện vọng khác nhau, cha mẹ không
thể áp đặt con cái phải giống mình. Nó có quyền của nó. Nó thương
người nào là duyên của nó, lấy con mắt của cha mẹ áp đặt cho con, có
tàn nhẫn không? Tôi nói đó là áp đặt một cách độc tài. Tại sao mình
muốn theo ý mình, mà bắt nó không được theo ý nó. Thế gian cứ sai lầm
như vậy mà làm khổ nhau. Nhiều khi dẫn tới chuyện tự tử chết nữa, có
phải ác độc không ?
Hiểu đạo rồi, chúng ta có cái nhìn sâu hơn, thấy cuộc
sống này giả tạm, theo duyên hợp tan nên có cuộc sống hết sức hòa hợp.
Chúng ta sống hết sức bao dung, không bắt buộc ai hết. Vì biết cái
nghĩ của mình chưa phải là chân lý, bắt buộc người ta theo làm chi.
Chừng nào ta hoàn toàn an định rồi, được giác ngộ có trí tuệ mới thấy
đúng, nói đúng lẽ thật.
Phật thường nói Như-Lai chỉ là bậc Đạo-sư dẫn đường, đi
hay không là tự chúng ta. Như đối với năm giới, Phật bảo :“Năm điều đó
là tư cách của một con người. Nếu giữ đúng như vậy đời này là người
tốt, đời sau trở lại làm người càng tốt hơn. Nếu giữ không đúng đời
sau sẽ không được trọn vẹn”. Khi truyền giới quí thầy hỏi Phật tử giữ
được không ? Nếu giữ được quí vị thưa “con giữ được”. Nếu giữ chưa
được thì làm thinh, Phật không bắt buộc. Vì tu là tu cho mình chớ
không phải cho Phật. Chúng ta có cái khổ là bị bắt buộc mới làm, còn
để tự do không chịu làm. Do đó mà không có tiến bộ.
Đạo Phật rất tôn trọng tự do, tôn trọng lẽ thật của con
người. Trong kinh Phật nói, như người thế gian phạm tội thập ác, một
Phật tử cũng phạm tội thập ác, cả hai đều bị đọa địa ngục. Không phải
vì Phật tử là đệ tử Phật mà được nhẹ tội. Song có cái khác là người
thế gian phạm tội đọa địa ngục, khi hết tội họ cũng không biết làm
lành. Còn Phật tử có tu, khi phạm tội đọa địa ngục, tới lúc hết tội ăn
năn hối hận, biết làm lành nhờ thế có phước được sanh về chỗ
lành.
Tóm lại đối chiếu giữa pháp tu Tịnh độ và pháp tu Thiền,
chúng ta thấy có những điểm như sau: Người tu Tịnh độ lấy Tín, Hạnh,
Nguyện làm căn bản. Tu thiết tha, chân thành, không định thời gian,
không định số lượng, tới chỗ nhất tâm bất loạn sẽ đạt được kết quả như
nguyện. Còn người tu Thiền phải được an tâm, tức được định. Từ định
mới phát tuệ. Định là dứt hết các duyên, tuệ là tâm thường hằng sáng
suốt. Hiểu như vậy thì mới thấy đức Phật dạy pháp nào cũng đều đi đến
một mục tiêu, chớ không có khác. Nếu khác chăng là phương tiện tùy căn
cơ của chúng sanh thôi.
Hiểu vậy chúng ta học đạo, tu đạo mới không sai lầm,
cũng không chống chọi ai hết. Gặp người tu thiền thì khuyên ráng tu
cho được định. Gặp người tu niệm Phật thì khuyên ráng niệm Phật cho
được nhất tâm. Như vậy đâu có gì trái với đạo. Hiểu cho sâu, thấy cho
rõ khuyến khích nhau tu hành tới nơi tới chốn. Đó là Phật tử biết đạo,
thấy đạo đúng như thật.
( Chùa Long Sơn – Nha Trang – Năm 2002
)
*************************************************
Hôm nay tôi có bài thuyết pháp ngắn về đề tài cho người
già bệnh. Lý do có bài pháp này là vì một Phật tử đến yêu cầu chúng
tôi rằng có cha mẹ già bệnh nặng, nên muốn khi cha mẹ lâm chung được
tỉnh táo sáng suốt, không bị hôn mê hoảng sợ. Vì tình của người Phật
tử hiếu thảo nên tôi hứa, đồng thời cũng nghĩ thương người già bệnh
trong khi mệt mỏi đau đớn, nên chúng tôi nói bài pháp này.
Trước hết nói về cái chết không đáng sợ. Mọi người đều
có quan niệm sanh là vui, chết là khổ; sanh là mừng, chết là sợ. Vì
vậy ngày sinh nhật gọi là ngày ăn mừng sinh nhật, còn ngày chết con
cháu cúng giỗ gọi là ngày cúng kỵ, tức ngày sợ sệt.
Quý Phật tử hiểu đạo thì ngày chết là ngày đáng sợ hay
không đáng sợ ? Thật tình cái chết không đáng sợ. Già, bệnh là hai thứ
khổ trong bốn thứ khổ Phật nói : sinh, lão, bệnh, tử. Đã mang hai thứ
khổ này vào mình là một gánh nặng đau khổ. Nếu gánh nặng đau khổ được
quăng đi thì nó được nhẹ nhàng. Vậy chết là quăng được gánh nặng của
già và bệnh. Lúc đó chúng ta thảnh thơi nhẹ nhàng, có gì đâu mà phải
sợ. Nên chúng tôi nói chết là không đáng sợ.
Điểm thứ hai, như kinh Phật thường nói, có sanh là có
tử. Có sanh ra thì phải có chết, đây là chuyện thường, không ai tránh
khỏi. Như đức Phật tu hành rốt cuộc tám mươi tuổi Ngài cũng chết. Các
ông tiên mà chúng ta đọc được trong truyện Tàu như Bát tiên v.v… nói
trường sinh bất tử, nhưng sự thật tám, chín trăm năm rồi cũng mất,
cũng chết. Do đó tám ông tiên mà bây giờ tìm một ông cũng không ra.
Nên biết dù cho tu đắc đạo như Phật, thân này tới khi
hoại cũng phải hoại. Dù luyện được thuốc trường sinh bất tử như thần
tiên, thân này đến lúc hoại cũng phải hoại, chớ không bao giờ giữ được
mãi mãi. Vì vậy chết là lẽ thường, là việc chung cho tất cả, không ai
tránh khỏi. Cái không tránh khỏi mà mình sợ là chuyện vô ích, nếu
không nói đó là chuyện khờ khạo. Chúng ta là người hiểu đạo rồi biết
rằng có sanh là phải có tử. Ngày chết là ngày sẽ đến, bất cứ người nào
cũng phải nhận. Chết là chuyện thường, đã là thường thì không sợ.
Tôi nhớ Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ khi sắp tịch nằm trên
bộ ngựa, nghiêng bên phải nhắm mắt để tịch. Bấy giờ những người hầu
thiếp khóc rống lên, Ngài liền ngồi dậy, súc miệng, rửa mặt, rồi nói:
“Sanh tử là lẽ thường, sao lại buồn thảm luyến tiếc như thế, làm não
hại chân tánh ta !”. Nghe xong, các vị kia mới yên lặng. Ngài nằm
nghiêng bên phải mà tịch.
Chúng ta thấy rằng đối với Ngài sanh tử là việc thường.
Đã là việc thường thì không có gì quan trọng hết. Do đó Ngài tự tại ra
đi. Còn chúng ta cho cái chết là lớn lao đáng sợ, nên tới đó chúng ta
kinh hoàng. Kinh hoàng là đau khổ. Vì vậy người Phật tử chân chính lúc
nào cũng biết rằng chuyện chết sống không thể tránh được. Không tránh
được thì chúng ta chuẩn bị ngay những cái gì cần sau khi chết, đừng để
tới đó rồi sợ hãi chỉ là chuyện vô ích thôi.
Điểm thứ ba, người Phật tử hiểu đạo khi tu ít nhất cũng
giữ năm giới, nhiều hơn thì Thập thiện. Biết giữ năm giới, biết tu
Thập thiện thì khi chết chúng ta sẽ sanh về đâu ? Nếu giữ năm giới
trọn vẹn thì sau khi chết chúng ta sẽ trở lại làm người đầy đủ phước
đức. Tức là do giữ giới không sát sanh nên được tuổi thọ; giữ giới
không trộm cướp nên được nhiều của cải; giữ giới không tà dâm nên được
đẹp đẽ oai nghi; giữ giới không nói dối nên lời nói thanh tao, được
mọi người tín nhiệm; giữ giới không uống rượu nên có trí tuệ sáng
suốt. Thế nên sinh làm người được đầy đủ phần tốt đẹp của con người,
không có gì thiếu thốn hết. Như vậy thân này hoại rồi được thân kế tốt
đẹp hơn, phước đức hơn, có gì mà chúng ta phải sợ. Còn nếu tu Thập
thiện khi bỏ thân này sẽ được sanh lên cõi trời, hưởng phước đức thù
thắng nhiều hơn cõi này, tức là đẹp đẽ hơn gấp bao nhiêu phần.
Chúng tôi thường nói chết như đổi chiếc xe cũ lấy chiếc
xe mới. Chiếc xe cũ xấu hư, chúng ta lấy chiếc xe mới tốt đẹp, hoàn
hảo hơn. Cho nên chúng ta hoan hỷ bỏ thân này, vì biết rằng khi bỏ
thân này chúng ta sẽ được thân sau tốt đẹp hơn, có gì đâu phải lo buồn
? Thật ra chết không đáng sợ, chỉ sợ mình không biết tu. Đó là điều
tôi muốn nhắc tất cả quý vị đang ở trong hoàn cảnh bệnh hoạn đau ốm,
không thể tin tưởng rằng mình còn sống lâu, ráng nhớ mà tu hành
!
Trong nhà Phật có nói đến cận tử nghiệp. Cận tử nghiệp
này rất mạnh, có công năng đưa chúng ta tới chỗ tốt hay chỗ xấu khi
chúng ta sắp lâm chung.
Trước hết nói cận tử nghiệp của người làm ác. Nếu người
khi gần chết khởi tâm ác liền chuyển cả sự tu hành hay công đức trước
của mình, liền sanh vào chỗ không tốt.
Trong kinh có kể : Một người tu ngoại đạo đạt đến định
Phi phi tưởng, nếu người đó chết sẽ được sanh về cõi trời Phi phi
tưởng. Nhưng khi gần chết gặp chút nghịch duyên, ông nổi giận, bực tức
lên rồi chết. Sau khi chết ông sanh làm con chó sói. Như vậy, từ quả
vị cõi trời Phi phi tưởng mà chuyển làm một con vật xấu xa, đủ cho ta
thấy cận tử nghiệp nguy hiểm như thế nào. Cận tử nghiệp là nghiệp gần
lúc chết. Nếu khởi niệm ác thì nó sẽ dẫn chúng ta sanh vào cõi ác, cõi
dữ.
Do
đó chúng ta thấy trong cõi người cũng như trong các loài thú, có những
người, hoặc những con thú sanh ra một thời gian ngắn liền chết. Chúng
ta không hiểu tại sao. Nếu là duyên làm người hoặc làm thú thì phải ở
lâu cho mãn kiếp người, kiếp thú, tại sao chỉ một thời gian ngắn thì
đi. Đó là lý do để thấy rằng những người ấy lẽ ra không phải sanh chỗ
như thế, nhưng vì cận tử nghiệp ác mạnh nên phải sanh chỗ đó. Thời
gian ngắn sau chết, sanh lại chỗ khác theo tích lũy nghiệp, tức là
nghiệp chứa đựng lâu dài lúc trước của họ. Vì vậy sức mạnh của cận tử
nghiệp đưa đẩy người ta sanh vào chỗ không đúng sở nguyện của mình,
chỉ vì cơn nóng giận hoặc khởi những niệm ác lúc sắp lâm chung mà ra
như vậy. Đó là tôi nói trường hợp cận tử nghiệp ác.
Kế
đến là cận tử nghiệp thiện, tức người gần chết khởi niệm lành. Lúc sắp
lâm chung khởi niệm lành liền sanh về cõi lành, dù cho tích lũy nghiệp
của họ ác, nhưng nhờ khi sắp chết khởi niệm thiện nên chuyển sang sanh
cõi lành. Do sức mạnh của cận tử nghiệp làm cho tích lũy nghiệp mờ đi,
nhưng không phải mất. Nghĩa là người ấy phải theo cận tử nghiệp một
thời gian. Khi nào cận tử nghiệp hết thì họ mới trở lại tích lũy
nghiệp.
Nên nhớ nghiệp tích lũy là nghiệp quan trọng mà chúng ta
chứa từ thuở nhỏ cho đến lớn trong đời sống. Giả sử chúng ta chứa điều
lành, điều tốt đầy đủ, nhưng giờ chót bị cận tử nghiệp ác lôi đi thì
phải trả hết nghiệp cận tử đó rồi mới trở lại với nghiệp tích lũy
lành, được quả lành, chứ không phải mất hẳn. Nên lúc sắp lâm chung
chúng ta phải dè dặt tối đa, không nên khởi những tâm niệm ác.
Trong kinh nói người phạm hai tội trong năm tội ngũ
nghịch là ông Đề-Bà-Đạt-Đa, đức Phật thọ ký khi chết ông phải đọa địa
ngục. Do đó lúc sắp lâm chung ông hối hận hướng về Phật chắp tay xin
sám hối. Sau này đức Phật kể lại cho ngài A-Nan nghe rằng ông
Đề-Bà-Đạt-Đa tuy bị đọa địa ngục vì tội ngũ nghịch, nhưng vì sắp chết
ông biết hối hận sám hối với Phật. Nên sau khi hết đọa địa ngục ông
được trở lại làm người gặp Phật pháp tu hành, cuối cùng cũng chứng quả
thành Phật.
Chúng ta thấy rằng cả đời Đề-Bà-Đạt-Đa đã tạo những
nghiệp ác nhưng khi sắp lâm chung ông đã có tâm thức tỉnh, hối cải. Vì
vậy, sau này khi nghiệp ác hết, ông sanh về cõi lành và được tu hành
chớ không mất luôn chủng duyên lành. Nên biết cận tử nghiệp lành có
thể giúp người bị khổ lâu dài chuyển thành khổ ngắn, không còn lâu dài
nữa.
Thêm một chuyện nữa. Có một vị tiên ở cõi trời ba mươi
ba. Ông biết mình hết phước sắp chết. Do có thiên nhãn, ông biết mình
sẽ sanh làm con của một Trưởng giả ở nhân gian và sau kiếp làm con ông
Trưởng giả ông sẽ đọa địa ngục. Hoảng sợ quá, ông khóc rống lên, kêu
la cầu cứu. Khi đó Trời Đế Thích đến hỏi :“Vì sao ông khóc kêu cứu như
vậy ?”.
Ông trình bày chỗ thấy của mình. Trời Đế Thích liền
khuyên ông nếu muốn được cứu phải quy-y Tam-Bảo.
Ông hỏi : - Quy-y Tam-Bảo là sao ?
Trời Đế Thích nói :
-
Quy-y Tam-Bảo là quy-y Phật, quy-y Pháp, quy-y Tăng.
Ông hỏi : - Bây giờ Phật ở đâu ?
-
Hiện giờ Phật đang thuyết pháp ở Vườn-Trúc tại xứ Nalanda.
Ông than : - Bây giờ tôi sắp chết làm sao đến đó để
quy-y được ?
Trời Đế Thích bảo :
-
Không sao, chỉ cần ông chắp tay hướng về chỗ Phật đang thuyết pháp nói
to lên thế này “Con tên : … xin quy-y Phật, quy-y Pháp, quy-y Tăng.
Xin Phật cứu con, xin Phật độ con”, như vậy ba lần.
Nghe vậy ông liền quỳ gối chắp tay hướng về Vườn-Trúc
Nalanda, nói ba lần :
-
Con xin quy-y Phật, quy-y Pháp, quy-y Tăng. Xin Phật độ con !
Sau khi nói ba lần như vậy rồi, ông liền chết. Quả thực
sanh xuống trần gian ông làm con ông Trưởng giả. Khi con ông Trưởng
giả lớn lên, một hôm gặp đức Phật khất thực ngang qua nhà. Thấy Phật,
ông liền phát tâm muốn đi tu. Sau đó ông được Phật độ tu hành chứng
quả A-La-Hán.
Qua đó, chúng ta thấy chỉ cần cận tử nghiệp hướng về
Tam-Bảo mà sau này khỏi đọa địa ngục, còn được xuất gia và tu hành
giải thoát. Như vậy cận tử nghiệp rất là quan trọng. Nếu chúng ta
không biết, để cận tử nghiệp chuyển thành ác sẽ đưa tới cõi ác. Nếu
chúng ta biết, dù trước kia có làm ác, nhưng nhờ cận tử nghiệp thiện
thì sẽ đưa tới cõi lành. Do đó người Phật tử chân chính phải nhớ, phải
biết rõ tầm quan trọng của cận tử nghiệp.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa phủ nhận tích lũy
nghiệp là nghiệp do chúng ta chứa chấp từ khi mới sanh ra cho tới già.
Nếu chúng ta làm điều lành nhiều thì gọi đó là tích lũy nghiệp thiện;
làm điều ác nhiều thì gọi là tích lũy nghiệp ác. Nếu tích lũy nghiệp
thiện, và lúc sắp lâm chung không khởi niệm ác, thì con đường thiện
nhất định sẽ đến với chúng ta. Còn nếu tích lũy nghiệp thiện nhưng khi
sắp lâm chung khởi niệm ác thì con đường thiện của chúng ta phải bị
quanh co, có khi nó dẫn mình tới chỗ dữ. Ngược lại, nếu tích lũy
nghiệp ác nhưng sắp lâm chung khởi niệm thiện thì con đường ác lý đáng
chúng ta phải chịu nhưng giờ đây chuyển sang con đường lành. Nên biết
cận tử nghiệp rất mạnh, rất đáng sợ. Quý vị nào tuổi đã lớn, hoặc hay
bệnh hoạn nên dè dặt tối đa, không nên tạo ảnh hưởng lớn gây cho chúng
ta những đau khổ sau này. Đó là tôi nói về sức mạnh của cận tử nghiệp.
Tiếp theo, tôi sẽ nói những điều cấm kỵ của người khi
sắp lâm chung. Những điều cấm kỵ là những điều không nên làm khi chúng
ta biết đạo lý.
Một là lúc sắp lâm chung cấm kỵ không nên sân giận. Dù
cho có điều gì trái ý cũng phải bỏ qua để lo cho cái chết của mình,
không nên sân giận làm gì. Nếu sân giận thì chúng ta sẽ đọa vào cõi dữ
làm những con vật hung dữ khó thể tránh khỏi. Đó là điều thứ nhất.
Thứ hai là phải dứt tâm oán thù. Nếu ôm tâm oán thù thì
khi nhắm mắt chúng ta sẽ theo nghiệp oán thù, đền đền trả trả không có
ngày cùng. Nghĩa là mình thù người, sanh ra gặp lại nhau rồi hại nhau,
đau khổ chồng chất không biết đến đâu cho hết. Vì vậy chúng ta phải
dứt tâm oán thù.
Thứ ba là tâm yêu mến con cháu, tiếc của cải, v.v… Đó là
mối hiểm họa, nghĩa là vì yêu tiếc mà đôi khi bị trầm luân hay là trở
lại làm những con vật không tốt.
Trong sử ba mươi ba vị Tổ có kể về một vị tăng Ấn-Độ tôi
không nhớ rõ tên. Một hôm Ngài đi khất thực ngang qua nhà ông Trưởng
giả. Nhưng ông Trưởng giả đi khỏi. Trong nhà có con chó chạy ra sủa
rất to. Ngài nhìn nó và quở :“Ngươi vì bệnh tiếc của mà trở lại làm
chó, đã không biết còn sủa om sòm !”. Nghe nói như vậy con chó buồn bỏ
ăn. Ông Trưởng giả về, thấy con chó cưng của mình bỏ ăn. Ông liền hỏi
lý do và được người nhà kể lại rằng hồi sớm mai có một vị Sa môn đi
ngang qua, nó thấy liền sủa. Rồi không biết ông ấy nói gì với nó, từ
đó nó buồn, bỏ ăn. Ông hỏi vị Sa môn ấy ở đâu và tìm gặp được Ngài.
Với tâm rất sân hận, ông hỏi :“Hồi sáng ông nói gì mà con chó của tôi
nó buồn đến bỏ ăn ?”. Ngài bảo :“Ông đừng nóng, để tôi nói cho ông
nghe. Con chó đó là cha của ông”. Ông càng tức hơn, hỏi :“Tại sao con
chó đó lại là cha tôi ?”. Ngài nói :“Nếu ông không tin ta, ông hãy về
tìm ngay giữa giường nơi cha ông khi xưa ngủ mà bây giờ là chỗ con chó
hay nằm đó, ông đào xuống sẽ thấy một ché vàng. Vì khi cha ông chết
không kịp trối trăn lại với ông, nên bây giờ tiếc của mới sanh trở lại
làm chó để giữ của. Nếu không tin ta, ông hãy về đào lên sẽ thấy !”
Khi ấy vị Trưởng giả không còn lớn tiếng với Tổ nữa, mà
trở về đào chỗ Tổ chỉ. Quả nhiên ông thấy có một ché vàng. Ông liền
chạy tới xin Tổ cứu cha ông. Tổ khuyên Trưởng giả nên đem của đó bố
thí để cha ông hết nghiệp. Trưởng giả nghe lời Tổ dạy liền đem ché
vàng bố thí. Sau đó con chó chết.
Như vậy, vì yêu tiếc của nên trở lại làm chó để giữ của.
Đó là điều đáng sợ. Nên ở đây tôi nhắc ba điều cấm kỵ trước khi lâm
chung, Phật tử phải nhớ đừng bao giờ để xảy ra. Tôi lặp lại, điều thứ
nhất là tâm sân giận; điều thứ hai là tâm oán thù; và điều thứ ba là
tâm yêu tiếc, tức yêu con tiếc của. Nhớ, đừng có ba tâm đó mới khỏi
đọa vào con đường khổ. Có ba tâm đó là nguy hiểm.
Nếu khi sắp lâm chung mà khởi tâm thiện thì sẽ được điều
lành, điều tốt. Tâm thiện là tâm gì ? Điều thứ nhất, khi sắp lâm chung
phát tâm bố thí, giúp đỡ người nghèo kẻ bệnh. Mình có phương tiện tới
đâu phát tâm tới đó. Điều thứ hai đối với người quy-y rồi thì phát tâm
cúng dường Tam-Bảo; còn chưa quy-y thì phát tâm quy-y Tam-Bảo để tâm
thiện tăng trưởng. Làm như vậy là đã hướng về điều thiện và sẽ đi theo
con đường thiện. Ba là phát tâm phóng sanh, nghĩa là cứu những con vật
bị người ta bắt và sẽ bị giết. Mình cứu nó bằng cách mua lại đem thả,
hoặc tìm cách nào cứu cho con vật không bị chết. Đó là phát tâm phóng
sanh.
Bố
thí, cúng dường, phát tâm phóng sanh là tâm lành. Nhờ phát tâm lành,
tự nhiên lần lần chúng ta sẽ đi theo con đường lành. Đó là những điều
tâm nên khởi khi sắp lâm chung.
Người Phật tử biết tu, khi sắp lâm chung, cần biết ứng
dụng pháp Phật dạy, gìn giữ tâm mình luôn luôn đi đúng đường, không bị
lệch lạc. Đối với người tu Tịnh độ, lâu nay chuyên niệm Phật, khi bệnh
nhiều phải ráng nhớ niệm Phật, không quên. Lúc nào tâm mình cũng hướng
về Phật không lơi lỏng, không nghĩ tới con, không nghĩ tới cháu, cũng
không nghĩ tới tài sản gì hết. Được như vậy thì nhất định sẽ đi theo
Phật không nghi ngờ. Đó là điều thứ nhất.
Thứ hai, đối với người không chuyên niệm Phật mà thường
hay xem kinh sách thì phải nhớ một bài kệ. Chẳng hạn, nếu quý vị
thường tụng Kinh Kim Cang, thì phải nhớ một bài kệ, tức là nhớ tới
Pháp giống như nhớ tới Phật, niệm Phật vậy. Chúng ta nghiên cứu Kinh
điển, học pháp của Phật thì phải nhớ pháp, như tụng bài kệ sau đây
trong Kinh Kim Cang :
Nhất thiết hữu vi
pháp
Như mộng huyễn bào
ảnh
Như lộ diệc như
điển
Ưng tác như thị quán.
Nghĩa là tất cả pháp hữu vi như mộng, như huyễn, như
bọt, như bóng, như sương mai, như điện chớp, phải luôn quán như thế.
Chúng ta tụng mãi bài kệ này thì tâm chúng ta được trong sáng, không
kinh hoàng khi sắp lâm chung. Đó là trường hợp thứ hai.
Trường hợp thứ ba, nếu người biết tu thiền, tâm được yên
tĩnh phần nào thì nhớ lúc sắp lâm chung, mình hằng sống với tâm
thanh-tịnh, đừng chạy theo tâm vọng tưởng điên đảo. Nghĩa là nhớ ngay
trong thân người bại hoại này có cái không bại hoại. Nhờ vậy chúng ta
không kinh hoàng, không sợ sệt mà hằng sống với tâm bất-sinh bất-diệt
của mình. Thân này chẳng qua là tướng hư ảo, có đó rồi mất đó, chớ
không bền. Chỉ cái thể chân thật của mình là thanh-tịnh, không-sanh,
không-diệt muôn đời. Đó là chúng ta biết tu.
Trong ba trường hợp tôi kể ở trên, người tu niệm Phật
thì chuyên niệm Phật, không nhớ chuyện đời. Người chuyên nghiên cứu
Pháp thì nhớ một bài kệ. Người tu Thiền thì nhớ ngay nơi mình có cái
chẳng sanh-diệt, hằng thanh-tịnh, không có gì đáng sợ, không có gì
đáng lo. Người biết tu nhớ được những điều này thì không bị mê muội,
không có gì sợ hãi, ra đi êm ái nhẹ nhàng. Đó là những điều tôi nhắc
cho quý vị khi sắp lâm chung.
Bây giờ tôi nói tới hậu sự, tức là việc sau khi mình
chết. Nhiều vị nghĩ rằng khi mình chết phải trối trăn lại với con cháu
làm thế này, làm thế kia cho mình. Điều đó là dư. Tại sao ? Bởi vì
thân này do tứ đại hòa hợp mà thành, chúng ta sống cũng mượn tứ đại mà
sống : uống nước giúp cho thủy đại, ăn giúp cho địa đại, thở giúp cho
phong đại, v.v… Như vậy bốn đại đó nhờ vay mượn bên ngoài mới tồn tại.
Đến khi chết là không vay mượn nữa thì trả về cho tứ
đại. Tứ đại trả về tứ đại thì chỗ nào cũng là tứ đại hết. Tại xứ
người, tứ đại cũng là tứ đại; ở quê hương mình thì tứ đại cũng là tứ
đại. Đừng nghĩ bỏ thân ở xứ người là thiệt thòi. Thiệt thòi nhất là
cái tâm, tinh thần của mình ra đi mà không sáng suốt, đó mới thật
thiệt thòi. Còn thân tứ đại này bỏ ở đâu cũng được hết. Người ta hay
nói thân này là thân cát bụi cho nên khi chết trả về cho cát bụi, chứ
không phải trả về xứ mình, thành vàng thành ngọc gì, cho nên đừng quan
trọng nó.
Thân này để cho con cháu giải quyết bằng cách nào thuận
lợi nhất thì tốt, mình khỏi cần dặn dò gì hết, khỏi cần bắt buộc gì
hết. Dặn dò bắt buộc nhiều khi làm cho con cháu càng thêm lúng túng.
Thí dụ nơi đó không có lò thiêu mà bảo phải thiêu, trong khi có đất
chôn mà không chịu chôn. Hay ngược lại, chỗ đó không có đất chôn mà có
lò thiêu, mình lại không chịu, nói thiêu nóng lắm, phải tìm đất chôn.
Như vậy con cháu lo sợ không biết tìm đất đâu mà chôn, càng làm cực
khổ cho người sống chớ không có ích lợi gì. Đã là thân tứ đại hoại rồi
thì còn biết gì nữa mà sợ nóng, còn biết gì nữa mà đòi đem về quê
hương. Biết chăng là cái tinh thần, cái tâm của mình. Do đó quý vị
đừng có lầm lẫn thân này phải trở về quê mình mới tốt. Nghĩ như vậy là
sai lầm. Chính cái tâm của chúng ta, tâm sáng thì đi tới chỗ tốt, điều
đó mới quan trọng.
Đó
là những lời nhắc nhở để quý vị biết sau khi chúng ta có trăm tuổi,
không làm phiền hà cho con cháu.
Tôi chỉ nói một phần ngắn cho quý vị biết khi đau, bệnh
và già sắp lâm chung. Theo đó, quý vị có hướng chọn lựa, đừng bị tâm
phàm tục làm cho mình đau khổ ngay hiện tại và kéo dài sau khi lâm
chung. Đó là những điều thiết yếu. Mong rằng tất cả quí Phật tử nghe
rồi, khéo ứng dụng để tự cứu mình, đó cũng là lời Phật dạy cho chúng
ta thoát khổ.
( Giảng Tại Thiền Viện
Thường Chiếu – Năm 1996 )
Lâu lắm chúng tôi không có cơ hội về giảng cũng như nhắc nhở sự
tu hành cho toàn thể chư Tăng, Ni ở khu Đại Tòng Lâm. Hôm nay được Ban
Tổ chức trường hạ Đại Tòng Lâm mời về thăm và nói chuyện với tất cả
Tăng, Ni và Phật tử nơi đây, tôi liền hoan hỷ chấp nhận.
Đối với chúng tôi Đại Tòng Lâm là nơi mà tôi cảm thấy mình có
một trọng trách, hoặc nhiều hoặc ít cùng chung lo với quí thầy ở đây.
Vì trước kia Hòa thượng Giám Đốc và Phó Giám Đốc ở Ấn Quang, khi thành
lập được khu Đại Tòng Lâm thì chúng tôi có mặt bên cạnh, vâng lời dạy
của các Ngài phụ giúp phần nào đối với cơ sở này. Giờ đây hai Hòa
thượng đã theo Phật, chúng tôi những người còn sót lại tự nhiên cảm
thấy bổn phận phải làm sao duy trì gìn giữ ngôi Đại Tòng Lâm này đúng
như sở nguyện của hai Hòa thượng.
Tất cả những vị ở Đại Tòng Lâm, hoặc là trường Trung cấp, hoặc
là trường Cao cấp, hoặc các Thiền viện do chúng tôi thành lập trong
khu vực này đều là Tăng Ni chung của Đại Tòng Lâm, mà cũng là của
Phật-Giáo Việt-Nam, chúng ta không thể tách riêng biệt được. Vì vậy
khi cần, chúng tôi sẵn sàng đến để nhắc nhở Tăng Ni, Phật tử hiểu biết
tu hành cho đúng với chánh pháp.
Mùa an cư này chư Tăng, chư Ni về đây an cư là cơ hội tốt để
Đại Tòng Lâm càng ngày càng phồn thịnh hơn, sự tu hành càng tinh tiến
hơn, đó là điều hết sức quí báu. Vì vậy tôi nghĩ không thể nào chỉ nói
suông, tán thán một cách tổng quát như vậy mà cần phải đi sâu vào vấn
đề đạo lý, để cho Tăng Ni và tất cả quí vị nghe hiểu có kinh nghiệm
thêm trên đường tu hành. Đó mới là điều quí giá. Vấn đề tôi nói hôm
nay là hai vấn đề tối hệ trọng của những người tu Phật, đó là trí tuệ
và từ bi.
Như chúng ta đã biết đạo Phật là đạo giác ngộ. Đức Phật ngồi
thiền định dưới cội Bồ-đề mà được giác ngộ. Ngài đi giáo hóa khắp nơi
để truyền đạo giác ngộ này. Nhưng sao chúng ta không gọi là đạo giác
ngộ mà gọi là đạo Phật. Phật nguyên tiếng Phạn là Buddha, Bud là giác,
dha là người. Người giác ngộ đi truyền bá đạo giác ngộ. Nhưng nếu giải
nghĩa chữ Phật là giác ngộ thì sợ người ta hiểu lầm. Bởi có những
người làm ăn bất chính không lương thiện, khi có ai nhắc nhở dạy bảo,
họ bỏ điều bất chính trở thành người lương thiện thì người ta sẽ nói
anh ấy đã giác ngộ rồi. Giác ngộ đó chỉ có nghĩa là bỏ cái xấu, cái dở
để trở thành người tốt thôi. Nếu hiểu đạo Phật theo nghĩa giác ngộ như
vậy thì đánh giá quá thấp đạo Phật, làm mất giá trị siêu thoát của đạo
Phật. Bởi vậy trong nhà Phật để nguyên từ Phật.
Nói Phật chắc quí vị sẽ có nghi. Tại sao bây giờ chúng ta nói
đức Phật mà hồi xưa ông bà tổ tiên chúng ta lại nói là Bụt. Như vậy
nói Bụt trúng hay nói Phật trúng ? Từ Bụt cho chúng ta thấy đạo Phật
được trực tiếp truyền vào Việt-Nam từ những vị sư Ấn-Độ. Ngày xưa ở
miền Bắc vùng Luy-Lâu rất phồn thịnh, các sư người Ấn theo tàu
buôn đến đó truyền bá. Các ngài trực tiếp dạy người dân biết đạo Phật,
và đức Phật được gọi là Bụt. Bụt nguyên là Bud, đọc trại đi một tí
thành Bụt. Đọc Bụt nghe gần hơn, còn đọc Phật nghe xa quá. Vậy đạo
Phật có mặt trên đất nước Việt-Nam gốc từ người Ấn truyền sang, chớ
không phải từ Trung-Hoa truyền sang buổi đầu.
Tại sao bây giờ chúng ta đọc là Phật ? Ở Trung-Hoa từ đời Tống
đến đời Minh có in những tạng kinh dịch từ chữ Phạn, chữ Pali ra chữ
Hán rồi tặng cho Việt-Nam. Đời Trần được tặng một tạng kinh và sau này
chúng ta cũng có thỉnh thêm những tạng kinh từ Trung-Hoa. Chữ Buddha
người Trung-Hoa dịch gồm một bên chữ nhân đứng, một bên chữ phất. Như
vậy Phật là phát sinh từ chữ Hán mà ta đọc theo âm Việt-Nam là Phật
hay Phật đà.
Nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ viên mãn tuyệt cùng,
chớ không phải sự giác ngộ thông thường của thế gian, vì e người ta
hiểu lầm nên để nguyên âm là Phật, chớ không nói là giác ngộ. Giờ đây
chúng ta học Phật phải dùng những từ gần thời hiện tại như giác ngộ,
trí tuệ để dễ thâm nhập hơn.
Vì vậy chúng ta phải hiểu tường tận gốc của đạo Phật là giác
ngộ viên mãn. Nên người tu Phật lúc nào cũng phải thuộc lòng Phật là
tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn. Nói đến Phật là nói đến sự giác
ngộ viên mãn, tức giác ngộ tròn đầy không thiếu khuyết một góc cạnh
nào.
Chúng ta học Phật, tu Phật là tu theo đạo giác ngộ. Mà đạo giác
ngộ dĩ nhiên trí tuệ là căn bản không thể nào thiếu được. Người tu
theo Phật dù xuất gia hay tại gia cũng phải mở sáng con mắt trí tuệ.
Chúng ta hãy xét lại xem từ ngày phát tâm tu theo Phật đến giờ đã mở
sáng trí tuệ được nhiều hay ít ? Có người khi nghe đến trí tuệ dường
như sợ nên thường xưng ngu tăng hay phàm tăng như để nói lên sự khiêm
nhường, họ ít nói đến sự giác ngộ. Mà chưa giác ngộ thì chưa phải tu
theo đạo Phật. Ở đây, tôi không nói đến giác ngộ mà chỉ nói trí tuệ.
Bởi vì trí tuệ mở màn cho giác ngộ cứu kính.
Chúng ta nhớ lời Phật dạy, người tu phải tự giác và giác tha.
Tự giác là mở sáng trí tuệ của mình. Giác tha là đem trí tuệ đó đánh
thức, cảnh tỉnh mọi người cùng giác ngộ. Tự giác là việc của mình.
Giác tha là giúp cho người. Giúp cho người là lòng từ bi. Cho nên có
giác ngộ rồi mới có từ bi. Chưa giác ngộ mà nói đến từ bi, chỉ là từ
bi gượng thôi.
Nếu một vị tăng đã thấy bổn phận mình phải truyền bá chánh
pháp, phải thực hành hạnh từ bi mà không chịu tu, không thức tỉnh,
không chịu giác ngộ thì chẳng biết vị ấy sẽ thực hành hạnh từ bi bằng
cách nào ? Chẳng lẽ chúng ta đi đắp đất, cuốc đường hay hốt rác cho
thiên hạ. Từ bi như vậy người phàm tục cũng làm được mà. Vậy từ bi
trong Đạo Phật là thế nào ? Tôi sẽ nói rõ hơn vấn đề này ở phần
sau.
Bây giờ trở lại phần trí tuệ. Trí tuệ mà Phật dạy cho Tăng Ni
là ba môn tuệ học : Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ.
Văn tuệ là như thế nào ? Chúng ta đến với đạo, tự mình làm sao
giác được. Nên phải nhờ những người đi trước như bậc thầy, các hàng
tôn túc đã tu, đã học, đã mở được đôi phần trí tuệ hướng dẫn, chỉ dạy
cho chúng ta từ từ mở con mắt trí tuệ. Nhờ lắng nghe những lời chỉ
dẫn, giảng dạy ấy mà chúng ta mở được con mắt trí tuệ của mình là Văn
tuệ. Người tu cất thất ở riêng, không học hành gì hết chắc chắn sẽ
không có Văn tuệ. Không có Văn tuệ mà tu thì chỉ là tu mù. Những người
tu này khi chỉ dạy cho kẻ khác thì cũng chỉ dạy một cách mù quáng mà
thôi. Trong kinh Phật nói :“Một người mù dẫn một đám mù, người mù đi
trước sụp hầm, những kẻ mù theo sau cũng té xuống hầm luôn”. Người học
Phật mà thiếu Văn tuệ không thể được.
Trong kinh A Hàm Phật dạy : Người cư sĩ đến chùa đầu tiên phải
gặp Tăng, Ni. Gặp Tăng Ni để thưa hỏi Phật pháp chớ không phải để cúng
cầu an cầu siêu, như vậy là Văn tuệ. Sau khi nghe chư Tăng, Ni dạy
Phật pháp rồi phải suy gẫm lời thầy dạy có đúng với kinh Phật không,
có đúng với lẽ thật chân lý không ? Nếu đúng mới tin, còn dạy sai, dạy
lầm thì không tin. Cho nên Tư tuệ hết sức thiết yếu. Sau khi suy tư
nghiệm thấy đúng kinh Phật, đúng chân lý rồi mới tu. Phật dạy cư sĩ
còn như vậy huống là tu sĩ xuất gia mà lại thiếu Văn, Tư, Tu. Thế mà
có nhiều tu sĩ cứ tự tu không cần học với ai cả thì thật sự hết sức
sai lầm.
Tư tuệ là như thế nào ? Phật dạy chúng ta nghe rồi phải suy
gẫm, suy gẫm đó chính là tư duy, phải là chánh tư duy. Nếu nghe dạy
chúng ta tin mà không hiểu, thì tin đó chưa phải là chánh. Cần phải
suy gẫm cho đúng, hiểu cho đúng mới gọi là chánh.
Hồi xưa lúc còn làm Tăng sinh, tôi cũng học như quí vị. Những
gì tôi không hiểu thì tôi hay nghi, nghi thì phải tra tìm. Những năm
Sơ đẳng, tôi học lý nhân-quả luân-hồi kỹ lắm, nhưng khi học cổ sử
Ấn-Độ tôi thấy lý nghiệp-báo luân-hồi không phải mới có từ thời đức
Phật, mà đã có từ thời Áo nghĩa thư của Ấn Độ, tức trước Phật cả mấy
trăm năm. Biết được vậy tôi rất buồn, tôi nghĩ Phật đã giác ngộ rồi
sao không lựa điều gì mới, mà lại lấy cái cũ của người ta đem ra dạy
mình.
Có lần tôi đọc cuốn sách của một số học giả phê bình rằng :“Đạo
Phật ăn cắp lý nghiệp-báo của Áo-nghĩa-thư làm của mình”. Đọc đến đó
tôi thấy xót quá, khó chịu quá. Đức Phật của mình sao lôi thôi vậy,
của người ăn cắp đem làm của mình thì thật là buồn. Lâu nay chúng ta
tin rằng đức Phật giác ngộ viên mãn thì những gì Phật dạy đều từ trí
tuệ giác ngộ của Ngài lưu xuất. Thế sao lại ăn cắp của người ta đem
làm của mình, tôi không bằng lòng như vậy.
Khi lên Trung đẳng, rồi Cao đẳng tôi đã tra hết các bộ kinh A
Hàm trong Hán tạng. Đọc một lần chưa thấm, đọc hai lần rồi ba lần, tôi
có nguồn an ủi. Trong một bài kinh đức Phật dạy: “Khi Ngài chứng được
Thiên nhãn minh rồi, nhìn lại thấy chúng sanh bị nghiệp dẫn luân hồi
sanh tử giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường,
thấy kẻ đi đường này, người đi đường kia một cách rõ ràng không nghi”.
Như vậy sở dĩ Phật nói luân hồi nhân quả hay nghiệp dẫn luân hồi là
Ngài thấy rõ ràng, chớ không phải ăn cắp như người ta nói
xấu.
Rồi lần lần tôi lại thấy ra, trong Áo-nghĩa-thư có nói về
nghiệp báo luân hồi nhưng chưa phân tích rõ ràng. Nên khi đạo
Bà-la-môn kế thừa tinh thần của Áo-nghĩa-thư, mới đặt ra bốn giai cấp.
Trong đó Bà-la-môn được sanh ra từ đầu của Phạm thiên nên được kính
trọng nhất, còn các giai cấp khác được sinh từ ngực, từ bụng, từ bàn
chân nên không được kính trọng bằng. Sự phân chia giai cấp này khiến
người dân càng khổ, đó là điều thứ nhứt.
Điều thứ hai, dù họ nói nghiệp báo luân hồi nhưng phải nhờ các
vị Bà-la-môn cầu cúng thì mới hết nghiệp hết tội. Hoặc phải mở những
hội tế đàn nào là trâu, dê cúng cho nhiều thì mới hết tội. Cả hai điều
này đều bị Phật bác hết. Về mặt giai cấp, Phật bảo không có giai cấp
khi mọi người máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn như nhau, nên mọi người
đều bình đẳng.
Kinh kể hôm nọ Phật ở trong rừng với đệ tử, một số thầy
Bà-la-môn đến hỏi Phật :“Thưa ngài Cù-đàm, đệ tử Ngài chết Ngài cầu
cho họ sanh về cõi lành được không ?”
Phật không trả lời mà chỉ hỏi lại :“Đệ tử các ông chết các ông
cầu cho họ sanh về cõi lành được không?Các vị Bà-la-môn đáp :“Được”.
Lúc đó Phật nói thí dụ :“Như nơi một giếng sâu, có người ôm cục
đá bỏ xuống giếng rồi nhờ các Ngài cầu cho nó nổi, đừng chìm được
không ? Các vị Bà-la-môn đều lắc đầu, Phật hỏi tiếp :“Có người cầm
chai dầu đổ xuống giếng, rồi nhờ các Ngài cầu cho dầu chìm xuống đáy
giếng được không ?”. Các vị Bà-la-môn cũng lắc đầu. Phật nói :“Cũng
vậy, người làm nghiệp lành sẽ sanh cõi lành giống như dầu nhẹ nổi lên,
dầu các vị có ác ý cầu cho xuống địa ngục họ cũng không xuống. Ngược
lại người làm dữ phải đi xuống giống như đá, dầu các vị có thiện cảm
chấp tay cầu nguyện cũng không nổi lên được !”
Vậy đức Phật chấp nhận cầu nguyện hay chấp nhận nghiệp ? Nghiệp
lành, nghiệp dữ đưa mình lên hoặc lôi mình xuống, chớ không phải cầu
nguyện mà được lên hoặc xuống. Đức Phật thấy rõ về nghiệp, cho nên
Ngài biết manh mối nào đưa chúng sanh tới cõi lành, manh mối nào đưa
chúng sanh tới cõi dữ.
Trong nhà Phật dạy chúng ta có ngũ thừa là : Nhân thừa, Thiên
thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa : Nhân thừa là
sanh trở lại làm người, Phật dạy tu giữ năm giới. Năm giới nếu giữ
toàn vẹn bảo đảm người đó đời này làm người, đời sau chết trở lại làm
người. Tu thập thiện, sau khi mạng chung sẽ sanh lên cõi trời. Mỗi một
nhân đưa tới một quả, Phật thấy tường tận rõ ràng như thế. Còn
Áo-nghĩa-thư của Bà-la-môn giáo nói nghiệp báo không phân biệt rành
rõ, chưa biết cái gì nhân cái gì quả nên chưa thấu đáo. Do đó nên biết
Phật nói nghiệp, nói luân hồi là vì Ngài thấy tường tận, chớ không
phải ăn cắp của người làm của mình. Khi thấy rõ như vậy, tôi không còn
nghi, không còn mặc cảm nữa.
Ông Galilée vào thế kỷ thứ 18 phát minh ra trái đất quay xung
quanh mặt trời. Ai nói sao ông vẫn nhất định là trái đất quay xung
quanh mặt trời, chớ không phải mặt trời quay xung quanh trái đất. Từ
thế kỷ 18 tới bây giờ, có nhiều nhà khoa học nổi danh nhưng không ai
bác bỏ thuyết của ông cả. Bởi vì người trước phát minh đúng thì người
sau cũng lấy cái đó làm chuẩn, rồi tùy phát minh thêm điểm nào hay thì
càng tốt hơn. Như ngày nay các nhà thiên văn suy ngẫm trái đất quay
như vậy, khi nó bị khuất thì có nhựt thực, nguyệt thực nên họ ghi ra.
Đó là bổ túc thêm cho đầy đủ, chớ không phải cái trước đúng mà người
sau dám sửa. Cái gì là chân lý rồi, người sau cũng phải thừa
nhận.
Đức Phật rất khoa học, từ thời Áo-nghĩa-thư đã có thuyết
nghiệp, luân hồi. Sau Ngài tu thấy điều đó đúng nên cũng thừa nhận.
Nhưng khác hơn là Ngài vạch rõ từng phần chi tiết, thế nào là nhân,
thế nào là quả, Ngài phân tích rành cho chúng ta. Đó là tinh thần khoa
học chớ không phải học lóm. Từ đó về sau tôi mới hài lòng, đức Phật
không phải dở như người ta nói.
Nói về lý nghiệp báo luân hồi, sau khi suy tư kỹ càng, tôi thấy
đó là một chân lý không chối cãi được. Ai có nói gì cũng không lay
chuyển được tôi, vì đó là một sự thật. Tại sao tôi tin như vậy ? Bởi
kinh nghiệm từ những việc bên ngoài, cho tới bản thân mình tôi thấy rõ
như vậy.
Luân hồi là gì ? Luân là bánh xe, hồi là xoay tròn. Bánh xe
xoay tròn lên xuống, lên xuống cứ đảo đi lộn lại hoài. Đối với ngoại
vật, chúng ta đặt câu hỏi trái đất có xoay tròn không? Trái đất cứ
xoay tròn, xoay tròn, vậy nên trái đất luân hồi. Đến con người, chúng
ta thấy máu từ tim chạy ra các mạch, rồi từ các mạch trở về tim, cứ
như vậy đảo đi lộn lại hoài, đó là luân hồi. Rõ ràng con người đang
luân hồi, quả đất đang luân hồi, vậy chết có luân hồi không ? Tôi nói
hai phần :
1-Vật chất : Thân chúng ta gồm tứ đại tức bốn chất đất, nước,
gió, lửa hợp thành. Những gì là đất ? Tóc, lông, gân, móng, da, thịt,
răng, xương … những thứ cứng là đất. Những gì là nước ? Mồ hôi, máu mủ
tức chất ướt là nước. Những gì là gió ? Hơi thở vào ra, vào ra là gió.
Những gì là lửa ? Hơi ấm trong người là lửa, cầm hai tay chà một hồi
ấm lên, đó là phát ra lửa.
Đất, nước, gió, lửa sẵn trong con người chúng ta, khi chết bốn
thứ đó đi đâu ? Nhẹ nhất là hơi thở, lúc sống hít vô trả ra, khi trả
ra mà không hít lại là chết. Vậy chúng ta trả ra chớ không phải hết,
không phải mất. Thứ hai là hơi ấm trong người, chúng ta chết rồi nó
cũng tan vào hư không, theo luồng hơi ấm trong nắng trong lửa, trở về
với lửa. Đến đất, nước khi chết thân này nứt nẻ nước tuôn ra, rồi tới
đất rã. Nước theo mạch chảy đi khắp nơi cũng không mất, đất cũng trả
về đất không mất. Như vậy tứ đại mất đi chỉ mất cái giả tướng duyên
hợp, chớ bản chất nó đâu có mất.
2-Tinh thần : Tứ đại không mất thì tinh thần có mất được không
? Tinh thần đi theo nghiệp duyên của nó. Ví dụ nước từ thể lỏng đổ vào
trong nồi nấu, nước sôi bốc hơi rồi cạn. Nước cạn người ta nói hết
nước, nhưng thật ra nước bốc thành hơi bay lên, gặp lạnh đọng lại
thành nước rơi trở xuống. Hoặc lấy một ly nước để trong tủ lạnh thì nó
sẽ đặc thành thể cứng. Như vậy nước không mất mà có thể chuyển biến từ
thể lỏng thành hơi hoặc thể rắn. Nước để ở nhiệt độ vừa chừng, không
nóng quá, không lạnh quá thì nước còn hoài.
Cũng vậy người tu có duyên lành nhiều, nghiệp lành nhiều khi
nhắm mắt sẽ đưa tới cõi lành, tức lên. Ngược lại nghiệp dữ nhiều sẽ
đưa tới chỗ dữ, tức xuống. Nếu tư cách con người tốt, vị lai trở lại
làm người, như nước giữ quân bình không lạnh nóng thì ở thể lỏng hoài.
Phật dạy nhân thừa là do giữ đúng năm giới nên đời này làm người đời
sau cũng được làm người. Như nước y nguyên nhiệt độ đừng cao đừng thấp
thì bao nhiêu nước còn nguyên bấy nhiêu. Đó là một lẽ thực không nghi
ngờ gì.
Chúng ta khi ra đời còn trẻ, đáng lẽ ham danh lợi tài sắc ở thế
gian, nhưng tại sao lại ham tu ? Như vậy do trong nghiệp từ quá khứ
của chúng ta còn lưu lại. Như tôi khi chưa đi tu, mỗi lần qua chùa
nghe tiếng chuông, thấy xôn xao trong lòng quá. Cái gì làm cho mình
bất an, nếu không phải là chủng tử trước kia ?
Mỗi khi chúng ta ra đời, nghiệp từ quá khứ còn lưu lại trong
con người hiện tại chớ không phải mất. Nếu chúng ta nhìn vào một lớp
học thì biết rõ sự sai biệt, người giỏi về văn, người giỏi về toán …
Thầy cô dạy như nhau nhưng điểm riêng biệt của mỗi học trò lại khác.
Điểm đó ở đâu ra ? Chẳng qua chủng tử từ quá khứ còn lưu lại nơi mỗi
người, nên không ai giống ai. Nếu nói do thầy cô dạy mới biết, thì tại
sao biết như nhau mà lại có sự sai lệch. Rõ ràng do chủng tử từ quá
khứ chớ không phải ngẫu nhiên. Như những vị thần đồng chưa học mà đã
biết, đâu do ai dạy. Đó là chủng tử quá khứ còn nguyên vẹn chưa mất
nên ra đời nhớ lại liền. Vậy luân hồi là một lẽ thật, không phải là
một nghi vấn nữa.
Khi học Phật, chúng ta cần phải suy tư, chớ không chỉ nghe bao
nhiêu biết bao nhiêu thôi. Phải tìm, phải gẫm cho tới nơi tới chốn,
như vậy chúng ta mới đủ lòng tin Phật. Do đó Tư tuệ là một điều hết
sức thiết yếu.
Tu tuệ là như thế nào ? Tư chí lý rồi đến tu rất dễ, không còn
nghi ngờ gì nữa. Nhờ nghe hiểu, suy gẫm và biết cách ứng dụng những
pháp mình đã học được vào đời sống tu hành, thấy có lợi ích. Đây chính
là Tu tuệ. Ba vấn đề Văn, Tư, Tu đều là trí tuệ. Trí tuệ từ thầy ban
cho, trí tuệ do mình suy gẫm, trí tuệ do mình cố gắng thực hành, cho
nên ba Tuệ học ấy không thể thiếu được.
Nhà Phật nói trí tuệ có hai phần : Một là Hữu sư trí, tức trí
học nơi thầy như Văn Tư Tu. Hai là Vô sư trí, tức trí sẵn có của mình,
không do học. Đó là tam Vô lậu học, tức ba môn học giải thoát Giới,
Định, Tuệ. Giới là đức hạnh, Định là thiền định, Tuệ là trí tuệ. Nhờ
giữ được giới nên thiền định không bị xao xuyến. Vì vậy giới trước rồi
định sau. Nhờ thiền định nên trí vô sư phát sinh là tuệ.
Tại sao thiền định được trí vô sư ? Khi thiền không nghĩ gì cả
nên được định, được định nên trí sáng giác ngộ, đó là trí không thầy.
Trong kinh có kể lại : Đức Phật sau khi thành Phật rồi, Ngài tuyên bố
ta học đạo không thầy. Bởi vì bốn mươi chín ngày đêm ngồi dưới cội
Bồ-đề Ngài không học với ai cả, mà nhờ định nên được giác ngộ. Vì vậy
nói Ngài học đạo không có thầy.
Phật giác ngộ viên mãn Trí vô sư, ngày nay chúng ta tu muốn
giải thoát sanh tử cũng phải đi tới Trí vô sư đó, nên nói Giới, Định,
Tuệ là ba pháp môn tu được giải thoát. Chữ vô lậu là không còn rơi,
không còn rớt lại Tam giới nên gọi là giải thoát sanh tử. Như vậy
người học Phật phải đủ trí tuệ, từ Hữu sư trí rồi tiến tới Vô sư trí.
Hữu sư trí là nhờ học, Vô sư trí là nhờ tu. Đó là hai phần hết sức rõ
ràng.
Điều hệ trọng thứ hai là từ bi. Bởi vì chúng ta không có quyền
nghĩ mình tu để hưởng an lạc một mình. Tại sao ? Đức Phật ngày xưa chủ
trương đi khất thực là vì sao ? Khất thực tức là gieo duyên với chúng
sanh. Tôi nói là lãnh nợ của chúng sanh. Nếu chúng ta tu mà đối với
mọi người không có liên hệ, không trao qua đổi lại thì không có gì
dính dáng. Mà không có dính dáng thì giáo hóa họ không được, nên Phật
dạy tu sĩ phải nhận của đàn na thí chủ cúng dường. Có những thí chủ
rất nghèo cúng dường nhưng chúng ta cũng phải nhận. Nhận để chi ? Để
người đó gởi mình, mình nhận nợ. Nên từ gieo duyên là nói cho đẹp,
thật ra chúng ta nhận nợ. Có nợ thì mới gặp lại để đền trả.
Trả nợ có hai cách : Nếu chúng ta không tu không đủ phước đức
thì phải mang lông đội sừng để trả nợ. Nếu chúng ta tu hành có đủ
phước đức thì trả bằng cách làm thầy. Bây giờ tôi cũng đang trả nợ đó.
Bởi vì chúng ta đều có duyên có nợ với nhau nên mới gặp nhau, còn
không duyên không nợ thì không gặp. Gặp để chúng ta giáo hóa, chúng ta
chỉ dạy người có duyên với mình. Vì vậy người tu đều phải phát tâm từ
bi nhận tất cả những gì của Phật tử gởi gấm. Không phải nhận vì ích
kỷ, mà nhận để có duyên hay có chút nợ nần với nhau, hầu giáo hoá giúp
đỡ trên đường đạo.
Người xuất gia do Phật tử ủng hộ, nếu hiểu đạo rồi lo tu cho
giải thoát, về Cực-Lạc hoặc nhập Niết-bàn, bỏ mọi người ở lại ra sao
thì ra, như vậy có hơi nhẫn tâm không ? Mình tu giải thoát nhập
Niết-bàn không bao giờ trở lại nữa, những người cúng cho mình thấy
chúng ta nhập Niết-bàn, bỏ họ bơ vơ buồn khổ, thật tội nghiệp cho họ !
Vì vậy với tinh thần Phật giáo Đại thừa, người tu không nỡ nhập Niết-
bàn liền, mà phải đi đi lại lại trong cõi thế gian này để giáo hóa, để
trả nợ. Đến chừng nào thí chủ của chúng ta hiểu được tu tập được, mình
mới yên.
Thí dụ như trong Tứ quả Thanh văn, chúng ta được quả thứ ba là
A Na Hàm, thì ít ra đệ tử của mình cũng được quả thứ nhất là Tu Đà
Hoàn. Nếu mình tới Bồ tát Thập trụ, thì đệ tử cũng tới Thập tín mới
được. Khi tu thiên hạ nuôi, đến thành tựu chúng ta lại hưởng một mình,
như vậy có buồn không ? Giả sử tôi là quí Phật tử, tôi cũng không chấp
nhận điều đó nữa. Quí thầy ăn gian quá đâu được. Vậy mà có người tha
thiết tu một đời này để về Cực-Lạc cho rồi, ở đây khổ quá. Về bên đó
vui có một mình, bỏ người ta ở đây khổ, ai mà đành lòng. Thôi thì cùng
ở với nhau nhưng ở trong sự tỉnh giác chớ không phải trong cái mê mờ,
nhớ như vậy.
Tinh thần từ bi của Đạo Phật dạy chúng ta phải làm sao đem lại
cho mọi người ánh sáng đạo lý, để cho họ biết được lẽ chân thật, không
tạo những điều đau khổ, luôn luôn tiến tới chỗ an vui. Lòng từ bi
chúng ta không thể nói suông mà phải được thể hiện cụ thể. Muốn thể
hiện lòng từ bi chúng ta phải thực hành hạnh bố thí : bố thí tài, bố
thí pháp, bố thí vô-úy. Phải đem của cải, hoặc đem chánh pháp mình
hiểu hoặc đem sự tốt lành cao quý an ủi người đau khổ. Đó mới thể hiện
lòng từ bi.
Bố thí tài phần lớn dành cho cư sĩ Phật tử vì họ làm ra tiền.
Họ mới có điều kiện giúp đỡ người nghèo khổ. Còn các Sư có làm ra xu
con nào đâu ? Nếu có chăng cũng ăn mày của đàn na thí chủ chớ đâu phải
tự mình có tiền lương mỗi tháng. Hàng Phật tử cũng có người làm ra
tiền của, có người nghèo cháy da, vậy làm sao bố thí ? Nên Phật dạy
tài thí có hai phần ngoại tài và nội tài.
Người Phật tử muốn thể hiện lòng từ bi mà không có tiền bạc
giúp cho người nghèo đói thì đem công sức của mình ra giúp. Người có
tiền tới chùa cúng, người không tiền vào chùa làm công quả. Người có
tiền cho tiền, người không tiền ra công đi ủy lạo, khuân vác cũng là
bố thí. Nên hiểu có tiền mới bố thí được là lầm. Đem của bố thí là
ngoại tài, đem công bố thí là nội tài, như vậy có ai không làm được
hạnh bố thí đâu.
Bố thí pháp là phần của Tăng Ni. Tăng Ni tu thấy được cái hay,
cái cao quí của Phật pháp, đem sự hiểu biết đó ban rải cho Phật tử
cùng biết cùng hiểu như mình. Đem pháp mình đã tu học được, chỉ dạy
cho người khác gọi là bố thí pháp.
Bố thí tài, bố thí pháp cái nào tốt hơn ? Bố thí tài chỉ giúp
người bớt khổ trong giai đoạn hiện tại. Còn bố thí pháp chẳng những
giúp người hết khổ trong hiện tại mà mãi về sau cũng không còn khổ
nữa, đó là điểm sâu xa.
Ví dụ chú đạp xích lô có một vợ hai con, mỗi ngày chạy xe kiếm
được hai ba chục ngàn nuôi vợ nuôi con. Nhưng nếu chiều vô quán nhậu
hết thì vợ con đói khổ. Người hàng xóm thấy thương, đem ít lít gạo lại
cho, đó là bố thí tài. Rồi mai chú đạp xe có tiền cũng nhậu hết như
vậy thì sao, cho đến chừng nào mới đủ, chừng nào gia đình mới ấm no.
Bây giờ có một thầy, một cô nào đó sáng suốt tới khuyên chú, nói với
chú uống rượu có hại gì, bệnh hoạn ra sao, rồi vì uống rượu mà không
đủ tiền nuôi vợ con, làm vợ con đói khổ. Chú nghe hiểu, thức tỉnh bỏ
rượu. Như vậy chúng ta chỉ nói chuyện một giờ, nửa giờ mà chú thức
tỉnh bỏ rượu. Từ đó làm được bao nhiêu tiền chú đem về nuôi vợ con.
Như vậy bố thí pháp không có cạn hết. Chỉ dùng lời nói, lý lẽ chân
thật khuyên chỉ người, khi người tỉnh ngộ rồi gia đình hết khổ. Còn
nếu cho tiền cho cơm hằng ngày, thì họ chỉ hết khổ tạm rồi mai mốt sẽ
khổ nữa. Như vậy cái nào hơn ?
Có kẻ cho rằng người tu Phật tiêu cực quá, nhất là Tăng, Ni
không chịu làm phước, làm việc xã hội, cứ đi nói pháp hoài. Những
người tích cực làm việc này, việc kia giúp cho đồng bào rất dễ thấy,
còn người nói pháp xem như không có lợi ích gì. Nhưng thật tình việc
này lợi rất lớn. Nên trong hai thứ bố thí : bố thí tài và bố thí pháp
thì bố thí pháp là hơn.
Bố thí pháp là đem lòng từ bi của mình chỉ dạy nhắc nhở mọi
người biết tu, chỉ dạy nhiều chừng nào tốt chừng ấy. Giả sử tôi có
mười ngàn đồng muốn đem bố thí, nếu tôi cho mỗi người một ngàn đồng,
thì cho mười người là hết. Còn tôi bố thí pháp thì có một trăm người,
tôi cũng bố thí trọn đủ hết. Vậy bố thí pháp là bất tận. Chúng ta học
đạo phải học cái bất tận, còn những việc có chừng mực, có giới hạn
chúng ta làm một phần nhỏ thôi, gốc là phải bố thí pháp. Muốn bố thí
pháp, chúng ta phải có học có tu và có lòng từ bi. Vì vậy từ bi sau
trí tuệ. Hai việc đó không tách rời nhau.
Bố thí vô-úy là sao ? Vô-úy là không sợ. Chúng ta mang tới cho
người niềm an ổn không sợ hãi. Không sợ này có nhiều thứ : Sợ ma, sợ
rắn, sợ cọp … đủ thứ sợ.
Thí dụ đối với người sợ ma, chúng ta muốn cho họ khỏi sợ, phải
giải thích cho họ hiểu ma không đáng sợ. Phật dạy trong lục đạo luân
hồi : địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh, người, A-tu-la, trời, thì ngạ quỷ
là loại quỷ đói đứng thứ hai, người cao hơn ngạ-quỷ hai cấp. Mình cao
hơn nó mà lại sợ nó thì vô lý quá. Chẳng lẽ ông Tỉnh trưởng lại sợ
người dân, người lại sợ ma thì thật ngu khờ. Giải thích cho người biết
và hết sợ đó là bố thí vô-úy.
Như có người sợ chết, chúng ta phải giảng giải cho họ hiểu chết
là một lẽ đương nhiên thôi, ai rồi cũng phải chết. Phật chết, Bồ-tát
chết, chư Thánh tăng chết, phàm tăng phàm ni chết, cư sĩ chết. Đó là
chuyện thường, phải chi có người không chết thì mình sợ, ai cũng chết
hết thì có chi mà sợ. Giải thích có căn bản cho người ta hiểu, hiểu
rồi thì không sợ. Đó là bố thí vô-úy. Như vậy, bố thí pháp trùm cả bố
thí chánh pháp và bố thí vô-úy luôn.
Người tu nếu thiếu hai phần trí tuệ và từ bi thì không xứng
đáng là người tu. Vậy mà có nhiều người tha thiết vào thất tu suốt
đời, tu tới chết. Nghĩ thế là không có từ bi, không có từ bi mà dám
nhận nợ của thí chủ, như vậy là ăn gian rồi. Đó là điều không hợp lý.
Nhập thất tu để sáng đạo thì được, nhưng cũng phải đi giáo hóa, chớ
không được đóng cửa suốt đời.
Hồi xưa học luật, Phật dạy thầy Tỳ-kheo không nên đi dép da vì
làm tổn thương lòng từ bi. Nhưng khi thấy Bồ-tát Văn-Thù cỡi sư tử,
Bồ-tát Phổ-Hiền cỡi voi… tôi sinh ra thắc mắc. Tại sao các Ngài không
đứng trên cụm mây thôi được rồi. Lại cỡi sư tử, cỡi voi, như vậy các
Ngài có từ bi không ? Sau khi tra cứu hiểu ra rồi tôi mới thấy có lý.
Vì đức Phật Thích-Ca là vị giáo chủ cõi Ta-bà, mà dân cõi Ta-bà này
thì cang cường nan điều nan phục. Muốn điều phục được phải có trí tuệ
vượt bực, nên vị Bồ-tát phụ tá thứ nhất cho đức Phật là Văn-Thù.
Văn-Thù tượng trưng cho Căn bản trí. Ngài ngồi trên lưng sư tử
để biểu trưng rằng chỉ có trí tuệ mới hàng phục được ma quân, chỉ có
trí tuệ mới giáo hóa được chúng sanh cang cường này. Đó là ý nghĩa hết
sức thâm trầm. Song vì chúng sanh cõi này cứng đầu quá, dùng trí tuệ
dạy họ, rồi ít bữa cũng trở lại y như cũ, thì làm sao đây. Vì vậy phải
có đại nguyện đại hạnh, cho nên bên trái của đức Phật vị Bồ-tát phụ tá
thứ hai là Phổ-Hiền cỡi voi. Vì hạnh lớn mạnh nên tượng trưng cho voi.
Voi sáu ngà nghĩa là đem pháp giáo hóa chúng sanh không biết mệt mỏi.
Như vậy các hình tượng ấy mang ý nghĩa đức Phật vào cõi Ta-bà giáo hóa
phải có đủ trí-tuệ vượt bực, hạnh-nguyện to lớn mới giáo hóa được. Nếu
không sẽ dễ thoái chuyển, dễ chán lắm.
Đức Phật A-Di-Đà thì bên phải có Bồ-tát Quán-Thế-Âm, bên trái
có Bồ-tát Đại-Thế-Chí. Đức Phật A-Di-Đà ở cõi Cực-Lạc là chỗ sạch vui.
Muốn sang Ta-bà là chỗ uế trược độ chúng sanh, phải có lòng từ bi tràn
trề, nên tượng trưng cho Bồ-tát Quán-Thế-Âm. Vì chúng sanh khó độ nên
chúng ta thấy vẽ tượng đức Phật A-Di-Đà ở trên mây duỗi tay xuống, còn
chúng sanh đang trồi hụp dưới biển mà không chịu trồi đầu lên đưa tay
cho Phật vớt, cứ hụp lặn ở dưới hoài. Vì vậy muốn không thối tâm phải
có đại-chí tức là chí cứng rắn vững vàng. Dù cho nó khó, nó mê, nó đắm
say ngũ dục cũng ráng chờ vớt nó lên. Nếu không có chí lớn thì chán
lắm.
Thí dụ trong hoàn cảnh xã hội của chúng ta, có người khá
giả thấy những đứa trẻ bụi đời lang thang ở góc phố này góc chợ kia
muốn gom lại nuôi dạy. Từ một người giàu có, bây giờ cất trại về ở với
mấy thằng nhỏ khó dạy như vậy thì phải hy sinh sự ổn định của mình,
chấp nhận cảnh khổ. Do đó phải có lòng từ bi trước, lòng từ bi thật
rộng lớn mới làm được việc đó. Mấy đứa nhỏ đem về dạy có dễ đâu. Nhiều
khi nó muốn thoi lại mình nữa. Nó là dân bụi đời, mình thương muốn dạy
dỗ nó, nhưng nó lại không biết gì, không mang ơn mà còn cự cãi với
mình. Nếu không có ý chí vững bền sắt đá thì không thể nào làm được.
Cũng vậy Phật từ cõi tịnh đến, muốn độ chúng sanh cõi uế này
phải có lòng từ bi, phải có ý chí mạnh mẽ mới độ được. Chúng ta muốn
dùng tâm từ bi của mình để giáo hóa chúng sanh khó điều phục đó, thì
phải có ý chí kiên cường như Bồ- tát Đại-Thế-Chí mới được.
Tôi nói điều đó có liên hệ với Tăng Ni bây giờ. Liên hệ ra sao
? Bởi vì Tăng Ni hiện nay thích học xong, chạy về Thành phố học lên
Cao cấp, rồi Đại học. Đại học đạo xong, muốn ra học Đại học đời nữa,
rồi bay đi Ấn-Độ, Đài-Loan học Tiến sĩ. Khi đó ở thôn quê nhiều Phật
tử có chùa mà bị hoại vì không Thầy, không Cô để hướng dẫn, dạy dỗ.
Mình cứ lo chạy lên, lo nhìn lên, không ai nghĩ đến những người đang
mong mỏi, ngóng chờ mình, trông đợi mình ...
Nên tôi nhắc Tăng, Ni phải có tâm biết thương những người chờ
đợi mình, trông ngóng mình. Học rồi đem sự hiểu biết chánh pháp đó
giáo hóa được năm bảy người, thì phước đức cũng lớn lắm. Do đó quý vị
thấy trách nhiệm chúng ta không phải đơn giản. Không phải lo cho mình
có địa vị cao, có chức tước lớn là hay. Mà phải làm sao thực tế đời
mình đem lợi ích thiết thực cho Phật tử, cho mọi người. Đó mới là giá
trị thực đáng quý.
Mong tất cả Tăng Ni ở đây hãy nhớ lấy điều này, mà đem hết tâm
nguyện phụng sự chúng sanh để đền ân chư Phật.
( Giảng tại Chùa Đại Tòng Lâm – Bà Rịa-Vũng Tàu – Năm 2002
)
Buổi giảng hôm nay tôi nói đề tài rất gần gũi với quí vị
: Tại sao người Phật tử phải tụng kinh, niệm Phật, trì chú và tọa
thiền. Phật tử thường nghĩ rằng mình tu thì phải tụng kinh, niệm Phật,
trì chú và tọa thiền. Tất cả những việc ấy là một hay khác, chúng ta
nên thực hiện hết hay thực hiện từng phần? Đó là nội dung buổi giảng
hôm nay.
Nếu Phật tử tu vừa tụng kinh, vừa niệm Phật, vừa trì
chú, vừa tọa thiền thì quá nhiều. Phật bảo: “Chúng sanh có nhiều phiền
não nên Phật cũng có nhiều pháp môn để đối trị”. Cho nên mỗi một
phương pháp tu là thích ứng với mỗi căn cơ, mỗi bệnh của chúng sanh.
Ai thích hợp với pháp môn nào thì tu pháp môn ấy, tu một cách triệt để
cũng đạt đến kết quả viên mãn. Không nhất thiết tu một lượt hai ba
pháp môn, mà chẳng pháp nào ra pháp nào, rốt cuộc không có kết quả
gì.
Tại sao chúng ta phải tụng kinh ? Khi nói tới tụng kinh,
nên biết có hai ý nghĩa quan trọng. Ý nghĩa thứ nhất, tụng kinh là để
nghe nhớ lời Phật dạy, ứng dụng tu hành. Ý nghĩa thứ hai, tụng kinh
cốt làm sao cho tâm mình không xao động, không chạy theo ngoại cảnh
như lúc bình thường. Cho nên khi tụng kinh bắt buộc chúng ta phải chú
ý từng lời, từng chữ trong kinh, dồn hết tâm vào kinh, tụng cho đúng.
Vừa tụng vừa nghe tiếng tụng của mình, tâm lắng diệu, tỉnh sáng. Còn
vừa tụng kinh vừa nghĩ chuyện này chuyện nọ là làm mất giá trị của
việc tụng kinh. Tụng kinh đúng pháp, tâm chúng ta từ từ bớt xao xuyến,
bớt loạn động. Đó là hiệu quả của tụng kinh.
Tại sao Phật tử phải niệm Phật ? Vì muốn về Cực-Lạc.
Pháp môn này chắc quí Phật tử đã từng thực hành. Thật ra niệm Phật là
một pháp rất thiết yếu đối với người Phật tử. Phật tử nào đầy đủ lòng
tin là Tín, nguyện sanh về Cực Lạc là Nguyện và luôn luôn niệm Phật là
Hạnh. Nói rõ hơn Tín là tin cõi Cực Lạc có thật, tin đức Phật A-Di-Đà
sẽ đến đón mình. Hạnh là đi, đứng, nằm, ngồi luôn luôn niệm Phật.
Nguyện là khi lâm chung, mong Phật sẽ đến đón chúng ta về Cực-lạc. Có
đầy đủ ba yếu tố: Tín, Hạnh, Nguyện thì niệm Phật sẽ đạt được kết quả
tốt.
Nhưng hiện nay Phật tử niệm Nam mô A-Di-Đà Phật, mà đã
hiểu ý nghĩa câu niệm Phật ấy chưa ? Nhiều người thế gian hơi khó tính
hay giễu cợt :“Ông bà nếu nghe người ta kêu tên mình hoài chắc giận
lắm.” Quí Phật tử nghĩ sao ? Niệm Phật là gọi tên Phật hoài phải
không, vậy Ngài có buồn có giận không ? Đó là điều rắc rối, nếu chúng
ta không hiểu sẽ không giải quyết được những thắc mắc của người thế
gian.
A-Di-Đà là danh hiệu Phật, tức tên của Ngài. Khi chúng
ta niệm Phật là niệm Nam mô A-Di-Đà Phật. Chữ Nam mô nghĩa là cung
kính. Nam mô A-Di-Đà Phật là cung kính đức Phật A-Di-Đà. Nhiều Phật tử
đơn giản quá cứ A-Di-Đà Phật thôi, đó là gọi tên mà không nói lời cung
kính. Còn chúng ta xưng danh hiệu Ngài với lòng cung kính quy ngưỡng
thì không có lỗi. Phật tử cần nên biết điều này để có ai thắc mắc hỏi,
chúng ta giải đáp rõ ràng.
Câu hỏi kế, chúng ta niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà để
Ngài đón mình về Cực-Lạc hay để làm gì ? Kinh A-Di-Đà nói rõ quá,
người niệm danh hiệu đức Phật A-Di-Đà từ một ngày cho tới bảy ngày,
nhất tâm bất loạn thì sẽ thấy đức Phật hiện tiền. Như vậy mục đích
Phật dạy niệm danh hiệu đức A-Di-Đà, trước hết là để chúng ta nhất tâm
bất loạn. Mà nhất tâm là vô niệm, vì không còn một niệm tạp loạn nào.
Nên nói niệm đến chỗ vô niệm, tức là chúng ta niệm Phật tới khi tâm
không còn dấy niệm. Chỉ một tâm hoàn toàn tri giác không dấy động, gọi
là nhất tâm. Bấy giờ nhắm mắt đức Phật A-Di-Đà và chư Thánh chúng sẽ
hiện ở trước.
Chúng ta thấy ý nghĩa tu hành quá rõ ràng. Dùng câu niệm
Phật với lòng cung kính, quên hết chuyện thế gian, chỉ nhớ Phật thôi.
Nhớ cho tới bao giờ câu niệm Phật lặng, chỉ còn một tâm thanh tịnh,
lúc đó thấy Phật A-Di-Đà ở trước mắt. Hình ảnh này nói lên điều gì ?
Chúng ta tu là để lặng tâm lăng xăng điên đảo hàng ngày của mình. Muốn
lặng tâm đó phải tin tuyệt đối vào đức Phật, dốc lòng niệm danh hiệu
Phật càng ngày càng miên mật. Cho tới bao giờ được nhất tâm tức là vô
niệm thì Phật A-Di-Đà hiện ở trước, không nghi ngờ gì hết.
Quí Phật tử niệm Phật tới chỗ miên mật chưa ? Chưa. Vậy
mà đòi Phật đón mình, lỡ Ngài quên không đón thì sao ? Tại mình tu
chưa đến nơi đến chốn nên không có kết quả, chớ không phải tại Phật
quên. Người nào niệm Phật đến nơi đến chốn cũng đều có kết quả tốt.
Tôi kể câu chuyện có thật để quí Phật tử, nhất là các Phật tử lớn tuổi
cố gắng niệm Phật miên mật.
Bà
thân của thầy chúng tôi có nhiều con và tất cả đều ham tu. Thầy chúng
tôi là con thứ chín. Bà ăn chay một tháng mười ngày thôi, nhưng chuyên
niệm Phật, lúc nào cũng có xâu chuỗi huyền trên cổ. Khi bà quét nhà,
một tay lần chuỗi một tay quét, nhổ cỏ cũng vậy, một tay lần chuỗi một
tay nhổ. Ngày nào tháng nào năm nào cũng thế. Đến 84 tuổi bà bệnh nặng
sắp tịch, chúng tôi về trợ niệm. Bà đang mệt nằm trên giường, thầy
chúng tôi đứng trên đầu, Tăng Ni đứng hai bên, con cháu ngồi ở dưới
chân cùng nhau trợ niệm cho bà. Khi bớt mệt bà cười hết sức vui, đứa
cháu nội gọi :“Bà nội, bà nội ! Bà thấy gì mà cười ?”. Bà nói :“Tao
thấy Phật đến rước tao !”. Đứa cháu nội hỏi :“Có cho tụi con theo
không bà nội ?”. Bà nói :“Không được, rước có mình tao hà !”. Rồi bà
lại cười, cười một hồi thì im. Chừng mười lăm phút sau bà cười một lần
nữa y như vậy. Như thế đến ba lần thì bà tắt thở. Cho nên bà chết
không ai khóc được, vì thấy bà cười mọi người đều mừng vui
theo.
Quí vị thấy người niệm Phật chí tâm, đi tới chỗ miên mật
thì thấy Phật không nghi ngờ. Đó là điều xác thật, không phải là tưởng
tượng. Chúng ta niệm Phật cốt để đi tới chỗ nhất tâm. Nhờ câu niệm
Phật không nhớ gì hết, nhất là quí cụ già có bệnh hay nhớ con nhớ
cháu. Bây giờ đổi lại, nhớ niệm Phật, nhớ mãi như thế sẽ quên nhớ con
nhớ cháu.
Nếu nhớ con nhớ cháu khi nhắm mắt sẽ lẩn quẩn theo con
cháu nữa, chịu khổ trầm luân không biết bao giờ ra khỏi. Nên người tu
lớn tuổi phải dồn hết tâm lực nhớ Phật thôi. Chỉ nhớ Phật thì khi nhắm
mắt theo Phật, không đi đường nào khác. Đó là ra khỏi vòng sanh tử,
hết khổ đau. Nếu còn nhớ con nhớ cháu thì còn đi lại trong thế gian,
lúc tốt lúc xấu không cố định. Nhiều khi đời này tốt mà đời sau không
tốt. Cho nên Phật tử phải dè dặt cẩn thận.
Các vị Tổ trong Tịnh độ thường nói câu này :“Người tu
Tịnh độ như người đạp gai lấy gai mà lể”. Nghĩa là sao ? Tâm chúng ta
lỡ lăng xăng lộn xộn quá, bây giờ muốn hết tâm đó phải mượn câu niệm
Phật để trấn áp nó. Do đó câu niệm Phật giống như cây gai thứ hai để
lể cây gai thứ nhất ra. Gai thứ nhất đã lấy ra rồi, nếu để cây gai thứ
hai ở vết thương cũ thì vết thương có lành không ? Không. Lể rồi cũng
phải bỏ cây gai thứ hai luôn vết thương mới lành.
Chúng ta niệm Phật nhập tâm rồi, được miên mật không còn
một niệm nào chen lẫn, cuối cùng câu niệm Phật cũng lặng luôn. Đó mới
gọi là nhất tâm. Khi ấy nhắm mắt thấy Phật. Phật A-Di-Đà, Trung-Hoa
dịch là vô-lượng-thọ, vô-lượng-quang. Vô-lượng-thọ là sống lâu vô
lượng, Vô-lượng-quang là ánh sáng vô lượng. Sáng suốt và sống mãi đó
là danh hiệu của Phật A-Di-Đà.
Đức Phật dạy tất cả chúng ta khi tu đến chỗ kết quả viên
mãn sẽ có đầy đủ ba thân : Pháp thân, Báo thân và Hóa thân. Pháp thân
không còn chết nên gọi là vô lượng thọ. Pháp thân luôn luôn sáng suốt,
không mờ tối nên gọi là vô lượng quang. Quí Phật tử thấy Phật A-Di-Đà
tức thấy được Pháp thân của mình. Bấy giờ Phật khỏi đón về Cực-Lạc, ta
cũng nhập Niết-bàn được như thường. Kinh nói thấy Phật hiện tiền chính
là ý này, chớ không phải mong Phật đón về Cực-Lạc mà được thấy Ngài
hiện tiền.
Chúng ta tu nếu không nắm vững, không biết lối đi, cứ
lẩn quẩn hoài. Càng niệm Phật càng quên chuyện đời, niệm càng lâu càng
nhiều thì việc đời càng giảm. Cho tới câu niệm Phật cũng lặng luôn,
chừng đó nhất tâm bất loạn, đâu còn mong muốn sanh về chốn nào nữa.
Chính khi ấy đức Phật mới hiện tiền. Phật đó chính là Phật pháp thân
của mình. Đó là kết quả của sự tu.
Hiện giờ thân của chúng ta là thân gì ? Báo thân. Báo là
thân theo quả báo mà có. Người quả báo lành được thân đẹp, ít bệnh.
Người quả báo dữ tuy được thân người mà bệnh hoạn tàn tật. Thân chúng
ta không giống nhau tùy theo phước nghiệp của mỗi người. Đã là thân
quả báo, chúng ta không thể nào giữ được mãi, vì hết nghiệp nó phải
đi.
Còn Hóa thân ở đâu, chúng ta có không ? Thật ra chúng ta
cũng có Hóa thân mà ít ai biết. Tôi nhớ trong kinh Pháp Hoa, phẩm Hiện
Bảo Tháp đức Phật Thích-Ca giới thiệu với đại chúng trong tháp báu có
thân của đức Phật Đa Bảo. Lúc đó chư tăng hỏi làm sao thấy được thân
đức Phật Đa Bảo. Phật Thích-Ca trả lời : Muốn thấy thân Phật Đa Bảo
thì các Hóa thân của Ngài đi làm Phật sự khắp nơi tụ họp về, mới thấy
được. Thân Phật Đa Bảo trong tháp tượng trưng cho Pháp thân, các Phật
đi làm Phật sự khắp nơi là Hóa thân. Khi nào Hóa thân tụ hội về một
chỗ thì thấy được Pháp thân.
Chúng ta cũng có Pháp thân mà không thấy vì Hóa thân đi
làm việc nhiều quá, chạy ngược chạy xuôi đầu này đầu nọ liên miên.
Chừng nào Hóa thân tức những niệm vọng động dừng lặng, bấy giờ Pháp
thân mới hiện ra. Một ngày quí vị nghĩ chừng bao nhiêu việc ? Có khi
chạy từ đây qua Mỹ, rồi trở về Việt-Nam … xong lại chạy tiếp, chạy
liên miên. Thử hỏi làm sao Pháp thân xuất hiện được ?
Tất cả kinh Phật dạy ý không khác, đều nhắc chúng
ta phải qui tụ tâm lăng xăng về chỗ lặng lẽ, không còn dấy động nữa.
Lúc đó Pháp thân hiện ra, là giải thoát sanh tử. Còn nếu chạy theo tâm
lăng xăng, tích cực làm Phật sự trong cõi ngũ dục, thì ngược xuôi
trong ba cõi hoài, không có ngày ngừng. Chúng ta tu cố gắng làm đúng
như lời Phật dạy, nhất định sẽ được kết quả tốt. Đó là tôi nói về ý
nghĩa niệm Phật.
Tại sao chúng ta trì chú ? Trì chú là sao ? Thí dụ quí
bà khi gặp tai nạn hay qua chỗ tối sợ ma, thì trì chú để bớt sợ. Quí
vị tưởng nhờ thần chú ma quỷ hoảng chạy. Như vậy trì chú để dẹp ma dẹp
quỷ hay tai qua nạn khỏi. Hiểu như thế là quá sơ sài. Phật không dạy
điều này bao giờ. Vậy ý nghĩa trì chú ra sao ?
Mật tông dạy chúng ta trì chú muốn được kết quả viên mãn
thì phải tam mật : là Thân mật, Khẩu mật và Ý mật. Mật là thâm diệu.
Thâm diệu tới chỗ ba nghiệp lặng lẽ hoàn toàn, thân lặng, khẩu lặng, ý
lặng. Nói tam mật chớ động cơ chủ yếu là ý. Ý mật thì tất nhiên thân,
miệng cũng mật, dù ta vẫn đi vẫn nói nhưng tâm luôn thanh tịnh. Ý lặng
yên thì còn lăng xăng không ? Không. Như vậy trì chú được tam mật có
khác với nhất tâm đâu.
Cho nên trì chú cũng với mục đích đưa chúng ta tới chỗ ý
mật, tức là nhất tâm. Vì vậy niệm Phật, trì chú đều gặp nhau ở chỗ cứu
kính, chỉ khác nhau ở phương pháp. Nếu niệm Phật muốn có kết quả thì
khởi đầu phải Tin. Tin cõi Cực-Lạc, tin đức Phật A-Di-Đà, rồi tới
Hạnh, Nguyện. Còn trì chú khởi đầu là tin sự huyền bí của câu chú. Như
chú này linh lắm, khi trì chú này được các vị thần ủng hộ, ma quỷ chạy
hết. Một bên tin Phật, một bên tin sự linh nghiệm, mầu nhiệm của thần
chú. Nhờ lòng tin đó hành giả cố gắng niệm. Kết quả một bên được nhất
tâm, một bên được ý mật. Rõ ràng hai phương pháp khác nhưng cứu kính
không hai.
Tại sao chúng ta tu thiền định ? Hiểu hai pháp trên thì
sẽ hiểu được pháp tu thiền định. Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt
để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng lẽ thanh tịnh. Theo kinh
Nguyên thủy Phật dạy Bát chánh đạo, trong Bát chánh đạo từ Chánh kiến
cho tới cuối cùng là Chánh định. Theo kinh Đại thừa Phật dạy Lục độ,
thứ nhất là bố thí tới thứ năm là thiền định, thứ sáu là trí tuệ. Như
vậy có giống kinh A-Di-Đà không ? Định giống như niệm Phật được nhất
tâm, Tuệ giống như thấy Phật A-Di-Đà vô lượng thọ, vô lượng quang. Rõ
ràng Kinh và pháp tu thiền không rời nhau. Hệ Nguyên thủy đạt tới
Chánh định là chót, nhưng hệ Đại thừa từ định phải qua trí tuệ mới rốt
ráo. Đúng như kinh A-Di-Đà, Phật dạy nhất tâm rồi thấy Phật
A-Di-Đà.
Chúng ta tu thiền định là tu thế nào ? Nhiều vị không
hiểu nói người mới tu thiền phải quán hơi thở tức là sổ tức. Sổ tức là
đếm số, hít vô cùng đếm một, thở ra sạch đếm hai, đếm tới mười bỏ, rồi
đếm trở lại một. Cứ như vậy đếm hoài cả buổi có lợi ích gì đâu, mầu
nhiệm gì đâu. Còn người ta niệm Phật có phước.
Nhưng tại sao chúng ta đếm hơi thở ? Vì muốn dừng tâm
lăng xăng. Như hít vô nhớ mình hít vô tới đâu, thở ra nhớ mình thở ra
tới đâu, rồi nhớ số nữa. Bắt nhớ như thế để tâm quên chạy theo vọng
tưởng. Pháp tu có khác nhưng trọng tâm không hai, cốt dừng tâm chạy
ngược chạy xuôi hàng ngày. Dừng được tâm này là định nên nói thiền
định. Thiền định là tiếng Ấn-Độ, Trung-Hoa dịch là Tĩnh lự, nghĩa là
lặng cái suy nghĩ lăng xăng, chớ không gì lạ.
Qua giai đoạn đếm hơi thở rồi đến giai đoạn theo hơi
thở. Khi ta chú tâm đếm hơi thở, tâm không chạy bậy, lần lần thuần
thục ta bỏ đếm, chỉ theo hơi thở thôi. Nghĩa là hít vô tới đâu biết,
thở ra tới đâu biết. Theo dõi như người thiếu nợ trốn chủ, bất thần
chủ nợ tìm gặp, nên theo sát lưng không bỏ. Tu cũng vậy, ban đầu đếm
hơi thở, sau đó theo hơi thở thật khít khao để tâm không tán loạn. Đó
là phương tiện buổi đầu của người tập tu thiền.
Ở
đây chúng tôi dạy tu thiền hơi khác hơn một chút. Tôi dạy khi niệm dấy
khởi lên biết nó là hư dối, bỏ. Không chạy theo mà cứ chỉ mặt nó hoài,
lâu ngày nó tan mất. Bởi vì khởi nghĩ của mình không thật, mà mê theo
nó thì thành thật. Như giận người A, khi dấy niệm giận mình theo niệm
đó phát nổi hung hăng, muốn chửi đánh người ta, thành ra có tạo
nghiệp. Còn vừa nhớ tới chú A liền bỏ không nghĩ, thì đâu còn tức mà
muốn đánh chửi người ta. Manh mối ban đầu vừa mọc mầm liền thấy, chỉ
mặt nó thì nó dừng lại nhẹ nhàng.
Niệm Phật là dùng câu niệm để dẹp vọng tưởng, trì chú là
dùng câu thần chú để dẹp vọng tưởng, còn tọa thiền dùng trí thấy
thẳng, chỉ thẳng vọng tưởng để dẹp nó. Nhưng chỉ thẳng để dẹp là thấy
ngay lẽ thật, chớ không mượn phương tiện để dẹp. Vì vậy tới chừng vọng
tưởng lặng là xong, không còn gì để bỏ nữa. Như vậy tu tụng kinh, niệm
Phật, trì chú, tọa thiền, trọng tâm đều dừng các niệm lăng xăng. Tất
cả pháp Phật dạy không có ý khác, chỉ khác ở phương tiện
thôi.
Thiền tông dạy trực chỉ nhân tâm tức chỉ thẳng tâm
người, kiến tánh thành Phật là nhận ra bản tánh của mình thì thành
Phật. Chỉ thẳng tâm người là tâm lăng xăng, tâm điên đảo đó. Nó vừa
dấy lên, chỉ mặt rầy thì nó lặng. Cho tới bao giờ tâm ấy hoàn toàn
lặng hết thì tánh Phật hiện ra. Tánh Phật là Pháp thân, ngang đó gọi
là kiến tánh thành Phật, tức nhận ra bản tánh thì thành Phật, cũng như
thấy Phật A-Di-Đà. Vì vậy người tu thiền không đặt lòng tin mà đặt trí
tuệ lên hàng đầu. Nhìn thẳng thấy rõ ràng, không để nó lừa gạt mình.
Nó rủ đi đâu là chận liền, không cho nó dụ dỗ.
Ba
pháp tu tuy nói ba nhưng gốc chỉ có một. Cho nên người tu Tịnh độ
không nên chê người tu thiền. Người tu thiền không nên chê người tu
Mật v.v… Chỉ chê là chê tu không đúng thôi. Nếu tu đúng lời Phật dạy
thì pháp nào cũng đưa đến nhất tâm, đưa đến chỗ cứu kính thành Phật.
Phật tử bây giờ có bệnh, mình tu thích hợp với pháp này
liền chê pháp của người khác, khen pháp của mình. Do đó tâm lăng xăng
càng tăng trưởng chớ không giảm. Như vậy đâu phải tu. Vì tu là để giảm
suy nghĩ lăng xăng, rối bời đó mà mình tu càng ngày càng tăng là không
đúng rồi. Cho nên thấy người tu niệm Phật, ta hoan hỷ nói “Chị tu niệm
Phật tốt. Ráng niệm cho nhất tâm”. Thấy người tu trì chú, nói “Anh tu
trì chú tốt. Ráng trì cho tới tam mật”. Thấy người tu thiền, nói “Anh
tu thiền tốt. Ráng ngồi thiền cho được định”. Như vậy ai cũng tốt hết.
Người biết tu phải hiểu cho thấu đáo để không hờn phiền
những người đồng đạo. Nếu không khéo sẽ dẫn tới tình trạng người này
trách người kia, người kia phiền người nọ. Chính huynh đệ trong đạo
chỉ trích nhau hoài, không hòa thuận nói gì tu hành. Bởi vậy nên tất
cả quí vị phải thấy rõ điều này.
Tại sao Phật dạy chúng ta phải dẹp cái nghĩ lăng xăng
lộn xộn của mình ? Những ý nghĩ quấy dẹp thì phải, nhưng ý nghĩ phải
tại sao cũng dẹp ? Nếu nghĩ xấu sai, ta sẽ nói làm theo nghiệp ác. Nếu
nghĩ tốt dĩ nhiên ta nói làm theo nghiệp lành. Như vậy nghiệp lành,
nghiệp ác từ ý nghĩ mà ra. Nghiệp ác thì đọa vào đường dữ, nghiệp lành
thì sanh về cõi lành. Nhưng dù lành hay dữ cũng còn trong dòng trầm
luân sanh tử, còn trở đi trở lại mãi trong ba cõi là còn khổ. Tại sao
nghiệp lành vẫn không giải thoát ? Vì nghiệp lành thì sanh cõi lành,
như được làm người sung sướng. Nhưng mấy chục năm hưởng hết phước rồi
cũng chết. Hoặc sanh lên cõi Trời, ở cảnh cao sang muốn gì được nấy,
nhưng hết phước cũng đọa xuống trở lại. Lên lên xuống xuống không có
ngày cùng. Chỉ có ra khỏi dòng trầm luân sanh tử mới được giải thoát,
hết khổ đau.
Bây giờ nếu chúng ta tu tới nhất tâm, không còn nghĩ
thiện nghĩ ác thì đi đâu ? Hết nghĩ thì hết nghiệp, hết nghiệp là hết
sanh tử, đó là giải thoát chớ gì. Chỗ cứu kính chân thật đức Phật chỉ
cho chúng ta thấy là cái sáng suốt, bất sanh bất diệt nên gọi là
Niết-bàn, Vô-sanh. Không có sanh lấy gì có tử.
Đức Phật vì thương chúng sanh mê lầm đuổi theo hư ảo cho
là mình, rồi cả ngày sống trong cái hư ảo đó, chịu vô lượng khổ đau.
Đã sống trong hư ảo thì dù làm việc tốt cũng chưa hẳn là tốt. Ví như
có hai nhóm đi làm từ thiện. Nhóm A được nhiều người hoan nghênh, nhóm
B cũng làm từ thiện nhưng lại bị nhiều người chỉ trích. Vậy nhóm B đó
có vui nhìn nhóm A không ? Bị thua thì giận rồi, mặc dù giận vì làm
việc thiện.
Bởi vậy nói tâm của chúng ta không chân thật. Vì nó hư
ảo nên biến chuyển luôn. Do đó nhiều người lúc nhỏ rất hiền lành,
nhưng lớn lên bị ngoại duyên không tốt tác động lâu ngày trở thành
hung dữ. Còn có người lúc nhỏ hung dữ, nhưng lớn lên nhờ gần gũi duyên
tốt nên trở lại hiền lành. Tâm ta luôn đổi thay, không đứng một chỗ.
Gặp môi trường tốt, thầy tốt, bạn tốt thì tốt theo, gặp môi trường
xấu, thầy xấu, bạn xấu thì xấu theo. Tâm đó tùy thuộc ngoại cảnh chớ
không tự làm chủ được. Vậy mà tất cả chúng ta đều đuổi theo nhận nó là
mình, thử hỏi có đáng buồn không ?
Nếu chúng ta không nhận những suy nghĩ lăng xăng lộn xộn
đó là tâm mình, thì dù ở chung cả trăm ngàn người cũng không có chuyện
cãi vã, nói gì đánh đập nhau. Sở dĩ chúng ta ở chung có chuyện này,
chuyện kia là vì không đồng ý nhau. Mỗi người đều cho cái suy nghĩ là
đúng, là tâm mình nên rồi hơn thua, phải quấy, oán thù đủ chuyện. Nuôi
tâm ấy như nuôi kẻ cướp trong nhà vậy. Do đó Phật nói : “Nhận giặc làm
con”. Vì nhận giặc làm con nên cưng nó, nghe lời nó, không chịu bỏ nó.
Đã vậy thì đời ta cứ đi trong trầm luân đau khổ không có ngày cùng.
Muốn ra khỏi dòng sanh tử không gì hơn là lặng được chú
tạo nghiệp đó. Nghĩa là đừng nhận nó làm con nữa, đuổi nó ra khỏi nhà.
Dễ quá, nó không phải là con mình thì đuổi đi. Nhưng khổ nỗi ta lại
thương nó, không chịu đuổi. Khi thấy chúng sanh mê lầm như vậy, đức
Phật có thương không ? Có. Chúng ta thấy tượng đức Phật A-Di-Đà đứng
duổi tay xuống, phía dưới là chúng sanh đang lặn hụp giữa biển cả mênh
mông. Ngài đưa tay xuống chờ chúng sanh ngốc đầu dậy thì kéo liền.
Nhưng chúng sanh cứ mải miết lặn hụp không chịu đưa tay cho Ngài kéo.
Ngài sẵn sàng vớt mà mình không chịu đưa tay.
Mỗi một ngày hết mười hai tiếng chúng ta chạy theo cái
hư giả, chỉ còn một hai tiếng trở về cái thật, nên ráng buông xả cho
các vọng tưởng lặng xuống, giành quyền làm chủ phần nào. Nếu không
mình cứ bị nó làm chủ mình hoài. Ngày nào ta giảm bớt được hơn thua,
phải quấy thì ngày đó an vui. Ngược lại, nếu cứ để nó lôi dẫn chạy
ngược chạy xuôi hoài, khi nhắm mắt chắc chắn phải luân hồi sanh tử.
Phật tử tu mà không hiểu, cứ ỷ lại vào thầy. Tháng nào
cũng đi chùa cúng thầy một ít, chừng nào nhắm mắt mời thầy tới độ cho
về Cực-Lạc, khỏe ru. Tu như vậy thì oan cho đạo Phật quá. Quí vị phải
nhớ chúng ta lo cho Tam-Bảo, để việc giáo hóa mọi người thức tỉnh được
trường tồn, được phát triển. Muốn thế bản thân mình phải tu, rồi tạo
điều kiện hỗ trợ Tam-Bảo tồn tại lâu dài nơi thế gian, đem lại lợi ích
cho tất cả chúng sanh.
Hôm nay tôi nhắc những điều thiết yếu cho tất cả quí
Phật tử biết, ứng dụng tu đúng pháp Phật dạy. Bây giờ quí vị đã hiểu
tại sao chúng ta phải tụng kinh, niệm Phật, trì chú, tọa thiền rồi,
mong tất cả thực hành đúng theo chủ ý Phật dạy. Đừng vì sự tu mà tạo
phân biệt, nuôi lớn thêm phải quấy đối đãi, trái xa với bản ý Phật
dạy, cũng là tự vùi lấp sự giác ngộ của mình. Hiểu vậy trên đường
tu tôi tin chắc quí vị sẽ tiến, sẽ đạt được kết quả tốt đẹp.
( Chùa Quang Minh - Melbourne – 2002
)
Phần đông Phật
tử quy y Tam Bảo mà chưa ý thức nhiệm vụ mình phải làm gì đối với
mình, đối với mọi người, đối với đạo. Hoặc có ít người ý thức, lại là
ý thức sai lầm, mình lầm hướng dẫn kẻ khác cũng theo đường sai lầm của
mình. Vì thế, tín đồ Phật giáo số lượng rất đông, phần phẩm lại quá
ít.
Những sách vở
chỉ dạy bổn phận, trách nhiệm người Phật tử tại gia đã được dịch hoặc
viết bằng chữ Việt khá nhiều như: Kinh Ưu-bà-tắc, Kinh Thi-ca-la-việt,
quyển Là Phật Tử, v.v... Có lẽ những quyển ấy không được phổ biến khắp
Phật tử, hoặc vì chỉ dạy rộng nhiều nên hàng Phật tử tại gia không nhớ
thực hành. Tôi viết tập sách này lúc đầu với ý định đăng trong tạp chí
Từ Quang, sau thấy cần phổ biến nên cho in thành sách. Do đó, nó rất
đơn lược, hình thức gần như một bài giảng. Tôi chỉ hy vọng bổ túc kịp
thời những khuyết điểm của Phật tử tại gia đem đến trong mọi gia đình
Phật tử những hình ảnh đẹp đẽ của Phật Giáo.
Tôi mong những
nhận xét trong đây được Phật tử phổ dụng và Quý Thầy Giảng Sư, Trụ Trì
xem đó là lối đi cần thiết trong hiện tại, đem ra hướng dẫn tín đồ. Để
ngày mai này, tín đồ Phật Giáo không còn những tệ đoan đến chùa qui y
chỉ để cầu an cho mình hay cầu độ rỗi cho người thân của mình lúc lâm
chung mà toàn là Phật tử chân thành chánh tín ! ...
Phật tử tại
gia là người con Phật đem giáo lý Phật dạy áp dụng vào gia đình khiến
toàn cả gia đình sinh hoạt theo đường lối Phật giáo. Trách nhiệm và
công vụ của Phật tử là hoán cải nhân gian trở thành một xã hội thuần
túy Phật giáo. Tinh thần Đại Thừa Phật giáo nhằm mục đích chuyển hóa
cõi Ta-bà uế trược này trở thành Cực-Lạc thanh lương. Sự phổ biến Phật
giáo khắp mọi từng lớp quần chúng là điều Phật tử phải thực
hiện.
Theo quan niệm
chung của Phật tử xưa nay, khi nói đến trách nhiệm truyền bá Phật
giáo, đều công nhận "do Tăng-già đảm nhiệm", hoặc tiến hơn lại bảo:
"Hai giới xuất gia, tại gia chung gánh vác", theo tôi, tôi nói "truyền
bá Phật giáo được phổ biến, linh động trong quần chúng do Phật tử tại
gia thực hiện". Tại sao ? Bởi vì mỗi cá nhân, mỗi gia đình Phật tử
thực hiện đúng đường lối Phật dạy những cái hay cái đẹp ấy sẽ lây
nhiễm sang những cá nhân và gia đình khác dần dần nhân gian biến thành
tịnh độ. Nếp sống của người xuất gia cao siêu cách biệt quần chúng
quá, dù cố gắng cách mấy cũng khó ảnh hưởng lây. Vì thế, Phật tử tại
gia có trách nhiệm làm linh động và sống dậy tinh thần Phật giáo qua
nếp sống cá nhân và gia đình mình.
Phật tử tại
gia lâu nay có quan niệm sai lầm, khi nói đến Phật sự là đinh ninh
cúng chùa, cất chùa, trai nguyện, công quả v.v... lãng quên yếu tố căn
bản "làm sống dậy lời Phật dạy". Giả sử có người phê bình : Phật giáo
chỉ lý thuyết suông không ích lợi gì cho quần chúng. Phật tử chúng ta
chấp nhận lời phê bình này không ? Hẳn là không. Nhưng muốn cải chính,
chúng ta căn cứ vào đâu để chứng minh sự hữu ích của Phật giáo đối với
quần chúng. Căn cứ vào sự cầu nguyện quốc thới dân an làm bằng chứng
được chăng ? Huyền diệu quá, quần chúng không tin nổi. Căn cứ vào sự
cúng chùa đời sau được phước chăng ? Xa xôi quá, quần chúng không thể
nhận tới. Còn bao nhiêu chứng cứ nữa thảy đều cao siêu khó thấy. Quần
chúng đòi hỏi có sự lợi ích thiết thực, chính mắt họ trông thấy mới
chịu tin. Vì thế, Phật tử tại gia phải cố gắng thực hiện, lấy gia đình
mình làm cứ điểm lợi ích thiết thực của Phật giáo để trả lời mọi nghi
ngờ và phê bình của quần chúng. Hơn nữa, một vị Tăng đứng lên giảng
hạnh từ bi, nhẫn nhục v..v... quần chúng cho đó là một mớ lý thuyết
khô khan không thể thực hiện được . Nếu vị Tăng ấy chính bản thân thực
hiện hạnh từ bi, nhẫn nhục, quần chúng lại bảo dĩ nhiên ông ấy phải
làm được. Vì ông không có gia đình, không lo sinh kế, còn chúng tôi
phải bao bọc gia đình, phải lo sinh kế, làm sao bì mấy ông ấy được.
Chỉ có người Phật tử tại gia vẫn sống trong hoàn cảnh như họ mà thực
hành được đạo đức mới là việc đáng cho họ chú ý. Phật giáo hữu ích hay
vô ích chính do sự thực hiện hay không của hàng Phật tử tại gia vậy
.
Muốn cho quần
chúng thấy cái hay, cái đẹp của Phật giáo, Phật tử tại gia trước hết
lấy giáo lý điêu luyện cá nhân mình, chính bản thân mình là phản ảnh
trung thành của Phật giáo. Sự kiện đầu tiên trong việc điêu luyện mình
là Quy-Y và Thọ Giới.
A. Quy-Y Tam-Bảo - Thọ Ngũ Giới
:
Quy-Y Tam-Bảo
là đặt cho mình một lý tưởng, vạch một lối đi. Phật là mục tiêu cao cả
để ta nhắm. Pháp là đường lối tiến đến mục tiêu ấy, Tăng là người
hướng dẫn ta đi đúng đường lối tiến lên mục tiêu đã nhắm. Cho nên Quy
y là định hướng của người Phật tử. Quy y rồi cá nhân mình không còn
cái khổ phiêu bạt linh đinh của con ngừơi vô lý tưởng.
Năm giới cấm
là phần thiện cơ bản của người Phật tử. Giữ trọn 5 giới : không sát
sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống
rượu là nhân cách con người được đầy đủ và bảo đảm một con người
toàn vẹn ở tương lai. Sự thảm khốc của cảnh tương tàn tương xác; Sự
khổ đau cướp giật lẫn nhau; Sự xấu xa của gia đình thương luân bại lý;
Sự nghi ngờ trong xã hội điêu ngoa; Sự say sưa ở trà đình tửu điếm,
người Phật tử đều vượt khỏi những cái tủi nhục này. Ngược lại người
Phật tử luôn luôn bảo vệ sanh mạng nhau; sẵn sàng tôn trọng tài sản
của nhau; biết giữ gìn can thường đạo lý, sống chân thành tự trọng và
lúc nào cũng sáng suốt khôn ngoan. Chỉ giữ 5 giới cá nhân đã khỏi sa
vào hố trụy lạc, gia đình được êm ấm tin yêu . Nếu toàn thể xã hội
biết giữ 5 giới thì hạnh phúc thay cho cuộc sống thanh bình ! Tuy
nhiên đã thực hành được phần thiện cơ bản này rồi chúng ta cần phải
tiến lên phần thiện cao hơn, tích cực hơn , tức là học 5 hạnh của
Phật.
B. Năm hạnh của Phật :
Năm hạnh căn
bản của Phật , là con Phật ai ai cũng phải học và thực hành . Ở đây
trong phạm vi Phật tử tại gia áp dụng 5 hạnh vào đời sống thực tế để
tạo cho mình một nếp sống đẹp đẽ và đem lại cho gia đình, cho xã hội
an lạc, thuận hòa và mỹ lệ. Năm hạnh là: Từ Bi, Nhẫn nhục, Hỷ xả, Tinh
tấn, Trí tuệ.
1. Từ Bi
: Tự tâm ta phát hiện lòng
thương chân thật, lòng thương này được biểu lộ trong hành động, ngôn
ngữ chia vui sớt khổ cho nhau. Phật tử tại gia ; đối tượng thực hiện
lòng thương này là cha mẹ, anh em, vợ con, sau cùng là thân thuộc hàng
xóm. Trong gia đình, lúc nào người Phật tử cũng đem lại sự an vui cho
cha mẹ, anh em, vợ con, không bao giờ làm cho ai buồn khổ. Nếu cha mẹ,
anh em, vợ con có điều gì đau khổ chính mình phải tìm cách giải cứu
san sớt cho được vơi đi. Tức nhiên phải thông cảm nhau vui cùng vui,
khổ chung chịu khổ. Tình thương chân thành là sợi dây liên lạc xiết
chặt mọi người trong gia đình thành một khối, thiếu nó gia đình có thể
rời rạc đến tan rã. Ngoài ra đối với thân thuộc, hàng xóm chúng ta
cũng thông cảm chia vui sớt khổ cho nhau. Những khi hoạn nạn, những
lúc đau buồn của người thân thuộc nên coi như là hoạn nạn của chính
ta, cố gắng tìm cách giải cứu. Chỉ có chiếc gàu tình thương chân thật
mới tát vơi được dòng sông đau khổ.
2. Nhẫn Nhục
: Đã thương nhau thì phải hòa
thuận nhịn nhường nhau. Nhất là đối với cha mẹ, dù mắng rầy quở phạt
có phần quá đáng, người Phật tử vẫn nhẫn nhịn cam chịu, không bao giờ
dám to tiếng chống đối . Đợi khi nào cha mẹ nguôi cơn giận , ta mới
nhỏ nhẹ thưa lại những nỗi hàm oan của ta. Với anh em, ta cũng nhẫn
nhịn nhau những khi buồn tức, không nên để cho cơn giận dữ nổi lên làm
phân ly tình cốt nhục. Nghĩa vợ chồng phải nhường nhịn nhau, khi chồng
giận vợ nhường, khi vợ tức chồng nhịn, đợi qua cơn tức giận sẽ nhã
nhặn khuyên bảo nhau. Bất cứ sự chung đụng nào nếu có đến hai người là
có bực tức rầy rà. Thế nên, Phật tử, phải khéo nhường nhịn nhẫn nại để
giữ hòa khí vui đẹp trong gia đình. Có khi nhường nhịn người ngoài dễ
hơn nhường nhịn người trong nhà. Bời vì người ngoài coi nhau như là
khách nhịn một chút cho qua, ít khi gặp lại nhau, người trong nhà ra
vào gặp nhau nên có gì bực tức khó nhịn được.
Tập nhẫn nhục
phải thực hiện ngay trong gia đình trước, khi ở gia đình đã thành công
thì đối với người ngoài không khó. Có nhiều người đối đãi với bạn bè
hàng xóm rất nhã nhặn vui vẻ, trái lại cư xử trong nhà thì thô bỉ cáu
kỉnh. Đó là không biết thực hiện hạnh nhẫn nhục cho chính đáng. Nhẫn
nhục bậc thấp nhất là những người có quyền thế bề trên, bậc trung là
những người ngang hàng mình, bậc thượng là những kẻ dưới tay mình,
Phật tử chúng ta phải tiến từ bậc thấp đến bậc cao tột
cùng.
3. Hỷ Xả
: Đã nhẫn nhục được cần phải hỷ
xả không nên ôm ấp buồn phiền trong lòng. Có khi ta nhịn được cơn tức
giận, mà trong lòng còn cưu mang uất hận. Như vậy không sớm thì muộn
khó tránh khỏi sự cãi vã nhau. Cho nên nhường nhịn nhau rồi, cần phải
vui vẻ tha thứ cho nhau không bao giờ nhắc đến lỗi lầm ấy nữa. Đối với
anh em, vợ chồng, con cháu sự hỷ xả rất thiết thực cần yếu. Đã là phàm
tục như nhau thì có ai tránh được sự lỗi lầm, khi người này phạm lỗi
lầm người kia vui vẻ tha thứ, lúc người kia phạm lỗi lầm người này sẵn
sàng hỷ xả. Được vậy, trong gia đình sẽ giữ mãi được vẻ ấm êm tình hòa
mục, bằng không thì khó thấy sự vui vầy. Cha mẹ luôn luôn có thái độ
bao dung sẵn sàng tha thứ lỗi lầm của con. Anh em rộng lượng dung thứ
nhau cho tình cốt nhục thêm nồng. Vợ chồng vui vẻ tha thứ cho nhau để
giữ một niềm thủy chung như nhất.
Tuy nhiên, vui
vẻ tha lỗi nhau, không có nghĩa không chỉ dạy nhắc nhở những lỗi lầm
của nhau. Tinh thần Phật tử luôn luôn muốn xây dựng mọi người chung
quanh mình được tốt đẹp, nếu thấy người có điều quấy liền nhắc nhở chỉ
dạy, khi người nhận lỗi liền vui vẻ tha thứ. Ở trong gia đình người
phạm lỗi phải can đảm nhận lỗi, người chỉ lỗi vui vẻ thứ tha. Không
nên có tính cách thấy người tha lỗi mình cứ phạm lỗi mãi. Bầu không
khí hòa nhã vui vẻ sẽ có ở nơi những gia đình nào người trong ấy biết
nhẫn nhục hỷ xả cho nhau.
4. Tinh Tấn :
Chuyên cần cầu tiến là sự tất
yếu của con người hướng thượng. Phật tử tại gia là người sống trong
cảnh trần tục mà luôn luôn ôm ấp ý chí hướng thượng, lúc nào cũng cần
cầu tiến.
Trước nhất,
Phật tử tại gia chuyên cần chuyển hóa tâm niệm, hành động, ngôn ngữ
xấu xa của mình trở thành tốt đẹp. Cố gắng thế nào thấy mình hôm nay
đã tốt hơn hôm qua. Tập quán xấu xa gắn chặt trong tâm thức ta đã lâu
rồi không thể nhất đáng sửa đổi được ngay, phải là sự chuyên cần bền
bỉ mới có thể thắng được nó. Giá trị tu tập là ở chỗ cố gắng cải hóa
bản thân mình.
Thứ đến, Phật
tử chuyên cần làm việc hằng ngày theo khả năng mình để đem lại cơm no
áo ấm cho gia đình. Chúng ta còn mang xác thân này dĩ nhiên sự ăn mặc
không thể thiếu được. Nếu cả ngày Phật tử bàn luận những lý thuyết cao
siêu huyền diệu mà trong gia đình vợ con đói rách nheo nhóc, lý thuyết
sẽ trở thành chất vị chua cay khiến vợ con chán sợ nó. Hơn nữa, Phật
tử tại gia còn phải thực hiện đức Từ Bi của Phật, nên phải chuyên cần
làm lụng may ra có dư giả chút ít để giúp đỡ những người tàn tật đói
thiếu làm vơi đi phần nào đau khổ cho nhân loại .
Sau cùng, Phật
tử chuyên cần chuyển hóa và điều hòa mọi người trong gia đình. Làm thế
nào cả nhà đều chung thờ một lý tưởng, đều cư xử thuận hòa êm ả, đều
theo một chiều hướng vươn lên. Được thế người Phật tử mới thấy tròn
bổn phận của mình.
5. Trí Tuệ
: Đạo Phật rất chú trọng
phần trí tuệ. Có trí tuệ con người mới khỏi lầm lạc đau khổ. Dù người
cố gắng làm mọi việc lành, nếu thiếu trí tuệ phán đoán chưa hẳn việc
làm ấy đã là lành. Phật tử chúng ta nếu thiếu trí tuệ không thể thành
một Phật tử chân chánh được.
Muốn có trí
tuệ, Phật tử phải phá những cái tin tưởng sai lầm. Tin đồng bóng, sâm
quẻ, tướng số là những hiện tượng mê mờ. Đành rằng đôi khi tướng số
cũng đoán trúng, nhưng đó chỉ là do nhân quả nghiệp báo của chúng ta
mà thôi. Trong sách tướng có câu: "Hữu tâm vô tướng, tướng tự tâm
sanh; hữu tướng vô tâm, tướng tùng tâm diệt". Nghĩa là người có tâm
tốt mà không có tướng tốt; tướng tốt sẽ tùy tâm tốt phát hiện, người
tướng tốt mà không tâm tốt, tướng tốt sẽ theo tâm mà tiêu diệt. Như
vậy tất nhiên tùy tâm niệm, hành động tốt xấu của chúng ta, theo nhân
quả sẽ hiện ra tướng tốt xấu nhất là sự ỷ lại thần quyền là hiểm họa
tiêu diệt trí tuệ của chúng ta.
Để được khai
thông trí tuệ, người Phật tử phải học Kinh điển Phật giáo. Chúng ta
chưa có thể tự phát trí huệ, phải nhờ ngọn đuốc trí tuệ của Phật chiếu
phá mê mờ cho ta. Những lời vàng ngọc trong Kinh điển là do Phật chứng
nhất thiết trí phô diễn còn ghi lại. Chúng ta y cứ vào đó làm nền tảng
khiến trí tuệ khai phát. Nếu không chịu học hỏi giáo lý, người Phật tử
ấy chỉ là tấm bia không khác. Vả lại, người ấy muốn tự tu hay chuyển
hóa người cũng không biết lấy đâu làm phương hướng.
Nhận xét chân
chánh là căn bản của trí tuệ. Người Phật tử nhận xét sự vật trong vũ
trụ theo hai chiều Nhân Quả và Nhân Duyên.
Đứng về chiều
thời gian, vạn vật thành bại, hư nên, tốt xấu.... đều theo định luật
nhân quả. Như muốn có lúa ta phải gieo hạt lúa. vun phân xới đất làm
cỏ, mưa, nắng, sương và chăm sóc, ngăn ngừa sâu bọ là những điều kiện
phụ trợ. Có đủ những điều kiện ấy, trải qua một thời gian, ta sẽ được
những bông lúa. Từ nhân hạt lúa, đến quả nhiều bông lúa, bản thân cây
lúa có đủ những yếu tố bổ trợ và phá hoại. Không giản dị có hạt lúa sẽ
có bông lúa.
Thuyết Nhân
Quả gồm có chánh nhân, trợ nhân, thuận nhân, và nghịch
nhân.
+ Hạt lúa đem ra gieo là
chánh nhân. + Phân, đất, nước ... là trợ nhân. + Mưa, nắng,
thuận mùa là thuận nhân. + Sâu bọ, nắng hạn, bão lụt, là nghịch
nhân.
Đó là phân
tích tổng quát, nếu phân tích chi tiết còn lắm điều phiền toái. Nhân
quả liên chuyển cả ba thời : Quá khứ - Hiện tại - Vị lai. Chúng ta
muốn phán xét một việc phải nhìn suốt ba thời, không nên cắt xén từng
đoạn mà đoán định .
Đứng về mặt
không gian, không một vật nào tự nó hình thành, phải do nhiều nhân
duyên chung hơp; muôn vật trong vũ trụ đều liên hệ nương nhờ nhau,
"cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không". Cái nhà
không tự có, sở dĩ có là nhờ cây, gạch, ngói, xi măng, sắt, cát,
v..v... Bao nhiêu điều kiện chung hợp lại. Nếu một trong những điều
kiện quan trọng ấy thiếu, cái nhà khó thành tựu. Trong Kinh Phật, khi
nói đến sự tương quan, tương duyên của vạn vật thường lấy bó lau làm
thí dụ. Bó lau sở dĩ đứng vững được nhờ nhiều cây nương nhau, nếu ngã
đi một vài cây thì bó lau cũng phải ngã. Sự liên hệ chằng chịt giữa
cuộc đời mật thiết nhau như thế.
Lý Nhân Quả, Nhân
Duyên bao quát cả vũ trụ và nhân sinh, nhưng Phật giáo lấy nhân sinh
làm đối tượng, nên hai thuyết lý này được áp dụng triệt để vào sự tu
tập của con người. Người hiểu rõ lý Nhân Quả áp dụng vào sự tu tập bản
thân sẽ được những đức tính tốt :
1- Can đảm không kêu
than oán trách, khi gặp cảnh khổ đến với mình. Vì biết do nhân mình
đã tạo trong hiện tại, hoặc quá khứ còn thừa. 2- Dũng tiến tu
thiện, vì biết gieo nhân lành sẽ được hưởng quả lành. 3- Cẩn thận
khi sắp làm, sắp nói, vì sợ gây nhân xấu sau chịu quả xấu. 4-
Không ỷ lại, vì biết mọi việc do mình tạo nhân, mình hưởng quả không
phải sức thiêng liêng nào ban. 5- Không kiêu căng trong cảnh giàu
sang, vì biết nhờ nhân lành đời trước nếu khởi hành động xấu sau này
sẽ chịu quả khổ.
Người đạt được lý
Nhân Duyên đối với xã hội có nhiều ý niệm hay :
1- Không ích kỷ, vì biết
mình và người tương quan nhau, người khổ tức là mình khổ. 2-
Không chán ghét xã hội muốn trốn tránh, vì biết mình không thể ly
khai xã hội được. 3- Tích cực lợi tha, vì biết người tốt là mình
tốt. 4- Không quá khổ đau khi thấy sự hoại diệt, vì biết có hợp
phải có tan.
Biết nhận xét và áp dụng
lý Nhân Quả, Nhân duyên như vậy là người có trí tuệ tự tạo cho mình
một cuộc sống linh hoạt hợp lý.
C. Tụng niệm :
Để thêm sức
mạnh vào sự cải đổi bản thân người Phật tử nếu đủ phương tiện mỗi ngày
dành ra từ 15 đến 20 phút đến trước bàn Phật tụng kinh niệm Phật ;
hoặc ngồi tham Thiền. Giờ phút tụng kinh niệm Phật hoặc ngồi thiền
phải chí thành khẩn thiết : chuyên giữ 3 nghiệp thanh tịnh. Trọn ngày
người tại gia lăn lộn với trần tục làm sao khỏi dính vài vết nhiễm ô
trong tâm niệm . Đến trước bàn Phật tụng niệm cốt gột rửa những vết
nhơ ấy khiến tâm hồn được thanh tịnh. Trước khi tụng niệm, Phật tử mặc
bộ y phục sạch sẽ, thắp hương, lên đèn thơm tho sáng suốt, tượng Phật
ngự trên bàn tịch tịnh tôn nghiêm, bầu không khí thanh khiết này
chuyển hóa tâm hồn trở thành thanh tịnh. Giờ phút tụng niệm trang
nghiêm thành kính giúp ta thêm vững lòng tin và lãng quên mọi sự buồn
đau gian khổ.
Nếu trường hợp
không thể có bàn Phật mà không có thì giờ rảnh rỗi, mỗi ngày trước khi
đi ngủ, Phật tử nên ngồi yên tịnh độ 5 đến 10 phút để kiểm điểm lại
hành động trong ngày và tưởng nhớ 5 hạnh của Phật. Có thế, ta mới biết
lỗi lầm mà tránh và cố gắng tiến lên theo các hạnh lành .
Lý Nhân Duyên
đã cho ta thấy trong vũ trụ không có một vật nào đơn độc tự sống. Đã
có sống tức liên hệ nhau, giữa mình và mọi người, mình và vạn vật. Bởi
sự liên hệ ấy, người Phật tử không thể tự tu riêng mình, buộc phải cảm
hóa những người chung quanh mình cùng tu.
A. Cảm hóa gia đình :
Những người
gần gũi nhất với Phật tử tại gia là cha mẹ, anh em, vợ con. Tuy mỗi
người có quyền tôn thờ một lý tưởng riêng, nhưng trong gia đình mà lý
tưởng khác nhau là cái cớ khiến tình thương lợt lạt. Phật tử cố gắng
cảm hóa gia đình không phải là độc tài, cái gì mình theo bắt trong gia
đình phải theo, mà vì muốn đem lại tình thương và hạnh phúc cho gia
đình. Cha mẹ là bậc bề trên, kẻ làm con thương cha mẹ không gì hơn
khuyên cha mẹ hướng về đạo đức. Nếu cha mẹ đã Quy Y Tam Bảo, người con
phải tạo những trợ duyên tốt cho cha mẹ tiến lên trong việc đạo đức.
Nếu cha mẹ chưa biết Phật pháp, người con cố gắng khuyên giải và tự
mình thể hiện những cái đẹp Phật giáo để cha mẹ trông thấy cái hay mà
trở về đạo pháp.
Tình cốt nhục
muốn được sâu đậm thiết tha là anh em phải chung thờ một lý tưởng. Nếu
anh, em chưa biết Phật giáo thì người Phật tử nên hướng dẫn đến với
đạo. Nhưng trước tự bản thân mình phải theo, sống thực theo các hạnh
từ bi, nhẫn nhục v..v... để anh em nhìn vào ta thấy được cái gì cao
đẹp. Những nét đẹp nơi ta sẽ chuyển hóa tâm hồn huynh đệ ta hướng về
Phật giáo.
Đối với
vợ hoặc chồng, người Phật tử sẽ áp dụng Phật giáo cư xử trong gia đình
khiến vợ hoặc chồng cảm thấy Phật giáo đem đến cho gia đình một ân huệ
quý báu. Không nên bắt buộc vợ hoặc chồng theo Phật giáo mà phải tự
mình làm cao đẹp Phật giáo để bạn mình cùng chuyển hướng
theo.
Con cháu trong
nhà, người Phật tử phải khéo huấn luyện dạy dỗ chúng những gương hay
hạnh tốt trong Phật giáo khiến chúng thấm nhuần Phật giáo từ thuở bé.
Nhất là Pháp Lục Hòa, hằng giảng dạy chúng ăn ở cư xử với nhau thành
nếp hòa thuận, tin yêu, không nên hững hờ cho chúng còn bé không cần
biết đạo đức, đến khi chúng khôn lớn chưa từng biết gì về đạo Phật
nghe ai nói gì hay theo, chừng ấy kẻ làm cha mẹ hối hận đã
muộn.
Hương vị đạo
đức cá nhân thấm dần vào gia đình đến khi toàn cả gia đình đều bát
ngát mùi hoa Ưu Đàm, đó là Phật tử tại gia đã thành công một nhiệm vụ
gần.
B. Cảm hóa láng giềng :
Hương vị đạo
đức của từng gia đình các Phật tử sẽ nhiễm lây sang hàng xóm. Trong xã
hội tương quan này, cái gì hay dĩ nhiên sẽ ảnh hưởng đến những người
chung quanh, cái gì dở cũng thế. Cho nên Phật tử lấy đạo đức thực tự
bản thân, gia dình cảm hóa người lân cận là điều căn bản chân chính.
Chúng ta không cần khoe khoan Phật giáo hữu ích, cao siêu, v..v... chỉ
cần các Phật tử biết sống thực theo Phật giáo. Phàm làm việc gì người
ta mong kết quả lợi ích, theo Phật giáo cũng thế. Phật tử tại gia muốn
cảm hóa những gia đình bên cạnh mình hướng về Phật giáo, trước phải
đem Phật giáo làm lợi ích thiết thực trong gia đình mình thì sự cảm
hóa mới có hiệu quả. Ngược lại, nếu người mà nhìn vào gia đình của
Phật tử dẫy đầy một màu thù hận, buồn khổ thì khó mong kết quả. Dù
Phật tử ấy học thuộc lòng năm mười quyển Kinh, tài hùng biện tuyệt
diệu đi nữa cũng không thể hướng dẫn người chung quanh mình đến đạo
được. Muốn lợi tha quyết định trước phải tự lợi.
C. Cư xử với bạn đạo :
Chúng ta muốn
cảm hóa người chưa biết đạo trở về với Phật giáo, nếu trong tình đạo
hữu cùng nhau mà cư xử bất nhã, hoặc giận hờn thù nghịch nhau thì
người ngoài làm sao dám bước chân vào đạo. Cho nên, người Phật tử biết
thương đạo, thương quý thầy, là bạn đạo phải cư xử với nhau rất hòa
mục, thương yêu nhau như con một nhà. Tuy rằng bạn đạo không phải tình
cốt nhục, nhưng cùng thờ một lý tưởng, cùng tôn Đức Thích Ca là Từ Phụ
thì đâu khác tình cốt nhục. Những điều chia rẽ buồn phiền nhau là làm
nhục cho đạo, làm đau khổ cho quý Thầy, người Phật tử chân chánh không
nên có. Đã là phàm phu như nhau, làm gì tránh khỏi những ưu điểm và
khuyết điểm. Anh em một cha chưa hẳn tánh tình giống nhau, huống chi
bạn đạo là con nhiều nhà mà có thể giống hệt nhau được. Biết như vậy,
khi gần nhau chúng ta nên thấy những điểm tốt của bạn nhiều hơn và sẵn
sàng tha thứ những điều dở của bạn. Huynh đệ hạp ý nhau được phần nào
tốt phần ấy, đừng tham lam muốn bạn mình giống hệt mình. Chung lo việc
đạo phải đặt lý tưởng lên trên hết, những tự ái cỏn con gắng dẹp qua
một bên. Biết thương yêu nhau, đùm bọc nhau là Phật tử làm đẹp cho
Phật giáo khiến những người ngoài thèm muốn đến với đạo. Phật sự quan
trọng là Phật tử phải sống hòa thuận vui vẻ với nhau.
D. Tham gia việc Từ Thiện
:
Phật tử biết
tu theo hạnh Từ Bi của Phật; đối với những kẻ bất hạnh sẵn sàng thương
xót; cứu giúp những người chung quanh mình khi họ gặp những hoàn cảnh
khổ đau ... Cứu trợ người là hành động đẹp khiến người ta cảm mến trở
về với Phật giáo. Ngoài ra, Phật tử tùy sức sẵn sàng góp công vào
những việc từ thiện xã hội. Lòng từ bi bao giờ cũng vui vẻ chia cơm
sớt áo cho người đói rách cùng khó. Có người tụng kinh rất sành, niệm
Phật rất nhiều, nhưng gặp người nguy khổ đến nhờ cứu giúp thì gương
mặt lạnh lùng như sắt đá. Chúng ta không phải tu với Phật và chỉ nhớ
cảnh cực lạc ở phương tây, mà phải tu với chúng sanh, nhớ cảnh đau khổ
của chúng sanh ra tay cứu giúp. Gặp người đau khổ, chúng ta nên đặt
mình trong hoàn cảnh của họ để cùng thông cảm nỗi khổ đau với họ. Sự
giúp đỡ nhiều ít không quan trọng, quan trọng ở chỗ thông cảm nỗi khổ
của họ hay không. Tuy giúp của ít mà thông cảm nỗi khổ đau của họ, còn
hơn là giúp nhiều mà lạnh nhạt vô tình. Người xưa có nói:"Của cho
không bằng cách cho !" Hoặc "Một nắm khi đói bằng một gói khi no, Của
tuy tơ tóc nhưng nghĩa to nghìn trùng !"... Bố thí là phương tiện đầu hướng dẫn người về với Phật
giáo.
E. Đối với Tam-Bảo :
Người Phật tử
đã làm bổn phận trong gia đình, ngoài xã hội, còn có trách nhiệm gần
gũi liên lạc với ngôi Tam Bảo :
1.Tránh hai
thái độ cực đoan : Sự
liên lạc giữa Phật tử với Tam Bảo là lẽ dĩ nhiên không thể thiếu được.
Nhưng tới lui lo lắng phải có chừng mực, giới hạn không nên đi quá
trớn.
Có một ít Phật
tử tại gia thuần tín đối với Tam Bảo : Hoặc là chồng thì ỷ quyền chồng
trọn ngày chạy lo Phật sự, bỏ phế việc làm ăn nhà cửa, chẳng thiết đến
vợ con để vợ con sống cơ cực nheo nhóc. Đó là cái cớ khiến vợ
con phiền trách chán nản đạo đức, đôi khi khởi ác ý đối với Tam Bảo là
khác. Hoặc là vợ ỷ tay cầm chìa khóa xuất phát cúng kiếng bất chấp
chồng con, nhiều khi quên cả sự đủ thiếu no đói trong gia đình, có bao
nhiêu đều đóng góp vào chùa cả đến khi chồng con hay được đâm ra oán
trách Tăng, Ni lánh xa Phật giáo. Thế là mất cả lòng tin tưởng trong
gia đình, sống trong cảnh ngờ vực nhau. Tuy nhiên, cúng chùa lo Phật
sự là có phước, nhưng phước chỉ riêng mình để vợ hoặc chồng con hủy
báng Tam-Bảo, lánh xa Phật giáo, phước nhỏ ấy đâu đủ bù tội lớn kia.
Hơn nữa, người láng giềng nhìn vào gia đình đạo Phật mà buồn tẻ, cắng
đắng như vậy, còn ai dám theo Phật giáo. Thế là, vô tình Phật tử xúi
dục người xa lánh Đạo Phật .
Ngược lại, có một ít
người tin Phật mà bất chấp chùa chiền, không cần biết đến Tăng, Ni;
chỉ ở nhà tụng kinh niệm Phật cho thế là đủ. Đành rằng tu là tự sửa
đổi tâm tánh, hành động của mình cho tốt đẹp, đi chùa không phải là
làm cho mình tốt. Nhưng, ly khai chùa chiền, Tăng, Ni; thì nhờ ai chỉ
dạy phương pháp sửa đổi tâm tánh? Lại nữa, người Phật tử tại gia mà
không liên lạc với chùa chiền, Tăng Ni thì không phải là Phật tử. Vì
trong kinh Phật đã dạy, Cư sĩ là người gần gũi phụng sự Tam Bảo. Tam
Bảo là chỗ y cứ cho mọi người hướng về Phật giáo, nếu ta tách rời chùa
chiền, Tăng, Ni tức nhiên liên lạc truyền bá Phật giáo bị cắt đứt. Hệ
thống truyền bá không còn, nhất định Phật giáo sẽ đi đến tiêu diệt.
Như vậy, chúng ta tin Phật mà trở lại làm tiêu diệt Phật
giáo.
Tóm lại hai
hạng người trên: Một bên tín ngưỡng nồng nhiệt chỉ biết chùa mà không
biết đến gia đình; một bên chỉ biết gia đình, không cần biết đến chùa
; hai thái độ đều mang đến Phật giáo sự hoại diệt. Phật tử chân chánh
hãy dè dặt điều này !
2. Tránh quan
niệm danh tướng : Cúng chùa, làm
Phật sự ta nên gạt bỏ danh, tướng ra ngoài. Nếu người còn ôm ấp danh
tướng trong lòng mà ra lo làm việc đạo, khi bị khai thác trúng chỗ thì
làm việc quay cuồng, cúng dường bất kể, rủi gặp việc bất mãn thì không
thèm bước chân đến chùa có khi phỉ báng Tam Bảo là khác.
Công đức cúng
dường Tam Bảo thênh thang vô lượng không nên hạn cuộc nó trên tấm bảng
nhỏ hẹp, trong những lời khen dễ dàng. Phật tử làm việc đạo là vì bảo
vệ Tam Bảo thường còn ở thế gian, vì truyền bá đạo pháp lợi ích chúng
sanh không phải vì danh vì tướng. Cúng Chùa, lo đạo là do lòng chân
thành mộ đạo phát tâm của Phật Tử, đừng vì những lời tán thưởng, vì
cho người khác biết mình có đạo tâm. Đẹp đẽ thay ! những người thầm
lặng lo việc đạo. Bỉ ổi nhất, những kẻ ôm cái ngã to tướng đội lốt hy
sinh Phật sự . Thà làm Phật tử thường thường mà thật tâm vì đạo, lo
cho đạo; còn hơn những người cả ngày chạy lo Phật sự tứ phương mà vì
danh vì tướng của mình. Có khi người ta bỏ được danh lợi ở đời, mà bị
kẹt cái danh trong đạo, thật đáng thương !
3. Tư
cách Phật tử chơn chánh đối với Tam Bảo : Tư cách đúng đắn của Phật tử, khi ra làm
việc đạo không nghĩ đến cái ngã của mình, không bao giờ thấy mình là
người có công lớn. Không vì tiếng khen mà cố gắng, không do lời chê mà
thối lui. Vui vẻ phấn khởi làm Phật sự chỉ vì Tam Bảo mà thôi . Khi lo
việc đạo do sự đồng ý vui vẻ trong gia đình, không qua mặt khuất lấp
người trong nhà, lúc nào cũng giữ thái độ đường đường chánh chánh.
Kính trọng Tam Bảo là tạo điều kiện cho mọi người quy y hướng về Tam
Bảo, chứ không phải chỉ biết làm sang trọng cho ngôi Tam Bảo. Người
biết quý kính Tam Bảo là phải thương chúng sanh, vì chúng sanh là nhân
duyên chánh Tam bảo xuất hiện . Chỉ biết Tam Bảo mà không biết chúng
sanh là một sai lầm lớn của Phật tử, Phật tử cố gắng khêu sáng ngọn
đèn Tam Bảo để chúng sanh thấy mà hướng về.
Phật tử tại
gia ở chung đụng với quần chúng hoàn cảnh sanh sống cũng như họ, nếu
thực hiện được đạo đức mới đáng cho quần chúng chú ý. Nếu mỗi Phật tử
tại gia đều sống và thực hành đúng y như lời Phật dạy , Phật giáo tự
nhiên phổ khắp quần chúng. Bời vì nhân tình bao giờ cũng xu lợi, muốn
khuyên bảo làm việc gì phải thấy lợi ích hiển nhiên họ mới làm. Chúng
ta kêu gọi khuyên nhủ quần chúng hướng về Phật giáo nhưng điều kiện
lợi ích chưa đủ chứng tỏ, đừng hòng quần chúng chịu theo. Do đó, người
Phật tử tại gia phải áp dụng Phật giáo xây dựng gia đình mình được êm
ấm hạnh phúc là chứng cứ xác thực để quần chúng lấy đó làm tiêu chuẩn
hướng về Phật giáo. Hình dáng từ bi, nhẫn nhục, hỷ xả v.v... đều biểu
lộ qua con người Phật tử, ấy là bài thuyết pháp sống linh động và rất
hiệu quả .
Nếu Phật tử
chỉ học giáo pháp bằng lý thuyết suông, không làm sống dậy một điểm
nào qua con người mình . Người ấy chưa phải là Phật tử chơn chánh. Vì
cá nhân họ không biết dùng Phật giáo để tu tập, lại là mục tiêu cho
quần chúng khinh thường Phật giáo. Giả sử có những vị giảng sư giảng
rất hấp dẫn linh động, đã khô cổ, khan giọng kêu gọi quần chúng quy y
Tam bảo, chỉ gây hào hứng nhất thời cho quần chúng chứ không mong kết
quả, nếu rải rác bên cạnh quần chúng có các gia đình đã quy y Phật
giáo đôi ba năm mà hành động, cử chỉ, tâm tánh năm này không khác năm
xưa, sự rầy rà, giận dỗi, ghét, oán, thì cũng hệt mọi gia đình khác.
Quần chúng thấy quy y Phật giáo cũng bằng thừa, không lợi ích gì cho
gia đình, cho xã hội, như gia đình anh A, chị B đã quy y Phật giáo
nhan nhản trước mắt kia mà thôi . Đó chính là Phật tử tự đưa Phật giáo
đến chỗ vô dụng đối với quần chúng .
Khi quần chúng
thấy sự có mặt của Phật giáo là thừa thãi, thử hỏi Phật giáo còn có
thể sống được không ? Ảnh hưởng sâu đậm to tát nhất đối với quần chúng
là hình ảnh cá nhân và gia đình của các Phật tử tại gia. Phật giáo sẽ
phổ biến khắp quần chúng, khi nào Phật tử tại gia biết áp dụng Phật
giáo vào nếp sống gia đình. Phật giáo rất linh động hữu ích khi cá
nhân Phật tử biết thực hiện theo lời Phật dạy .
Trách nhiệm
truyền bá Phật giáo trong quần chúng phần lớn do cư sĩ. Cư sĩ là hình
ảnh gần gũi thiết thực nhất với quần chúng cho nên các vị Bồ Tát đa số
hiện thân Cư Sĩ, như : Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại
Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Dược Vương Bồ
Tát v.v... Các Ngài muốn gần gũi thân thiết để hóa độ quần chúng
nên phải mang hình thức giống họ. Tinh thần Đại Thừa Phật giáo là tích
cực lợi tha, mang nước từ bi chan rưới khắp quần chúng nên hình dáng
Cư sĩ rất cần thiết thích hợp. Vì vậy Phật tử tại gia phải ý thức
trách nhiệm quan trọng to tát của mình, phải cố gắng thực hiện cho
được phần nào nhiệm vụ này !
Nói thế, hình
như tôi tước quyền truyền bá Phật giáo của Tăng, Ni, đặt hết gánh nặng
lên vai cư sĩ. Sự thật không phải thế, Tăng, Ni, có nhiệm vụ giáo hóa
quần chúng phần lý thuyết. Lý thuyết chỉ là khả năng hướng dẫn lý trí
khiến người ta cảm mến Phật giáo nhưng thực tế sống động phải là hình
dáng cư sĩ thường sinh hoạt bên cạnh họ. Hoàn cảnh, nếp sống Tăng, Ni,
là hình ảnh cao đẹp nhưng rất xa xôi chỉ để làm mục tiêu siêu thoát
cho hàng Phật tử hướng về .
Quần chúng bao
giờ cũng tránh khổ tìm vui, Phật giáo lúc nào cũng ban vui cứu khổ nên
rất thích hợp nhu cầu cùng khổ. Vui có 3 thứ: vui hiện tại, vui vị
lai, vui giải thoát. Cứu giúp người khỏi cái khổ đói, rách v..v... là
ban vui hiện tại. Khuyên người bỏ ác, tu thiện, làm những điều phước
đức để đời sau hưởng quả báo an lạc là ban vui vị lai. Chỉ dạy người
tu hành đạt được chân lý :Tứ đế, Thập nhị Nhân duyên v..v... siêu
thoát vòng trầm luân, sanh tử là ban vui giải thoát. Vui hiện tại, vui
vị lai, hàng Phật tử có thể ban bố được. Vui giải thoát chỉ dành riêng
giới xuất gia hướng dẫn. Mục đích chính của Phật giáo là cứu người
khỏi cái khổ trầm luân, ban cái vui giải thoát. Ban cái vui hiện tại,
vui vị lai chỉ là bước đầu hướng người vào cửa đạo. Chư Bồ Tát ra tế
độ chúng sanh trước cái vui hiện tại sau mới đưa đến cái vui giải
thoát. Hai phái Phật tử Xuất gia và Tại gia chung sức tiếp độ chúng
sanh, kẻ ban vui hiện tại, người hướng dẫn đến vui giải thoát, có thế
mới đạt được mục đích chung cục của Phật giáo và mới phổ biến khắp cả
chúng sanh .
Tăng, Ni, bao
giờ cũng giữ hình ảnh giải thoát. Hình ảnh giải thoát không có nghĩa
là cái đầu hay chiếc áo mà phải là chất vị thắm nhuần trong con người
của Tăng, Ni. Những lời nói những cử chỉ của Tăng, Ni đều biểu lộ ảnh
hình giải thoát. Những lúc sống lăn lộn với trần tục đã mệt mỏi trở về
chưa nhìn thấy hình ảnh giải thoát, cảm nhận đức tính Từ Bi, hòa nhã,
nghe những lý thuyết cao siêu của Tăng, Ni, người cư sĩ nghe lòng nhẹ
nhàng an ổn. Cho nên Tăng, Ni phải giữ nguyên chất vị giải thoát, thể
hiện đức hạnh Từ Bi, hòa nhã và thông đạt giáo lý. Đừng bao giờ Tăng,
Ni bước sang lãnh vực Cư Sĩ, cũng như Cư sĩ bước lầm vào lãnh vực
Tăng, Ni .
Chúng ta
không nên đóng khung Phật giáo trong khuôn khổ tín ngưỡng nhỏ hẹp,
khiến quần chúng nhìn vào thấy Phật giáo là cái xác chết khô khan.
Chúng ta phải linh động Phật giáo cả mọi khía cạnh, nguồn sinh lực
Phật giáo dồi dào qua hành động ngôn ngữ của các Phật tử tại gia. Phật
tử biết áp dụng phần nào lời Phật dạy vào cá nhân và gia đình thì Phật
Pháp sẽ trường tồn và phát triển mãi mãi. Trách nhiệm hoằng hóa Phật
giáo là ở Tăng, Ni; phổ biến Phật giáo linh động trong quần chúng là
do Cư sĩ. Giờ rãnh nói chuyện thân mật trong gia đình, hoặc đi thăm
người láng giềng đau yếu ... đều là những buổi thuyết pháp linh động
của Cư Sĩ. Cách ăn ở trong nhà, sự đối xử hàng xóm hợp đạo lý ấy là
bài thuyết pháp sống của Phật tử tại gia. Phật tử tại gia thực hiện
được nhiệm vụ mình, mới thật là người hộ đạo chân chánh.
Tuy nhiên, thực hiện toàn vẹn nhiệm vụ là điều rất
khó, Phật tử tại gia nên tiến dần theo khả năng và phương tiện của
mình. Làm thế nào sau thời gian quy y Tam bảo, mỗi tháng, mỗi năm,
người chung quanh nhìn vào ta thấy đã tiến mỗi ngày mỗi khác hơn
trước. Trong Kinh Ưu Bà Tắc mỗi khi dạy một hạnh tu, sau cùng Đức Phật
kết thành câu: "Người tại gia giữ được rất khó vì nhiều nhân duyên
ràng buộc !" Biết là khó, nhưng chúng ta đã quyết tâm tu thì phải cố
gắng vượt lên, không vì khó mà e dè lui sụt làm mất ý chí hướng thượng
của mình !
|