H ̉ A   T H Ư Ợ N G   T H Í C H   T H I Ệ N   H O A

Tiểu sử Cố Ḥa Thượng Thích Thiện Hoa (1918 - 1973)

I - THẾ TỘC :

Ḥa thượng húy Trần Thiện Hoa, pháp danh Thiện Hoa, hiệu Hoàn Tuyên, sanh ngày 7 tháng 8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Tân Quy (sau đổi tên là An Phú Tân), quận Cầu Kè, tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Trà Vinh). Ḥa thượng là con út (thứ chín) trong gia đ́nh. Thân phụ Ḥa thượng huư Trần Văn Thê, pháp danh Thiện Huệ, thân mẫu húy Nguyễn Thị Sáu, pháp danh Diệu Tịnh. Toàn thể gia đ́nh Ḥa thượng đều quy y với tổ Chí Thiền chùa Phi Lai núi Voi, Châu Đốc. Pháp danh Thiện Hoa do Tổ đặt cho Ḥa thượng. 

Sau khi thân phụ quá cố, Ḥa thượng theo thân mẫu đi chùa Phước Hậu, làng Đông Hậu, quận Trà Ôn làm lễ cầu siêu trong 7 tuần thất. Duyên xưa gặp lại, mặc dù lúc ấy Ḥa thượng chưa biết đạo lư là ǵ, mà nằn nằn quyết một đ̣i ở chùa. Bởi gia đ́nh mộ đạo, nên cụ bà không từ chối nguyện lành của con. Năm ấy Ḥa thượng vừa lên 7 tuổi, xuất gia tại chùa Phước Hậu. Sau đó, Ḥa thượng được gởi đến chùa Đông Phước, làng Đông Thành, quận Cái Vồn (hiện giờ là quận B́nh Minh), theo học với tổ Khánh Anh.

Trong gia đ́nh chẳng những một ḿnh Ḥa thượng xuất gia, mà trước vài năm đă có người chị thứ bảy xuất gia. Đó là Sư bà Diệu Kim trụ tŕ chùa Bảo An, Cần Thơ, xuất gia lúc 17 tuổi. Người anh thứ tám đồng thời xuất gia với Ḥa thượng hiện nay là Thượng tọa trụ tŕ chùa Phật Quang Trà Ôn, pháp danh Tịnh Tâm (Thiện Tâm), hiệu Hoàn Tâm (Hoàn Triều). Kế đó, người anh thứ năm pháp danh Thiện Minh cũng xả tục xuất gia, sau trụ tŕ chùa Linh Quang tại Rạch Sung, Trà Ôn. Sau này, lại có những người cháu kêu Ḥa thượng bằng chú như Tịnh Nghiêm, Tịnh Thuận và kêu bằng cậu như Bửu Châu, Hoàn Phú cũng lần lượt xuất gia.

Có thể nói rằng đây là một gia đ́nh có nhiều người xuất gia nhất ở vùng này.

II. - THỜI HỌC ĐẠO :

a) Học các trường gia giáo :

Ḥa thượng cầu pháp với tổ Khánh Anh được hiệu là Hoàn Tuyên. Từ đó, Tổ được mời dạy những trường gia giáo nơi nào, Ḥa thượng đều theo đó học tập, từ chùa Đông Phước lần lượt đến các nơi, sau cùng là chùa Long An. Năm 1931, tổ Khánh Anh lănh chùa Long An ở Đồng Đế Trà Ôn và khai giáo nơi đây. Năm ấy, Ḥa thượng đă 14 tuổi, nhập chúng tu học tại chùa này 3 năm. 

b) Phật học đường Lưỡng Xuyên :

Đầu mùa hạ năm 1935, Phật học đường Lưỡng Xuyên khai giảng, Ḥa thượng xin nhập học tại đây, lúc đó được 17 tuổi và ngay năm ấy, Ḥa thượng thọ giới Sa-di. Từ đây Ḥa thượng chính thức vào Phật học đường sống theo nếp mẫu mực đạm bạc của đời Tăng sinh tươi trẻ. Sau 3 năm măn lớp Sơ đẳng nơi đây, Tăng sinh muốn tiến lên phải vận động ra Huế học. Với chí hiếu học và óc cầu tiến, Ḥa thượng nài xin Ban giám đốc Phật học đường Lưỡng Xuyên chấp nhận giới thiệu, và vận động thí chủ ủng hộ tài chính. Kết quả Ḥa thượng được măn nguyện, lo khăn gói lên đường với các pháp hữu : Thiện Ḥa, Hiển Thụy, Hiển Không, Chí Thiện, Bửu Ngọc, Giác Tâm. Thế là năm 1938, Ḥa thượng được ra Huế học, lúc ấy được 20 tuổi.

c) Phật học đường Báo Quốc :

Sau khi ra Huế, quư Ngài dự học tại Phật học đường Tây Thiên hai năm. Kế đó vào Quy Nhơn ở chùa Long Khánh để đến học Phật pháp với tổ Phước Huệ ở chùa Thập Tháp hết một năm tṛn. Các Ngài lại trở ra Huế dự học tại Phật học đường Báo Quốc ngót bốn năm. Sau trường Báo Quốc dời đến ṭng lâm Kim Sơn năm 1945. Lớp học tại đây vừa măn th́ chiến tranh dồn tới. Trường Kim Sơn không duy tŕ được, nên Hội An Nam Phật Học ủy thác cho quư Thượng tọa Trí Tịnh và Thiện Hoa v.v... mang một số học Tăng vào Nam. Thế là, ngót tám năm dài (1938 - 1945), quư Thượng tọa chịu nhọc nhằn cần mẫn học tập ở đất Thần kinh. Khi trở về mang một hoài băo "Hoằng pháp lợi sinh", để rồi miền Nam bừng sáng do các Ngài mồi ngọn đuốc từ chốn cố đô.

III.- THỜI HÀNH ĐẠO :

1) Khai Giảng Phật Học Đường Phật Quang :

Năm 1945 Ḥa thượng hợp tác cùng Ḥa thượng Trí Tịnh khai giảng Phật học đường Phật Quang, tại rạch Bang Chang, xă Thiện Mỹ, quận Trà Ôn. Số Tăng sinh đến dự học trên 30 vị. Năm 29 tuổi Ḥa thượng thọ giới Tỳ kheo và Bồ-tát tại giới đàn Kim Huê Sa Đéc.

Đến năm 1946 và 1947 thấy t́nh cảnh chiến tranh của đất nước, thấy Tăng sĩ một phần đă cởi áo cà-sa mặc chiến bào, Ḥa thượng Trí Tịnh quyết định dời về Sài G̣n. Phật học đường Phật Quang đă khó khăn lại gặp khó khăn hơn. Một ḿnh Ḥa thượng vừa lo dạy học, vừa lo đối phó với hoàn cảnh.

Đối nội, Ḥa thượng vẫn kiên tŕ giữ vững lớp học. Dù gặp nhiều khó khăn, nào chùa bị đốt, học chúng bị phân tán, Ḥa thượng vẫn thản nhiên duy tŕ phần c̣n lại. Ḥa thượng thường nói :"Dù chỉ c̣n một Tăng sinh hiếu học tôi vẫn dạy đầy đủ như lúc ba mươi người". Quả thật, đến năm 1950, học chúng chính thức của lớp này không quá bốn người. Thế nhưng Ḥa thượng vẫn dạy đều như thuở trước.

Đối ngoại, xă hội hiện thời đ̣i hỏi người dân phải làm công tác thật nhiều. Để bảo bọc cho Tăng chúng yên tâm tu học, Ḥa thượng mở những lớp học trẻ con, do Tăng sinh đảm trách. Đồng thời Ḥa thượng mở trạm y tế, để Tăng Ni thay nhau thuốc men giúp đỡ đồng bào. Mỗi ngày Tăng chúng làm công tác dạy học, chích thuốc trọn buổi sáng, buổi chiều tất cả đều vào lớp học kinh điển.

Ḥa thượng lại mở những lớp học "B́nh dân" dạy ban đêm để "chống nạn mù chữ". Lớp học này chỉ trong ṿng 15 hôm, là học viên đọc và viết được. Sự học có kết quả nhanh chóng ấy là do Ḥa thượng có sáng kiến soạn tập sách "Vần Chữ O".

Đích thân Ḥa thượng chích thuốc, dạy lớp "B́nh dân". Thế mà Ḥa thượng vẫn thấy chưa đủ, Ngài lại xoay qua học chẩn mạch cho toa. Ḥa thượng bảo học chúng : Chúng ta cần đem Tứ Nhiếp Pháp và Ngũ Minh để giáo hóa chúng sinh, nhất là trong hoàn cảnh này".

2) Cộng tác Phật Học Đường Nam Việt Ấn Quang :

Đầu mùa Xuân năm 1953, Ḥa thượng cùng tám đệ tử mang hành lư đến Phật học đường Nam Việt (trong số đệ tử đó có thầy Thanh Từ) nhằm ngày mùng 8 tháng giêng âm lịch. Sau cuộc họp của Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, quư Ḥa thượng đă đồng t́nh cử Ḥa thượng giữ chức vụ Trưởng Ban Giáo Dục Giáo Hội Tăng Già Nam Việt kiêm Đốc Giáo PHĐNV và chức Trưởng Ban Hoằng Pháp Giáo Hội Tăng Già Nam Việt.

a) Về phần Giáo Dục :

Với trách nhiệm Đốc giáo PHĐNV, Ḥa thượng đă tận tâm giảng dạy cho hai lớp Cao đẳng và Trung đẳng nơi đây. Đồng thời, Ḥa thượng cũng dạy lớp Trung đẳng Ni chúng mở tại chùa Từ Nghiêm, sau dời về Phật học Ni trường Dược Sư.

Kết quả, hai lớp ở PHĐNV tại chùa Ấn Quang đă lần lượt ra trường. Những Tăng sinh lớp Cao đẳng ra trường đầu tiên là : Thầy Bửu Huệ, Thiền Tâm, Tắc Phước, Tịnh Đức và Đạt Bửu. Lớp kế tiếp ra trường có những vị : Thầy Thiện Định, Huyền Vi, Thanh Từ, Từ Thông, Chánh Tiến, Quảng Long, Hoàn Quan v.v... Và những lớp sau này tiếp tục ra trường như Thầy Thắng Hoan, Đức Niệm, Liễu Minh, Long Nguyệt, Trí Quảng, Huệ Thới, Minh Thành v.v...

Tại Ni trường Dược Sư đă đào tạo nên một số Ni chúng khả dĩ gánh vác được Phật sự đáng kể như : Sư cô Như Huyền, Hải Triều Âm, Diệu Hoa, Minh Ngọc, Giác Nhẫn, Trí Ḥa, Trí Định, Tịnh Thường v.v...

Đến năm 1957 Ḥa thượng lại chủ xướng mở những khóa huấn luyện trụ tŕ lấy tên là Như Lai Sứ Giả. Tăng giới đặt tại chùa Pháp Hội, Ni giới đặt tại chùa Dược Sư. Mỗi khóa ba tháng trong mùa hạ hoặc mùa đông. Kết quả, bên Tăng đă đào tạo năm mươi hai vị như : Thầy Trường Lạc, Bửu Lai, Trí Châu, Nhật Long, Hồng Tịnh, Hồng Đạo, Hoằng Thông, Huyền Quư, Hiển Pháp, Thiện An, Huệ Thành v.v... Ni giới được ba mươi vị : Ni sư Vĩnh Bửu, Như Hoa, Phật Bửu, Giác Thiên, Như Huy, Như Chí v.v...

Với trách nhiệm Trưởng Ban Giáo Dục trong Giáo Hội Tăng Già Nam Việt, Ḥa thượng đă khuyến khích mở trường Phật học ở các tỉnh như trường Phật học tại chùa B́nh An Long Xuyên (1956), trường Phước Ḥa ở Vĩnh B́nh, trường Giác Sanh ở Phú Thọ, trường Biên Ḥa và Phật Ân ở Mỹ Tho v.v...

Có thể nói hầu hết Tăng Ni miền Nam đương thời đều chịu ân giáo dục của Ḥa thượng, hoặc nhiều hoặc ít, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp.

b) Về phần Hoằng Pháp :

Ḥa thượng nhận chức Trưởng Ban Hoằng Pháp Giáo Hội Tăng Già Nam Việt và Hội Phật Học Nam Việt năm 1953. Đích thân Ḥa thượng huấn luyện Tăng Ni sinh tại các Phật học đường để trở thành những Giảng sư thật sự. Đồng thời, Ḥa thượng cũng huấn luyện các vị trụ tŕ Tăng Ni đều có thể thành Giảng viên trên lănh vực của ḿnh và đi diễn giảng các nơi khác. Chẳng những đào tạo Tăng Ni, Ḥa thượng c̣n huấn luyện số cư sĩ đă chịu khó theo học các lớp giảng tại chùa Ấn Quang, khả dĩ đi diễn giảng các nơi được. 

Ḥa thượng mở các lớp giảng cho cư sĩ tại chùa Ấn Quang (trụ sở GHTGNV) và chùa Phước Ḥa (Bàn Cờ) sau dời về chùa Xá Lợi (trụ sở Hội PHNV) hằng tuần vào chiều chủ nhật. Chương tŕnh Học Phật Phổ Thông do Ḥa thượng chủ trương được một số chư Tăng góp sức lần lượt ra đời. Kế đó, mở lớp giảng tại chùa Giác Tâm Chi Hội Phật Học tỉnh Gia Định, chùa Dược Sư của Hội Phụ Nữ Phật Tử. Những nơi giảng này, Ḥa thượng phân công những Giảng sư do Ḥa thượng huấn luyện thay nhau giảng dạy. Đích thân Ḥa thượng th́ giảng dạy Phật tử vào tối thứ năm hằng tuần tại chùa Ấn Quang.

Phong trào học Phật miền Nam trỗi dậy như cơn vũ băo, khắp các tỉnh Giáo hội và Hội Phật học đều gởi thơ về Trung ương xin mở lớp Học Phật Phổ Thông tại trụ sở ḿnh. Thế là Ḥa thượng phải phân phối Giảng sư đi giảng dạy mỗi chỗ mười hôm, căn cứ theo mười bài Phật Học Phổ Thông, một năm giảng hai kỳ. Quả thật sinh khí đă len vào mọi tâm hồn Phật tử, khiến họ hăng say học Phật. Cứ như thế măi ngót tám năm trời (1955 - 1962).

Năm 1956, sau cuộc Đại hội kỳ hai của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Sài G̣n, Ḥa thượng lại giữ chức vụ Ủy viên Hoằng Pháp Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, tổ chức phát thanh Phật Giáo hằng tuần trên đài phát thanh Sài G̣n.

c) Trước tác và phiên dịch :

Từ năm 1953 đến năm 1965, Ḥa thượng soạn xong 12 khóa Phật Học Phổ Thông, hay gọi là Cây Thang Giáo Lư. Ḥa thượng c̣n soạn Bản Đồ Tu Phật (10 tập), Duy Thức Học (6 tập), tám quyển sách quư : Tu Tâm, Dưỡng Tánh, Nhơn Quả Luân Hồi, Ngũ Đ́nh Tâm Quán, Tứ Diệu Đế, Từ Bi Trong Đạo Phật, Chữ Ḥa Trong Đạo Phật và Năm Yếu Tố Ḥa B́nh.

Về phiên dịch, Ḥa thượng đă dịch được :

1. Đại Cương Kinh Lăng Nghiêm
2. Kinh Viên Giác
3. Kinh Kim Cang
4. Tâm Kinh
5. Luận Đại Thừa Khởi Tín
6. Luận Nhơn Minh

Ḥa thượng chủ trương một Phật Học Ṭng Thư phân làm 8 loại :

1. Phật Học Phổ Thông 12 khóa
2. Bản Đồ Tu Phật 10 tập
3. Duy Thức Học 6 quyển
4. Phật Học Giáo Khoa các trường Trung Học Bồ Đề từ đệ Thất đến đệ Nhất (lớp 6 tới 12)
5. Giáo Lư Dạy Gia Đ́nh Phật tử
6. Nghi Thức Tụng Niệm
7. Tạp Luận
8. Sự Tích

Các loại sách này gồm có 80 thứ.

Ḥa thượng lại chịu trách nhiệm xuất bản đề tên nhà sách Hương Đạo.

Ḥa thượng đă có sáng kiến quư báu, công tŕnh trước tác, phiên dịch đáng kể. Ngài đă đóng góp cho nền văn hóa Phật giáo nói riêng, quốc gia nói chung, một phần rất quan trọng.

IV. THỜI LĂNH ĐẠO :

Thời pháp nạn dưới trào Ngô Đ́nh Diệm 1963, Ḥa thượng đă tích cực tranh đấu cho Đạo pháp, lănh chức vụ Phó Chủ tịch Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo. Cuộc tranh đấu được thành công, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ra đời. Nhiệm kỳ thứ nhất của Viện Hóa Đạo, Ḥa thượng nhận chức Đệ nhất Phó Viện Trưởng, kế đến nhận chức trụ tŕ Việt Nam Quốc Tự.

Năm 1966, Ḥa thượng đảm nhận chức vụ Viện trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN. Trong nhiệm kỳ này, con thuyền Phật giáo Việt Nam gặp nhiều sóng gió. Thế nhưng Ḥa thượng vẫn nắm vững tay lái hướng thẳng theo con đường Bảo vệ đạo pháp và cứu nước cứu dân, lấy sự tồn tại của đạo pháp, trong sự tồn tại của dân tộc và nhân loại làm ngọn hải đăng.

Đến nhiệm kỳ III (1968) của Viện Hóa Đạo, Ḥa thượng cũng được toàn thể đại biểu trong nước bỏ thăm lưu nhiệm. Thời gian này bịnh t́nh của Ḥa thượng càng ngày càng tăng, mà trách nhiệm của Giáo Hội lại càng nặng nề. Với thân nhiều bệnh hoạn, lại gánh vác trọng trách quá nặng, đa số môn đồ trông thấy đều sốt ruột, đồng cầu xin Ḥa Thượng từ chức, về chùa Phước Hậu tịnh dưỡng. Nhưng Ḥa thượng bảo :"Tôi đặt đời tôi làm ba giai đoạn, giai đoạn thứ nhất chuyên học Phật pháp, giai đoạn thứ hai nỗ lực truyền bá, giai đoạn thứ ba tịnh dưỡng chuyên tu". Nhưng "đạo pháp đang trong thời kỳ sóng gió, mọi người đang tin cậy tôi, tôi đâu nỡ buông tay để về ngồi yên tịnh dưỡng". Môn đệ nghe những lời dạy này, đành cam nuốt lệ chớ không dám van nài.

Chính Ḥa thượng đă từng dạy Tăng Ni :"Chỗ nào chúng sanh mời th́ ḿnh đến, chỗ nào đạo pháp cần th́ ḿnh đi, không kể gian lao chẳng từ khó nhọc". Và Ḥa thượng cũng thường quở trách Tăng Ni không chung lo Đạo pháp, chỉ bo bo giữ chùa riêng, bổn đạo riêng, bằng câu nói :"Một con trâu cũng tốn một thằng chăn, cả bầy trâu cũng chỉ một thằng chăn. Tại sao khuôn ḿnh trong chỗ hẹp mà quên việc to lớn ?". Những lời dạy bảo này thực phát xuất từ đáy ḷng của Bồ-tát, nói lên bởi tâm lợi tha không bờ bến, ḷng mến đạo không ngằn mé.

Có lần Sư bà Bảo An được quư Ni sư thỉnh giữ trọng trách trong Ni bộ. Sư Bà đến hỏi ư Ḥa thượng, được Ḥa thượng đáp:"Gánh vác Phật sự là việc tốt, nhưng khi lănh nhiệm vụ lớn, phải tự xem ḿnh như đứa con nít. Dù bị người chê khen khinh trọng vẫn không nao núng. Đừng nhớ ḿnh có chùa to, có đệ tử nhiều, gặp việc trái ư là xách gói về chùa. Tâm niệm được như thế, mới nên đảm đang đại sự". Sư bà nghe qua, rồi lặng lẽ cáo lui.

Những Phật tử trong Ban Từ Thiện Ấn Quang, lắm khi ra làm Phật sự gặp nhiều điều khó khăn, về chùa than thở với Ḥa thượng th́ Ḥa thượng dạy :"Phật sự lúc nào làm được nên cố gắng mà làm, đến khi thiếu duyên dù có muốn làm cũng không thể làm được. Nên nhẫn nhục thông qua th́ mới viên măn công đức".

Trong thời gian này, những Phật sự tại miền Nam Tăng Ni hay Cư sĩ làm được điều ǵ đều nhờ sự khuyến khích an ủi của Ḥa thượng. Phật Học Viện Huệ Nghiêm được thành h́nh và tồn tại đến nay, cũng nhờ ơn Ḥa thượng đôn đốc và ủng hộ. Cô Nhi Viện Diệu Quang được thành lập cũng bởi Ḥa thượng thúc đẩy, v́ bản ư của Ḥa thượng muốn cho Ni chúng sau này vừa tu học vừa làm công tác xă hội. Ḥa thượng thấy Phật Học Viện Huệ Nghiêm phát triển mạnh, hy vọng ở đây mai này sẽ có nhiều vị Tăng ra giảng dạy Phật pháp. Cho nên Ḥa thượng cố t́nh tạo thành Cô Nhi Viện Diệu Quang để làm cơ sở cho Ni chúng trẻ tuổi có đủ hai điều kiện học đạo và công tác xă hội. Học đạo th́ gần Huệ Nghiêm thỉnh chư Tăng đến dạy, công tác xă hội th́ mỗi ngày thay nhau săn sóc các em cô nhi. 

Đến như Ban Từ Thiện Ấn Quang, làm được những công tác từ thiện hay Phật sự nào đều có sự khuyến khích, nhắc nhở của Ḥa thượng cả. Hoặc xây cất Niệm Phật Đường trong khám Chí Ḥa, cất chùa trong Dưỡng Trí Viện Biên Ḥa v.v... cũng do Ḥa thượng cùng Ḥa thượng Thiện Ḥa đôn đốc.

Tóm lại, từ năm 1964 đến năm 1972, mọi Phật sự đáng kể ở miền Nam đều được Ḥa thượng trợ giúp, hoặc trực tiếp hay gián tiếp.

V.- VIÊN TỊCH :

Ḥa thượng khởi bệnh từ tối đêm 17 tháng 11 năm Canh Tư, sau ngày lễ vía Đức Phật A Di Đà, Ngài được đưa vào bệnh viện Đồn Đất điều trị. Bác sĩ cho biết bệnh của Ḥa thượng cần phải được giải phẫu. Ḥa thượng thường nói với các đệ tử đến thăm viếng :"Nếu kỳ đau này tôi phải chết, tôi rất hài ḷng, v́ đối với sự hoằng hóa tôi đă làm tṛn nhiệm vụ. Đối với Đạo Pháp tôi đă gánh vác được một giai đoạn khó khăn". 

Sau khi giải phẫu, bệnh của Ḥa thượng càng ngày càng nhẹ, ai cũng tin rằng không bao lâu Ḥa thượng sẽ b́nh phục trở về chùa. Một phóng viên báo Điện tín đến vấn an, hỏi về cảm nghĩ của Ḥa thượng trong thời gian ở bệnh viện. Ḥa thượng đáp :"Tôi không mong ước ǵ hơn sớm có ngưng bắn, để cho dân tộc Việt Nam được hưởng một mùa Xuân thanh b́nh".

Một hôm, Ḥa thượng Thiện Ḥa vào thăm Ḥa thượng. Tuy cảm thấy bệnh t́nh đă nhẹ rồi, mà Ḥa thượng vẫn dặn ḍ mọi việc, cho đến Kinh sách hiện c̣n, đều giao cả cho Ḥa thượng Thiện Ḥa. Thấy điều lạ, Ḥa thượng nói :"Nằm ít hôm nữa bệnh lành rồi về, nói chi chuyện ấy". 

Bất thần, ngày 17 tháng 12 âm lịch, Ḥa thượng trở bệnh. Đến đêm 19 tháng 12 âm lịch, Ḥa thượng thấy mệt, biết ḿnh không qua khỏi nên gọi các môn đệ đến bảo :"Các con niệm Phật cho Thầy văng sanh, Thầy mệt quá rồi". Từ giờ phút ấy tiếng niệm Phật đều đều vang lên trong gian pḥng hồi sinh. Từ đó Ḥa thượng lặng lẽ dần dần đến 06 giờ 5 phút, sau một hơi thở dài rồi im ĺm theo Phật ! ...

Ḥa thượng đă an lành viên tịch vào sáng ngày 20 tháng Chạp năm Nhâm Tư nhằm ngày 23 tháng giêng năm 1973, thọ 55 tuổi và được 26 tuổi hạ.

Ḥa thượng xong việc ra đi, nhưng để lại cho hàng Giáo phẩm trong Giáo hội bao nhiêu niềm mến tiếc. Tăng Ni cảm thấy bơ vơ hết chỗ tựa nương, hàng Phật tử mất đi một bậc Thầy hiền kính ái. Ngôi nhà Đạo pháp đă thiếu đi một cây thạch trụ chịu đựng !

Giờ đây trước tôn ảnh của Ḥa thượng, toàn thể hàng môn hạ đệ tử, đệ tôn chúng con nguyện một ḷng vâng theo di huấn của Ḥa thượng, xin suốt đời nỗ lực tu học noi gương Ḥa thượng, làm tṛn sứ mệnh của người con Phật, tự giác, giác tha, giác hạnh viên măn, ngơ hầu đền đáp phần nào công ơn trời bể của Thầy Tổ !

Hộ Tŕ Sáu Căn Mỗi Phút Mỗi Giây Đi Đứng Nằm Ngồi Tâm Chánh Niệm ! ... Trau Giồi Ba Học Khi Cười Khi Nói Vào Ra Tiếp Xúc Tướng Đoan Nghiêm ! ... Chúng Sanh Vô Biên Thệ Nguyện Độ ! Phiền Năo Vô Tận Thệ Nguyện Đoạn ! Pháp Môn Vô Lượng Thệ Nguyện Học ! Phật Đạo Vô Thượng Thệ Nguyện Thành ! ... Nguyện đem công đức này  _Hướng về khắp tất cả _Đệ tử và chúng sanh_Đều trọn thành phật đạo ! Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ! ...

Free Web Hosting