GIẢI ĐỀ :
Pháp là phương tiện
để đạt đến giác ngộ cuối cùng.
Liên Hoa (Hoa sen)
biểu trưng cho sự trong sạch tinh khiết.
Kinh là lời Phật
dạy.
Diệu Pháp Liên Hoa là một đại pháp bất khả tư
nghì, khai thị chúng sanh ngộ nhập Tri-Kiến-Phật.
Tác dụng của Phật pháp là muốn chúng sanh đều được
thành Phật để giải thoát cái khổ sanh tử, tự giác giác tha. Muốn
đạt đến mục đích này thì phải thực hành đúng theo phương tiện
của Phật dạy trong kinh, nhưng người đời nay có một số cho đọc
tụng là trì kinh, một số thì chỉ nghiên cứu Phật học để thêm
kiến giải mà không chú trọng sự thực hành thành ra mất hết tác
dụng của Phật pháp.
Trích lục yếu chỉ kinh này là muốn giải quyết
những cái khó kể trên một phần nào, khiến cho người đọc ở chỗ
cao sâu mà nắm được căn bản, ở chỗ quảng đại mênh mông mà tìm
được trung tâm, để thực hành đúng theo lời Phật dạy cho đến cứu
kính thành Phật.
* PHẨM TỰA THỨ NHẤT
:
Khởi đầu buổi
thuyết pháp Phật phóng hào quang từ lông trắng giữa chặng mày
chiếu khắp tám nghìn cõi nước ở phương đông từ Trời Sắc Cứu Cánh
đến cả xuống Địa ngục A Tỳ, báo hiệu điềm lành Phật sắp thuyết
giảng kinh đại thừa :"Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa".
"Phật phóng hào quang chiếu soi" là một triệu
chứng tốt đẹp để báo cho biết Phật sẽ giảng đại pháp hy hữu xưa
nay chưa từng có. Ý muốn tất cả chúng sanh đều biết kính trọng
pháp. Do trọng pháp mới có đủ lòng tin, đủ lòng tin rồi mới
quyết chí thực hành theo, để đạt đến giác ngộ cuối cùng, vĩnh
viễn tự do tự tại.
Dù như vậy mà trong hội này vẫn có một số tứ chúng
năm ngàn người, vì chưa đủ lòng tin, nên nghe Phật sẽ giảng đại
pháp mà lại bỏ đi. Phật cho đó là những kẻ kém phước, tăng
thượng mạn.
* PHẨM PHƯƠNG TIỆN THỨ HAI :
Phật muốn dùng
phương tiện để chỉ cho chúng sanh :"Ngộ Nhập Tri Kiến Phật
!"
Theo căn bản của Phật pháp chỉ có một Phật thừa,
nhưng theo phương tiện thì giảng ra vô lượng vô biên để thích
ứng với căn cơ và trình độ của mọi chúng sanh.
Chúng sanh nào nghe được pháp này thì sẽ thành
Phật.
Chúng sanh do nghe pháp (đọc tụng cũng như nghe
pháp) mà tín giải là khai Phật tri kiến.
Do tín giải mà thọ trì (y theo chánh pháp thực
hành) là thị Phật tri kiến.
Do thọ trì mà chứng đắc là ngộ Phật tri
kiến.
Do chứng đắc mà thành đạo gọi là nhập Phật tri
kiến.
Chẳng lập tất cả tri kiến gọi là Phật tri
kiến.
* PHẨM THÍ DỤ THỨ BA :
Phật muốn dùng
phương tiện để dẫn dắt chúng sanh ra khỏi nhà lửa tam giới (Dục
giới, Sắc giới & Vô sắc giới)
* Đối với hàng
Thanh Văn : giảng pháp Tứ Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo) để chứng
quả vị Thanh văn, thoát khỏi sanh già bệnh chết, rốt ráo Niết
Bàn.
* Đối với hàng
Duyên Giác : giảng pháp Thập Nhị Nhân Duyên (Vô-minh, Hành,
Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh, Tử) để
chứng quả vị Duyên Giác.
* Đối với hàng Bồ
Tát : giảng pháp Lục Độ Ba La Mật (Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục,
Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ) để chứng quả vị Bồ Tát.
Chúng sanh ba thừa ở trong nhà lửa tam giới, cũng
như con nít ham chơi, tham đắm ngũ dục tài lợi, không sợ cái
khổ sanh lão bệnh tử, không chịu ra nhà lửa để tránh khỏi chết
thiêu. Nên Phật phải dùng các phương tiện dối gạt (lời nói dối
gạt là phương tiện để cứu độ chúng sanh nên không được coi là
vọng ngữ) nói bên ngoài có đủ thứ đồ chơi, nào là xe dê, nào là
xe hưu, nào là xe trâu. Hãy mau mau chạy ra mới được tùy ý lựa
chọn món đồ chơi của mình ham thích. Khi tất cả được ra ngoài
yên ổn rồi, Phật mới cho xe trâu trắng (Đại thừa).
Ở đây chỉ rõ dù lời Phật nói có ba thừa nhưng kỳ
thực chỉ có một Phật thừa mà thôi.
* PHẨM TÍN GIẢI THỨ TƯ :
Nói về chàng cùng
tử bỏ cha đi lang thang ở xứ người, sau mấy mươi năm trở về gặp
lại người cha là trưởng giả giàu có trao hết cho gia tài sự sản. Phật tử chúng ta chính là gã cùng tử ở trên và ông trưởng giả
giàu có kia chính là Phật vậy !
Hàng Thinh Văn Duyên Giác, sau khi được nghe đại
pháp chưa từng có và thấy Phật thọ ký Vô Thượng Bồ Đề cho Xá Lợi
Phất mới biết trước kia được ít cho là đủ, tự cho đã được Niết
Bàn, chẳng cầu tiến lên. Đối với đại thừa có vô lượng pháp tài
để thành tựu cho chúng sanh mà tâm họ chẳng ham thích, cũng như
cha là trưởng giả giàu sang mà con ruột lại bỏ đi ăn xin các
nơi, cam chịu nghèo khổ. Dầu đã gặp cha ruột giàu sang nhưng
không dám tin nhận, phải trải qua hai mươi năm lao nhọc hốt
phẩn, mới phát hiện được tất cả tài sản kia thuộc về
mình.
* PHẨM DƯỢC THẢO DỤ THỨ NĂM :
Nói về một trận
mưa pháp thấm nhuần cả Tam Thiên, Đại Thiên Thế Giới lợi
lạc cho tất cả chúng sanh muôn loài.
Pháp vương phá chấp ra đời, theo tâm ý chúng sanh
mà tùy nghi thuyết pháp. Diệu pháp khó hiểu khó biết vì tự tánh
vô hình vô thanh, lời nói chẳng thể diễn tả, ý thức chẳng thể
suy lường, kẻ có trí nghe rồi thì được tin, được hiểu. Kẻ vô trí
nghe rồi vẫn còn nghi ngờ, nhưng cũng được gieo trồng thiện
căn.
Ví như mưa xuống khắp nơi, tất cả cây cối và dược
thảo tùy theo căn tánh lãnh thọ thấm nhuần mà sanh
trưởng.
Như Lai thuyết pháp cũng vậy, một tướng, một vị,
gọi là tướng giải thoát, tướng lìa, tướng diệt. Chúng sanh y
theo lời dạy tu hành, cứu kính sẽ được kiến tánh thành
Phật.
* PHẨM THỌ KÝ THỨ SÁU :
Đức Phật thọ ký
(Ấn Chứng) cho hàng đệ tử lớn như các ngài : Ma Ha Ca Diếp, Tu
Bồ Đề, Đại Ca Chiên Diên, Đại Mục Kiền Liên ... thành Phật ở
nhiều tiểu kiếp về sau.
Ý của Phật ở phẩm này tỏ rõ rằng : tất cả đệ tử
Phật, bất cứ thượng căn, trung căn, hạ căn chỉ cần đầy đủ lòng
tin, thực hành theo đúng phương tiện của Phật dạy, cuối cùng tất
cả đều sẽ được thọ ký thành Phật.
* PHẨM HÓA THÀNH DỤ THỨ BẢY :
Phật muốn chỉ bảo
cho chúng sanh biết pháp của Phật chỉ có một Phật thừa duy nhất
mà thôi, chứ không có cái thứ hai thứ ba nào khác nhưng vì
chúng sanh căn cơ hạ liệt không có chí tìm cầu giải thoát nên
mới giảng giải một Phật thừa phân biệt nói thành ba : Thanh Văn
Thừa, Duyên Giác Thừa, Bồ Tát Thừa.
Mười sáu Vương Tử thành Phật ở mười phương thế
giới để tỏ rõ "Phật Phật bất nhị". Chư Phật đều thuyết Kinh Pháp
Hoa để tỏ rõ "Pháp pháp bất nhị".
Hàng Thinh Văn Duyên Giác ham pháp tiểu thừa,
chẳng tin đại thừa, nên Phật trước lập phương tiện nói Niết Bàn
tiểu thừa để tâm họ được tạm yên ổn, rồi sau mới dạy pháp Bồ
Tát, để đi đến chỗ cứu kính.
Cũng như
Đạo sư (Phật) dẫn dắt chúng tiểu thừa đi
tìm châu báu vì muốn thuận theo ý của đại chúng nên mới biến hóa
thành lớn để tạm nghỉ, sau mới khuyên chúng bỏ nơi "hóa thành"
tiến tới nữa, đến nơi "Bảo Sở" (Quả Phật).
* PHẨM NGŨ BÁ ĐỆ TỬ THỌ KÝ THỨ TÁM :
Phật thọ ký cho
500 vị A La Hán được thành Phật ở vị lai, đồng một hiệu
là Phổ Minh Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc,
Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu,
Thiên nhơn sư, Phật, Thế tôn. Kế đó một vị A la Hán kể lại câu
chuyện hạt châu trong chéo áo : Hàm ý nói rằng tất cả chúng sanh
ai ai cũng đều có sẵn hạt minh châu quý trong người mà không hay
không biết; nhân có thiện hữu tri thức chỉ bảo cho mới thấy;
Đó chính là Phật tánh hay tánh giác thanh tịnh giải thoát của
chính mình !
* PHẨM THỌ HỌC VÔ HỌC NHƠN KÝ THỨ CHÍN
:
Phật thọ ký cho
Tôn Giả A Nan (Thị giả thọ trì tạng pháp) và La Hầu La (con trai của Phật) sau này sẽ được thành Phật. Sau đó Phật cũng
thọ ký cho bậc Hữu học - Vô học 2.000 người sau này cũng được
thành Phật hiệu là Bửu Tướng Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri,
Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự
trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế tôn.
Phẩm tám, phẩm chín cũng như phẩm sáu, thất chúng
đệ tử cho đến Thiên Long Bát Bộ, kẻ hộ trì chánh pháp, chẳng kể
thứ lớp tốt xấu, quả vị cao thấp, hữu học (thấp), vô học (cao),
nếu được nghe một câu, một kệ của Kinh này cho đến một niệm tùy
hỷ đều được thọ ký thành Phật. Vì gieo chánh nhân thì sẽ được
chánh quả.
* PHẨM PHÁP SƯ THỨ MƯỜI :
Phật tán thán
người thọ trì tụng niệm Kinh Pháp Hoa & khuyên mọi người tôn
kính, cúng dường người trì tụng kinh, giảng nói, biên chép
kinh. Phật thuyết :"Nếu có người đặng nghe kinh điển này mới là
hay khéo tu đạo Bồ Tát ! Nghe xong tin hiểu, thọ trì thì người
đó đặng gần đạo Vô-Thượng Chánh-Đẳng Chánh-Giác !"... "Nếu chẳng
có thể thấy nghe, đọc tụng, biên chép, thọ trì, cúng dường
được Kinh Pháp Hoa này, phải biết người đó chưa khéo tu đạo Bồ
Tát !"... Phật thuyết :"Người thiện nam, thiện nữ phải vào nhà
Như-Lai, mặc y Như-Lai, ngồi tòa Như-Lai, rồi mới nên vì bốn
chúng mà rộng nói kinh này ! Nhà Như-Lai chính là tâm từ bi lớn
đối với trong tất cả chúng sanh; Y Như-Lai chính là lòng nhu
hòa, nhẫn nhục; Tòa Như-Lai chính là nhứt thiết pháp không
!"
Phẩm này dạy rằng phải tôn trọng, tán thán, cung
kính, cúng dường Pháp sư. Nhưng Pháp sư thuyết pháp cần phải
hiểu rõ ý Phật, như nói :"Vào nhà Như-Lai" là tâm đại bi, "Mặc y
Như-Lai" là tâm nhu hòa nhẫn nhục, "Ngồi tòa Như-Lai" là tất cả
pháp Không (nghĩa là "có" "chẳng thực có", "không" "chẳng thực
không", "chơn" "chẳng thực chơn", "vọng" "chẳng thật vọng", tất
cả pháp đều chẳng thật gọi là tất cả pháp Không) rồi mới dùng
tâm chẳng giải đãi vì tứ chúng thuyết pháp. Nếu chẳng hiểu rõ ý
Phật mà tự ý vọng thuyết thì sẽ bị cái tội cuồng vọng thuyết
pháp.
Kinh Lăng Nghiêm có nói bốn thứ tội địa ngục
:
Một là phá Phật luật nghi.
Hai là phỉ báng Đại Thừa.
Ba là cuồng vọng thuyết pháp.
Bốn là hư tiêu tín thí.
* PHẨM HIỆN BỬU THÁP THỨ MƯỜI MỘT :
Nói về Đức Phật
Đa Bảo có lời nguyện như vầy :"Nếu có nơi nào nói Kinh Pháp Hoa, thời tháp miếu của ta vì nghe kinh đó mà nổi ra nơi trước để
làm chứng minh".(Tháp miếu đó chính là Bửu Tháp của Phật Đa
Bửu)
Bảo tháp từ dưới đất nổi lên. Bảo tháp dụ cho tự
tánh. Đất dụ cho tâm địa. Đa Bảo dụ cho sức dụng của tự tánh vô
lượng vô biên.
Phật thuyết kinh này, chúng sanh nào nghe theo lời
tu hành thì sức dụng của tự tánh tự nhiên từ nơi tâm địa hiện
ra. Nhưng muốn thấy sức dụng của tự tánh trước tiên cần phải
chứng ngộ tự tánh bất nhị. Cũng như Phật nói :"Phải đợi khi mười
phương phân thân Phật tựu tập lại rồi, Phật Đa Bảo mới chịu hiện
ra cho thấy". Vậy thì vô lượng phân thân chỉ là một Phật Thích
Ca là để thị hiện sự bất nhị của tự tánh mà thôi.
Đã được chứng ngộ thì vô biên diệu dụng tự hiện.
Sự việc ba lần biến uế độ thành tịnh độ tức là tỏ bày diệu dụng
của tự tánh.
Bởi vì tự tánh vô hình, vô thanh, lời nói chẳng
thể diễn tả, ý thức chẳng thể suy lường, là một pháp rất khó
hiểu, khó tin, nên kinh nói : tất cả việc rất khó đều không khó
bằng thuyết pháp này.
* PHẨM ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA THỨ MƯỜI HAI :
Phật kể lại
chuyện nhiều đời nhiều kiếp về trước Ngài là 1 vị quốc vương vì
muốn cầu pháp đại thừa nên mới nhờ 1 vị tiên nhơn chỉ dạy,
nhưng vị tiên nhơn này lại hành hạ Ngài đủ điều ... Phật nói vị
tiên nhơn đó nay chính là Đề Bà Đạt Đa và Phật cũng thọ ký cho
Đề Bà Đạt Đa thành Phật ở đời vị lai hiệu là Thiên Vương Như
Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế
gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư,
Phật, Thế tôn. Trong pháp hội có Ngài Trí Tích hỏi Văn Thù Sư
Lợi Bồ Tát rằng :"Kinh này rất sâu vi diệu, là báu trong các
kinh, trong đời rất ít có, vậy có chúng sanh nào siêng năng
tinh tấn tu hành kinh này mau đặng thành Phật chăng ?" Bồ Tát
Văn Thù Sư Lợi nói :"Có con gái của Vua Rồng Ta Kiệt La. Đó
chính là Long Nữ !" Khi đó Long Nữ liền tiến lên dâng hạt châu
báu cúng dường Phật; Phật thọ nhận; ngay tức thì Long Nữ biến
thành Phật trước sự kinh ngạc của cả pháp hội
!
Phẩm này chỉ rõ đại pháp khó gặp. Tiền thân Phật
Thích Ca nhiều kiếp làm Quốc Vương, vì cầu đại pháp mà trải qua
vô lượng khổ mới được gặp Thiện-tri-thức, nghe pháp, phụng trì
cho đến thành Phật. Vì muốn phá trừ chấp trước của những kẻ chấp
ngôn hại nghĩa, chấp thật thời gian và nghiệp chướng nên khai
thị Long Nữ tám tuổi thành Phật, như vậy thì được biết chẳng
phải do tu lâu và năm thứ chướng của người nữ cũng chẳng phải có
nhứt định.
* PHẨM TRÌ THỨ MƯỜI BA :
Các vị Bồ Tát
và A La Hán có mặt trong pháp hội thệ nguyện rằng :"Sau khi
Phật diệt độ, sẽ rộng nói, phụng trì đọc tụng Kinh Pháp Hoa
này; Hoặc qua lại khắp mười phương thế giới hay khiến chúng
sanh biên chép kinh này, thọ trì, đọc tụng, giải nói nghĩa đó, nghĩ nhớ chơn chánh, đúng như pháp mà tu hành
!"
Tất cả Đại Bồ Tát, A La Hán cho đến Tỳ Kheo, Tỳ
Kheo Ni đã được thọ ký rồi đều phát lời thệ trước Phật rằng :"Sau khi Phật nhập diệt sẽ hộ trì kinh này dù cho bị chúng sanh
tàn ác khinh bỉ, chửi mắng, cho đến dùng dao gậy đánh đập, đều
cam tâm nhẫn chịu mà khuyên họ biên chép thọ trì đọc tụng, giải
thích nghĩa kinh, theo pháp tu hành".
(Biên chép đọc tụng cũng như nghe Phật thuyết
pháp, thọ trì tức là thực hành đúng như chánh pháp)
* PHẨM AN LẠC HẠNH THỨ MƯỜI BỐN :
Phật bảo cho hàng
Bồ Tát ở đời sau muốn thuyết giảng Kinh Pháp Hoa này phải trụ
trong 4 pháp :
+ An trụ nơi
"Hành Xứ" và "Thân Cận Xứ" của Bồ Tát : "Hành Xứ" là an trụ
trong nhẫn nhục, hòa dịu, khéo thuận, không vụt chạc, lòng
cũng chẳng kinh sợ. "Thân Cận Xứ" là chẳng gần gũi Vương tử,
Đại thần, Quan trưởng, Ngoại đạo, Múa hát ca ngâm, Những kẻ
hung hiểm, Hạng người sống với nghề ác v.v... mà phải
thường ưa ngồi thiền ở chỗ vắng tu nhiếp tâm mình; phải quán
sát "Nhứt Thiết Pháp Không" thấy tất cả đều là giả tướng, không
thật.
+ Trụ nơi "Hạnh
An Lạc" : trong lúc giảng Kinh không nên nói lỗi của người và của
Kinh điển, chẳng khinh mạn các Pháp sư khác, không nên chê
hay khen người khác.
+ Ở đời sau lúc
pháp gần diệt nếu thọ trì đọc tụng kinh này chớ ôm lòng ganh
ghét, chớ khinh mắng người học Phật đạo, vạch tìm chổ hay, dở
của người ... mà phải xem Phật sanh tưởng như Cha lành, đối với
Bồ Tát sanh tưởng là Bậc Đại Sư, với các Đại Bồ Tát ở mười
phương phải thâm tâm lễ lạy, với tất cả chúng sanh phải bình
đẳng nói pháp.
+ Lúc pháp gần
diệt, nếu ai trì Kinh Pháp Hoa này ở hàng tại gia, xuất gia,
phải sanh lòng từ bi lớn; vì người mà thuyết pháp, giảng giải
cho được hiểu thông suốt. Ví như câu chuyện của Vua Chuyển Luân
Thánh Vương lấy hạt minh châu trong buối tóc của mình đem cho
người đã có công lớn đánh dẹp giặc ngoại xâm ... Đức Phật cũng
như vậy ! Vì chúng sanh mà thuyết giảng Kinh Pháp Hoa này để
khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Tri kiến Phật
!
*
Tư cách của người giảng
Kinh này (cũng như các Kinh Đại-Thừa liễu nghĩa khác) cần phải an trụ nơi bốn pháp
An-Lạc-Hạnh :
Đệ Nhất An-Lạc-Hạnh : An trụ nơi "Hành xứ" và
"Thân cận xứ" của Bồ Tát. "Hành xứ" là phải nhu hòa nhẫn nhục
tâm chẳng kinh sợ, quán các pháp như thực tướng (chẳng chấp
thật), đối với các pháp đều vô-sở-hành, nghĩa là chẳng hành
pháp năng sở, chẳng hành pháp phân biệt tương đối như nam nữ,
hữu vô, v.v... chẳng hành pháp kiến văn giác tri, đối với các
pháp đều vô-sở-đắc. "Thân cận xứ" là chẳng thân cận các quí
tộc quan trưởng, các tà ma ngoại đạo, các kẻ dùng thế pháp lập
ngôn viết sách, các kẻ ác đáp ác vấn, kẻ đùa giỡn hung dữ, kẻ
thần bí biến hiện, kẻ chăn nuôi săn bắn giết hại. Những người
kể trên hoặc khi có đến thì vì họ thuyết pháp mà chẳng có tâm
hy vọng. Còn đối với người nữ thuyết pháp cần phải trang
nghiêm chẳng sanh tưởng ái dục, thu nhiếp tâm ý, gọi là nơi
"Thân cận xứ" đầu tiên. Quán tất cả pháp Không, vô danh vô tướng, phi sanh
phi diệt, vô lượng vô biên, vô ngại vô chướng, hiểu rõ pháp sanh
diệt do nhân duyên điên đảo mà hiện, gọi là "Thân cận xứ" thứ
nhì.
Đệ Nhị An-Lạc-Hạnh : chẳng khinh mạn
Pháp sư khác, chẳng nói thị phi tốt xấu hay dở
của cá nhân, cũng chẳng chỉ tên khen ngợi, cũng
không có tâm oán ghét; đối với kẻ nghe pháp
chẳng nghịch ý họ, có người vấn nạn chẳng dùng
pháp Tiểu thừa trả lời, chỉ dùng pháp Đại thừa
giải thích để cho họ được Nhứt-Thiết Chủng-Trí.
Đệ Tam An-Lạc-Hạnh : chớ khinh bỉ chửi mắng kẻ
học Phật và tìm hay dở của họ, đối với tứ chúng cầu pháp Tam
thừa chẳng nên làm phiền não họ, cũng chẳng nên hý luận các
pháp mà sanh ra tranh luận. Đối với chúng sanh khởi
đại-bi-tưởng; đối với Như Lai khởi từ-phụ-tưởng; đối với Bồ
Tát khởi đại-sư-tưởng. Vì thuận theo pháp mà bình đẳng thuyết
pháp chẳng nhiều chẳng ít, dù kẻ ưa pháp cũng chẳng nói
nhiều.
Đệ Tứ An-Lạc-Hạnh : đối với người tại gia, xuất
gia, sanh đại từ tâm, đối với người chẳng phải Bồ-Tát (ở ngoài
Đại thừa) sanh đại bi tâm. Hãy nghĩ rằng họ bị tổn thất lớn,
đối với phương tiện thuyết pháp của Như Lai chẳng thấy, chẳng
nghe, chẳng biết, chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu. Dù họ
chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu kinh này, nhưng khi ta được
Vô-Thượng Bồ-Đề, phải dùng sức thần thông trí huệ để dẫn dắt
họ, làm cho họ được trụ trong pháp này, từ từ giải thoát tất
cả khổ cho đến cứu kính thành Phật.
* PHẨM TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT THỨ MƯỜI LĂM
:
Trong pháp hội có
các vị Bồ Tát từ dưới đất vọt lên trên hư không ngồi trên tòa sư
tử, các vị này được Phật giáo hóa ở cõi Ta Bà trồng các cội
lành thành tựu đạo Bồ Tát. Các vị Bồ Tát này xin Phật cho ở lại
cõi Ta Bà để truyền tụng, hộ trì Kinh Pháp Hoa nhưng Phật lắc
đầu và nói :"Thôi đi ! Không cần !" Bởi vì Tri Kiến Phật không
phải tìm ở đâu khác mà chính ở trong tâm thanh tịnh của mỗi
chúng sanh; nếu chúng sanh nào biết chuyển tâm mình từ mê thành
giác tức là đã ngộ nhập Tri Kiến Phật rồi !
Phật Thích Ca ở cõi Ta Bà giáo hóa vô lượng vô
biên Bồ Tát và quyến thuộc của Bồ Tát, số lượng chẳng thể dùng
thí dụ toán số để biết được. Tất cả đều từ dưới đất hiện ra là
dụ cho sức dụng vô biên của tự tánh.
Nếu người nào theo đúng pháp tu hành thì sức dụng
vô biên của tự tánh tất sẽ được tự hiện nơi tâm địa.
Bốn đạo sư trong vô lượng ức quốc độ chúng Bồ Tát
hiệu là Thượng Hạnh, Vô Biên Hạnh, Tịnh Hạnh, An Lập Hạnh đều là
hạnh môn phương tiện do Phật thiết lập. Chúng sanh y theo phương
tiện ấy mà hành thì được hiển lộ Phật huệ thị hiện ra sức tự tại
thần thông, sức lực sư tử mạnh nhanh, sức oai thế mạnh lớn của
tự tánh.
* PHẨM NHƯ LAI THỌ LƯỢNG THỨ MƯỜI SÁU
:
Nói về tuổi thọ
của Phật là vô cùng lớn. Tuy nhiên Phật lại dùng phương tiện
"Chẳng diệt độ mà nói diệt độ" để răng dạy cho các chúng đệ tử
sau này không sanh tâm lười biếng, buông lung không chịu tu
hành để được Chánh Đẳng Chánh Giác ! Kinh kể lại câu chuyện có
một ông thầy thuốc giỏi có rất đông con cái, một hôm mấy đứa con
ông uống nhầm thuốc độc sanh ra ngã bệnh; thấy vậy ông mới đưa
thuốc hay cho mấy đứa con uống để giải độc, nhưng chỉ có một vài
đứa uống còn những đứa khác thì không chịu uống ! Chúng nó
nghĩ cha mình là thầy thuốc giỏi thì đâu cần gì phải lo ? Thấy vậy ông mới nghĩ ra một cách là đi qua xứ khác và
cho người về báo lại là ông đã chết ! Lúc này mấy người con
của ông mới chịu lấy thuốc ra uống và ngay đó bệnh lại được lành. Khi đó ông thầy thuốc trở về thấy các con đều được lành bệnh
trong lòng rất vui mừng vì đã cứu các con mình thoát chết ! Tuy
ông nói dối là đã chết nhưng không mắc tội hư dối bao giờ ! ...
Đức Phật của chúng ta cũng vậy ! Từ khi thành Phật đến nay đã vô
lượng vô biên trăm nghìn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp thường
còn chẳng mất, vì chúng sanh mới dùng sức phương tiện nói "Sẽ
diệt độ" nhưng thật ra "Chẳng có diệt độ " bao giờ ! Cũng chẳng
có lỗi hư dối bao giờ !
Di Lặc Bồ Tát thay mặt đại chúng hỏi rằng :"Tại
sao Phật
Thích Ca đắc đạo chẳng được bao lâu mà đã giáo hóa
được vô lượng Bồ Tát như phẩm trên ?"
Phật đáp rằng :"Ta thành Phật đã trải qua vi trần
kiếp, chẳng phải suy lường tính toán có thể biết được (phá khái
niệm thời gian), thường giáo hóa ở cõi Ta-bà, đồng thời cũng dẫn
dắt chúng sanh nơi vô lượng quốc độ (phá khái niệm không gian),
quán xét căn khí lòng tin của họ mà tùy cơ hóa độ, tự nói danh
hiệu tuổi tác chẳng đồng (phá khái niệm số lượng)".
Tại sao vậy ? Vì Phật biết được tướng của tam giới
vốn chẳng sanh tử, cũng không kẻ tại thế và diệt độ, phi thực,
phi hư, chẳng đồng, chẳng khác. Không pháp nào chấp thật
được.
* PHẨM PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC THỨ MƯỜI BẢY
:
Phật thuyết những
ai nghe tuổi thọ của Phật dài lâu như thế, nhẫn đến có thể sanh
một niệm tín giải, đặng công đức không thể hạn lượng được. Nếu
có người thực hành được năm pháp Ba La Mật như: Bố Thí, Trì
Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định Ba La Mật thì công đức
cũng không bằng người sanh niệm tín giải tuổi thọ của Phật ở
trên ! Nếu người trì Kinh Pháp Hoa này mà còn thực hành được sáu
pháp Lục Độ Ba La Mật thì công đức người đó không thể nghĩ bàn
!
Nghe Phật thuyết Phẩm Như-Lai Thọ-Lượng sanh một
niệm tín giải, được công đức không thể hạn lượng. Nếu có người
vì Vô-Thượng Bồ-Đề mà hành ngũ Ba-La-Mật, trừ Bát-Nhã Ba-La-Mật,
trong tám mươi muôn ức na-do-tha kiếp, đem công đức này sánh với
công đức tín giải trên thì trăm ngàn muôn ức phần chẳng bằng
một, huống là kẻ y theo pháp mà thọ trì. Nên vô số Đại Bồ Tát
của mười phương thế giới nghe xong liền được ngộ nhập, y theo
căn lực của họ mà hiển hiện vô biên đại dụng của tự tánh. Nếu
muốn phân biệt công đức, thật chẳng thể kể xiết.
* PHẨM TÙY HỶ CÔNG ĐỨC THỨ MƯỜI TÁM
:
Phật thuyết người
nghe được Kinh Pháp Hoa sanh lòng tùy hỷ (vui theo), khuyên
người khác tụng niệm kinh ... đến người thứ 50, thì công đức của
người đó còn hơn người đem của bố thí sáu đường chúng sanh (Địa
ngục, Ngạ quỷ, Xúc sanh, Người, Trời, A tu la) trong bốn loài
sanh (Noãn, Thai, Thấp, Hóa sanh) và làm cho tất cả chúng sanh
trong sáu đường đó đều đặng quả A La Hán. Nếu ngồi trong chỗ
giảng pháp, nhường chia chỗ cho người khác vào cùng nghe thì
cũng được hưởng phước báo lành: được ngồi chỗ của Trời Đế Thích
hoặc Phạm Vương hoặc Chuyển Luân Thánh Vương ... Hoặc rủ những
người khác cùng nghe cũng được nhiều phước báo khác như được trí
huệ và căn tánh lanh lợi ...
Nếu có người vì cầu phước báo mà bố thí vật chất
cần dùng hằng ngày và vàng bạc thất bảo trong thời gian tám mươi
năm, cho bốn trăm vạn ức A-tăng-kỳ thế giới chúng sanh, sau lại
dạy họ tu hành, tất cả đều chứng được quả A-La-Hán, công đức vô
lượng vô biên ấy, nhưng cũng không bằng công đức nghe kinh rồi
tùy hỷ chuyển dạy của người thứ năm mươi. Tại sao vậy ? Vì cầu
phước là thuộc pháp hữu vi. Công đức dù lớn đến mức nào, nhưng
phước ấy vẫn còn có số lượng, trải qua thời gian lâu sẽ hưởng
hết. Còn nghe kinh tùy hỷ, theo pháp tu hành thì được chứng Phật
quả, siêu việt số lượng, phước đức vĩnh viễn không hết
được.
* PHẨM PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC THỨ MƯỜI CHÍN
:
Phật thuyết người
nào thọ trì Kinh Pháp Hoa này thì công đức nơi mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, ý của người đó có những công năng kỳ diệu không
thể nghĩ bàn !
Thọ trì đọc tụng, biên chép giải thích, theo pháp
tu hành đúng như kinh này thì được công đức của lục căn viên
mãn, cho đến thần thông trí huệ, diệu dụng vô biên, cứu kính
thành Phật.
Pháp sư đã được công đức của lục căn viên mãn,
dùng tâm vô sở úy thuyết kinh này, thì dùng nhục nhãn có thể
thấy tất cả sắc tướng trong tam thiên đại thiên thế giới; dùng
phàm nhĩ có thể nghe tất cả âm thanh; dùng phàm tỷ có thể ngửi
tất cả mùi hương; dùng phàm thiệt có thể nếm tất cả thực vật
không kể thơm thúi, đắng chát, tốt xấu, bất cứ thức ăn nào cũng
biến thành thượng vị. Thân thể thanh tịnh như lưu ly, tất cả sắc
tướng, âm thanh trong đại thiên thế giới đều được hiển hiện
trong thân thể, ý căn thanh tịnh thì thực tướng của các pháp đều
được thấu đạt, nên có thể dùng muôn ngàn lời nói khéo léo tùy cơ
thuyết pháp khiến cho chúng sanh thích nghe kinh, được dễ hiểu
mà hoan hỷ, tín thọ, phụng hành.
* PHẨM THƯỜNG BẤT KHINH BỔ TÁT THỨ HAI MƯƠI
:
Phật thuyết thuở
xưa Phật là Bồ Tát "Thường Bất Khinh", bất cứ khi gặp ai cũng
chắp tay nói rằng: "Tôi không dám khinh các ngài, các ngài rồi
sẽ thành Phật !". Trong số những Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, có người khinh chê
và còn đánh đập Bồ Tát
"Thường Bất Khinh"... Vì vậy sau này họ phải chịu nhiều khổ não
ở Địa ngục A-Tỳ, 200 ức kiếp thường chẳng gặp Phật, chẳng nghe
Pháp, chẳng thấy Tăng !
Thường Bất Khinh Bồ Tát là Tỳ Kheo trong thời
tượng pháp của Phật Oai Âm Vương, chẳng đọc tụng kinh điển mà
chuyên hạnh lễ bái, tán thán, để đối trị tứ chúng tăng thượng
mạn. Dù thường bị người nhục mạ, thậm chí bị họ dùng gậy đánh,
dùng ngói đá liệng, cũng chẳng nổi sân, còn lớn tiếng tán thán
rằng :"Ta chẳng dám khinh các Ngài vì các Ngài đều sẽ làm
Phật".
Đây cũng là một pháp môn trì kinh (phá ngã chấp)
cứu kính được thành Phật. Nếu có người ác khẩu chửi mắng, phỉ
báng kẻ trì kinh, tất phải chịu tội báo lớn. Cũng như kinh nói : Ngàn kiếp đọa Vô-Gián địa-ngục, hai trăm ức kiếp chẳng được
nghe Phật-pháp".
* PHẨM NHƯ LAI THẦN LỰC THỨ HAI MƯƠI MỐT
:
Phật và các Đức
Phật trong pháp hội bày tướng lưỡi rộng dài phóng vô lượng tia
sáng đủ màu sắc, soi khắp cả cõi nước trong mười phương. Chứng
minh lời Phật nói trong Kinh Pháp Hoa này là không bao giờ sai.
Phật hiện đại thần lực, bày tướng lưỡi rộng dài,
phóng vô lượng quang, đều là sức dụng bất khả tư nghì của tự
tánh, là để tán thán kẻ thọ trì kinh này và tăng cường lòng tin
cho họ, khiến họ quyết chí theo đúng pháp tu hành thì sức dụng
của tự tánh mới được hiển hiện.
* PHẨM CHÚC LỤY THỨ HAI MƯƠI HAI :
Phật khuyên các
vị Bồ Tát rằng :"Nếu ở đời vị lai có thiện nam tử, thiện
nữ nhơn nào tin Trí-Huệ của Như-Lai, thời phải vì đó diễn nói
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa này ! Các ông nếu làm được như vậy thời
là đã báo được ơn của các Đức Phật !"
Phật phó chúc vô lượng Đại Bồ Tát cần phải nhứt
tâm truyền bá pháp Vô-Thượng Bồ-Đề này, để phổ biến cho tất cả
chúng sanh đều được lợi ích của Phật pháp.
* PHẨM DƯỢC VƯƠNG BỔ TÁT BỒN SỰ THỨ HAI MƯƠI BA (PHÁ SẮC ẤM) :
Phật kể lại câu
chuyện :"Dược Vương Bồ Tát khi xưa là Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ
Kiến Bồ Tát đốt cánh tay của mình để cúng dường Nhật Nguyệt Tịnh
Minh Đức Phật, sau đó tay bị đứt được hoàn sinh trở lại". Phật
nói rằng :"Nếu có người đem bảy thứ báu đầy cả cõi Tam Thiên Đại
Thiên cúng dường nơi Phật, cùng Đại Bồ Tát, Duyên Giác, A La
Hán; công đức người đó đặng chẳng bằng người thọ trì Kinh Pháp
Hoa, nhẫn đến một bài kệ bốn câu, phước của người này rất nhiều !". Sau đó Phật tán thán Kinh Pháp Hoa này lợi ích vô cùng, tột bực
vô cùng, không có Kinh gì sánh bằng ! ... Làm cho chúng sanh xa
rời tất cả khổ, tất cả bệnh tật đau đớn, có thể mở sự trăn
trói của tất cả sanh tử !
Nhất thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát (tiền thân
Dược Vương Bồ Tát) nghe Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức thuyết
Kinh Pháp Hoa liền ham tập khổ hạnh, tinh tấn tu hành, được hiện
nhứt thiết sắc thân tam muội. Trước dùng vật chất cúng dường
Phật, sau nghĩ chẳng bằng lấy thân cúng dường, liền dùng sức
nguyện thần thông mà tự thiêu thân, ánh sáng chiếu khắp tám mươi
ức hằng hà sa số thế giới. Chư Phật trong đó đồng thời tán thán
rằng :"Đó là chơn thật tinh tấn gọi là chơn pháp cúng dường Như-Lai".
Trí Giả Đại Sư (Tổ thứ ba tông Thiên Thai
bên Trung Hoa) đọc đến
câu này liền được chứng ngộ.
Đây tỏ rõ "ngộ pháp vô sanh" (phá hết ngã chấp)
mới được gọi là "chơn pháp cúng dường". Cũng như kinh nói :"Ư chư thí trung, tối tôn tối thượng", chẳng phải dùng tất cả vật
chất khác bố thí mà có thể so sánh bằng.
"Ta xả bỏ hai tay (dụ cho pháp tương đối) ắt sẽ
được thành Phật". Nên nói :"Dùng thất bảo đầy đại thiên thế giới
để cúng Phật, chẳng bằng thọ trì tứ cú kệ của Kinh này !".
* PHẨM DIỆU ÂM BỔ TÁT THỨ HAI MƯƠI BỐN (PHÁ THỌ
ẤM) :
Phật kể về Ngài
Diệu Âm Bồ Tát ở cõi nước Tịnh Quang Trang Nghiêm cúng dường
mười muôn ức kỷ nhạc và 84.000 bát bảy báu cho Đức Vân Lôi Âm
Vương Phật nên mới có được thần thông tam muội : hiện các thứ
thân hình, nơi nơi vì hàng chúng sanh nói kinh điển này. Tam
muội đó tên là "Hiện Nhứt Thiết Pháp Thân". Nếu chúng sanh
đáng dùng thân hình Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật ... liền hiện thân hình Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật ... mà vì đó nói pháp.
Nơi quốc độ Tịnh Quang Trang Nghiêm có một vị Bồ
Tát tên là Diệu Âm, bạch với Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí muốn đến
cõi Ta-bà cúng dường Phật Thích Ca, nghe Kinh Pháp Hoa (Việc này
là để tăng cường lòng tin của chúng sanh đối với kinh này) và
gặp Văn Thù Bồ Tát. Phật nói :"Thân ông bốn mươi hai nghìn do
tuần (Do tuần có ba thứ : bốn mươi dặm, sáu mươi dặm, tám mươi
dặm). Thân ta sáu trăm năm mươi muôn do tuần, còn thân Phật cõi
Ta-bà thì rất nhỏ. Ông đến cõi ấy chớ nổi ý khinh bỉ". (Thân
Phật vốn chẳng có lớn nhỏ, thân của chúng sanh cũng như
vậy).
* PHẨM PHỒ MÔN THỨ HAI MƯƠI LĂM (PHÁ TƯỞNG ẤM)
:
Phật thuyết
:"Thiện nam tử ! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh
chịu các khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ Tát này một lòng xưng
danh. Quán Thế Âm Bồ Tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều
đặng giải thoát !"(Niệm Quán Thế Âm Bồ Tát chính là trở về bản
tâm thanh tịnh của mình thì tất cả tham, sân, si đều được diệt
hết; không còn khổ não lo buồn mà lại được an vui hạnh phúc !). Phật thuyết :"Nếu có người thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ
Tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thời phước đức bằng
với người thọ trì danh tự của sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ Tát, lại trọn
đời cúng dường đồ ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc thang ..."."Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật, Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát ... đặng độ thoát,
thời Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Phật, Thanh Văn,
Duyên Giác, Bồ Tát ... mà vì đó nói pháp".
Phổ môn là phổ biến thị hiện sức dụng thần thông
của tự tánh.
Vô Tận Ý Bồ Tát hỏi Phật :"Quán Thế Âm Bồ Tát vì
nhân duyên gì tên là Quán Thế Âm ?"
Phật bảo :"Nếu có vô lượng chúng sanh chịu các khổ
não, nhứt tâm xưng danh (nhứt tâm là chẳng có niệm nào khác) thì
sức dụng tự tánh Quán Thế Âm hiện ra, tất cả đều được giải thoát
nên gọi là Quán Thế Âm, cũng gọi là tự tánh tự độ".
Sức dụng của tự tánh được hiện ra thì vào lửa
chẳng cháy, xuống nước chẳng chìm, dao chém chẳng đứt, thuốc độc
chẳng giết được, ác quỉ chẳng hại được, lìa được tất cả tham sân
si và tà kiến.
VỀ PHƯƠNG TIỆN TU HÀNH CỦA QUÁN
THẾ ÂM CÓ NĂM THỨ QUÁN
:
1. Chơn quán : là lập chơn để phá
vọng. Trước tiên phải xoay cái tánh nghe trở về tự tánh, thoát
lìa âm thanh (sở nghe). Sở nghe đã tiêu thì năng nghe cũng hết.
Nên hai tướng động tịnh chẳng sanh, do đó sự dụng của lục căn
dung thông lẫn nhau gọi là nhĩ căn viên thông cũng gọi là "phản
văn văn tự tánh".
2. Thanh tịnh quán : là dùng thanh tịnh
để đối trị sự ô nhiễm của năng sở. Năng nghe sở nghe đã hết mà
chẳng trụ nơi hết. Luôn cả tri giải về sự chẳng trụ cũng
không.
3. Từ quán : là độ cho chúng sanh
được vui mà chẳng có năng độ gọi là Vô Duyên Từ.
4. Bi quán : là độ cho chúng sanh
lìa khổ mà chẳng có sở độ gọi là Đồng Thể Bi.
Khi từ bi thể hiện thì ngã chấp đều sạch. Tình cảm
thương mến phát huy đến cùng tột, cũng như ánh sáng chiếu khắp
mọi chúng sanh trong pháp giới vũ trụ, chẳng có thiếu sót. Như
vậy được Hòa Quang Đồng Một (Nhiều đèn cùng chung một ánh sáng)
nên năng sở đều diệt.
5. Quảng đại trí huệ quán : là trí huệ chiếu
khắp pháp giới, quảng đại siêu việt số lượng. Tất cả năng sở,
sinh diệt đều diệt thì tịch diệt hiện tiền, đây là thực tướng
vĩnh viễn tồn tại cũng như phẩm Phương Tiện đã nói :"Chư pháp
tùng bổn lai, thường tự tịch diệt tướng"
vậy.
* PHẨM ĐÀ LA NI THỨ HAI MƯƠI SÁU (PHÁ HÀNH ẤM)
:
Các vị Dược Vương
Bồ Tát, Dõng Thí Bồ Tát, Tỳ Sa Môn Thiên Vương, Trì Quốc
Thiên Vương, Mười La Sát Nữ tụng chú Đà La Ni để ủng hộ cho
những Pháp Sư thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói, tu
hành Kinh Pháp Hoa này làm cho đặng an ổn, lìa các sự khổ
hoạn, tiêu các thuốc độc v.v...
Dược Vương Bồ Tát hỏi Phật :"Người thọ trì Kinh
Pháp Hoa được bao nhiêu phước ?"
Phật bảo :"Nếu có người cúng dường tám trăm muôn
ức na-do-tha hằng hà sa số chư Phật, dù được phước nhiều nhưng
cũng chẳng bằng cái phước của người thọ trì một tứ cú kệ của
kinh này, đọc tụng, giải nghĩa, đúng như pháp mà tu hành". Nên
Dược Vương Bồ Tát bạch Phật thuyết chú để bảo hộ kẻ thuyết pháp
và trì kinh; kế đó Dũng Thí Bồ Tát, Tỳ Sa Môn Thiên Vương, Trì
Quốc Thiên Vương và mười La Sát nữ v.v... đều ở nơi trước Phật
lập nguyện thuyết chú để bảo hộ Pháp sư và kẻ trì kinh.
Phẩm này bảo đảm cho người chân thực tu hành được
an toàn, chẳng sợ tà ma nhiễu loạn.
"Chú" là biểu thị cho mệnh lệnh và sức dụng của tự
tánh. Người chân thật tu hành thì sức dụng của tự tánh tự hiện,
mà được chư Phật (tự tánh Phật) hộ niệm, chớ chẳng phải do đọc
chú mới được bảo hộ.
* PHẨM DIỆU TRANG NGHIÊM VƯƠNG BỒN SỰ THỨ HAI MƯƠI
BẢY (PHÁ THỨC ẤM) :
Phật kể lại
câu chuyện :"Thuở xưa ở trong pháp hội của Phật Vân Lôi Âm Tú
Vương Hoa Trí có một vị Vua tên là Diệu Trang Nghiêm, phu nhân
của vua tên là Tịnh Đức, và hai người con trai tên là Tịnh Tạng,
Tịnh Nhãn. Hai người con này có sức thần thông lớn, phước đức
trí huệ lớn, từ lâu tu tập đạo hạnh của Bồ Tát như : Bố Thí,
Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Trí Tuệ Ba La Mật, phương tiện Ba La Mật, từ bi hỷ xả, nhẫn đến
ba mươi bảy phẩm trợ đạo, pháp thảy đều rành rẽ suốt thấu, lại được các môn tam-muội
của Bồ Tát v.v... Lúc bấy giờ, Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương
Hoa Trí vì muốn dẫn dắt Vua Diệu Trang Nghiêm và thương tưởng
đến hàng chúng sanh nên mới thuyết giảng Kinh Pháp Hoa. Khi đó
hai người con của Vua đến xin Mẫu Hậu để xuất gia, Bà Mẹ mới
nói rằng : "Cha của các con từ lâu tin theo ngoại đạo, không dễ
gì ưng thuận. Các con nên thương tưởng Cha của các con mà vì đó
hiển pháp thần thông, làm cho cha của các con đổi ý mà tin theo
Phật pháp". Lúc đó hai người con của Vua mới dùng thần thông bay
lên hư không, từ thân nhỏ hiện ra thân lớn, ẩn nơi này rồi
hiện nơi kia, đi trên nước như trên đất liền ... hiện các biến
thần thông như thế làm cho Vua Cha kinh ngạc và tin hiểu Phật
pháp. Bấy giờ Vua Cha vui mừng đặng chưa từng có, hỏi hai người
con rằng : "Thầy của các con là ai ?". Hai người con thưa rằng
:"Thầy chúng con là Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí đang
ngồi trên pháp tòa dưới cây Bồ Đề bằng bảy báu đang rộng nói
Kinh Pháp Hoa". Vua Cha liền nói :"Ta nay cũng muốn ra mắt Thầy
các con, nên cùng nhau đồng đi !". Khi đó Vua, Hoàng Hậu, hai người con trai cùng với
tám mươi bốn ngàn người thân cận của Vua đi đến chỗ
Phật nghe Kinh Pháp Hoa. Sau đó Vua được Phật Vân
Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí thọ ký sau này sẽ thành Phật hiệu là Ta La Thọ Vương,
nước tên Đại Quang. (Như vậy : Vua Diệu Trang Nghiêm được
thành Phật là do công lao của hai người con trai dùng sức phương
tiện, khéo hóa độ Vua Cha như thế khiến cho lòng Vua Cha tin
hiểu ưa mến Phật pháp). Sau cùng Phật bảo đại chúng :"Vua Diệu
Trang Nghiêm nay chính là Hoa Đức Bồ Tát, còn Bà Tịnh Đức nay
chính là Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng Bồ-Tát, còn hai người con
nay chính là Dược Vương Bồ Tát và Dược Thượng Bồ Tát".
* Theo duy thức học :
+ Tịnh Tạng biểu trưng cho Ý-thức (Thức thứ sáu)
+ Tịnh Nhãn biểu trưng cho Tiền-ngũ-thức (Ngũ căn)
+ Phu nhân Tịnh Đức biểu trưng cho Mạt-na (Thức thứ
bảy)
+ Vua Diệu Trang Nghiêm biểu trưng cho Tàng-thức
A-lại-da (Thức thứ tám)
*
Người tu Phật phải chuyển bát-thức thành
tứ-trí, nghĩa là :
+ Ý-thức chuyển thành
Diệu-Quang-Sát-Trí.
+ Tiền-ngũ-thức chuyển thành
Thành-Sở-Tác-Trí.
+ Mạt-na chuyển thành
Bình-Đẳng-Tánh-Trí.
+ Tàng-thức chuyển thành
Đại-Viên-Cảnh-Trí.
Muốn chuyển thức
thứ tám (Tàng-thức : chứa chủng tử thiện và ác) thì phải
nhờ ý thức và tiền ngũ thức mới chuyển được. Khi thức thứ
tám chuyển thì thức thứ bảy cũng sẽ chuyển theo.
Thức thứ tám là
chủ nhân ông, khi được chuyển thì thành Phật trước thức thứ sáu
và tiền ngũ thức. Trong duy thức học gọi là :"Khứ hậu lai
tiên tác chủ ông".
Diệu Trang Nghiêm Vương đã tin ngoại đạo và nhập
tà-kiến đã lâu, nhưng quá khứ từng gieo trồng thiện căn, hột
giống chín mùi, nên được sanh hai đứa con làm Thiện-tri-thức cho
mình, dẫn dắt bỏ tà về chánh, liền được Phật Vân Lôi Âm Tú Vương
Hoa Trí thọ ký tương lai sẽ làm Phật hiệu là Ta La Thọ
Vương.
Phẩm này chứng tỏ nhân quả rõ ràng, đã gieo chánh
nhân rồi ắt sẽ thành chánh quả. Dù sanh nơi nhà tà-kiến, nhưng
thiện nhân chủng tử cũng chẳng thối mất.
* PHẨM PHỒ HIỀN BỔ TÁT KHUYẾN PHÁT THỨ HAI MƯƠI
TÁM :
Phật thuyết :"Nếu
thiện nam tử, thiện nữ nhơn thành tựu bốn pháp : Thứ nhất :
Được các Đức Phật hộ niệm; Thứ hai : Trồng các cội công đức;
Thứ ba : Vào trong chánh định; Thứ tư : Phát lòng cứu tất cả
chúng sanh; thời sau khi Như-Lai diệt độ sẽ đặng Kinh
Pháp Hoa này. Liền đó Bồ Tát Phổ Hiền mới phát nguyện rằng
:"Thế Tôn ! Năm trăm năm sau trong đời ác trược, nếu có người thọ
trì kinh điển này, con sẽ giữ gìn trừ các sự khổ hoạn, làm cho
đặng an ổn mà thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói ... Con sẽ cỡi voi trắng sáu ngà cùng chúng Đại Bồ Tát
đến chỗ người đó hiện thân ra cúng dường an tâm người đó, cùng
để cúng dường Kinh Pháp Hoa". Phật thuyết :"Nếu có người thọ trì, đọc tụng, giải nghĩa kinh này, người đó khi mạng chung được
nghìn Đức Phật trao tay, khiến chẳng sợ sệt, chẳng đọa vào
đường dữ, liền lên cung Trời Đâu Suất, chỗ Di Lặc Bồ Tát mà
sanh vào hàng quyến thuộc; còn nếu biên chép kinh này thì khi
mạng chung sẽ sanh lên Trời Đao Lợi !". Sau rốt, Bồ Tát Phổ Hiền
khuyến phát : "Thế Tôn ! Năm trăm năm sau trong đời ác trược, hàng Tỳ
Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, người cầu tìm, người
thọ trì, người đọc tụng, người biên chép mà muốn tu tập Kinh
Pháp Hoa này, thời trong hai mươi mốt ngày phải một lòng tinh tấn; mãn
hai mươi mốt ngày rồi, con sẽ cỡi voi trắng sáu ngà cùng vô lượng Bồ Tát
dùng thân mà tất cả chúng sanh ưa thấy, hiện nơi trước người đó
để vì nói pháp, chỉ dạy cho lợi ích vui mừng, cũng lại cho chú
Đà La Ni ... Đặng chú Đà La Ni này rồi thời không có phi nhơn
nào có thể phá hoại được !".
+
Ý của phẩm này cũng là muốn cho người trì
Kinh
được tăng cường lòng tin và khiến họ được an ổn để chuyên tâm tu
hành.
Nói tóm lại, Phật vì một đại sự nhân duyên mà
xuất hiện trên đời, thuyết pháp bốn mươi chín năm, giảng kinh
hơn ba trăm hội, thiết lập phương tiện tám mươi bốn ngàn pháp
môn, chỉ muốn khai thị cho chúng sanh ngộ nhập
Tri Kiến
Phật . Nếu
chúng ta biết trở về với bản tâm chân thật của chính
mình và hằng sống với nó thì chúng ta
đã ngộ nhập
Tri Kiến Phật
rồi ! ...
____________________________________________________________________________________
Phần Giải Thích
:
* Tứ Vô Lượng Tâm :
+ Đại Từ : ban vui cho người và tất cả mọi loài
chúng sanh.
+ Đại Bi : cứu khổ cho người và tất cả
mọi loài chúng sanh.
+ Đại Hỷ : vui theo cái vui của người.
+ Đại Xả : buông bỏ, không nên chấp điều gì cả.
* Ngũ Đình Tâm Quán (Năm phương pháp quán
tưởng để dừng vọng tâm) :
+ Quán Sổ Tức : đối trị bệnh tán loạn của tâm
trí.
+ Quán Bất Tịnh : đối trị lòng tham sắc dục.
+ Quán Từ Bi : đối trị lòng sân hận.
+ Quán Nhân Duyên : đối trị lòng si mê.
+ Quán Vô Thường : đối trị lòng tham lam.
(Ngoài ra còn phương pháp Quán Giới Phân Biệt
để đối trị chấp ngã)
* Ngũ Minh (Năm điều mà một vị truyền bá Phật
pháp cần có) :
+ Nội Minh : Kiến thức về nội điển Phật Giáo.
+ Nhân Minh : Biết dùng lập thuyết bằng
“Nhân”truy cứu đến lý do.
+ Thanh Minh : Trình độ phiên dịch các ngôn ngữ
và trước tác.
+ Công Xảo Minh : Có trình độ Kỹ thuật, Công
Nghệ.
+ Y Phương Minh : Hành nghề y.
* Lục Độ Ba La Mật :
+ Bố Thí : gồm có Tài-thí (nội tài và ngoại
tài), Pháp-thí và Vô-úy thí.
+ Trì Giới : giữ giới luật trong sạch.
+ Nhẫn Nhục : nhẫn nhịn, chịu đựng đến cùng
tột (Thân + Khẩu + Ý)
+ Tinh Tấn : siêng năng, chuyên cần bất thối
chuyển.
+ Thiền Định : tập trung tâm ý cho được vắng
lặng, thanh tịnh.
+ Trí Huệ : thể tánh sáng suốt soi sáng sự vật
một cách thấu đáo tinh tường.
* Lược Giải Tứ Quả của Thừa Thanh Văn
:
* Sơ Quả Tu-Đà-Hoàn : người đã dứt hết tất
cả kiến hoặc tam giới, vì chưa dứt được tư hoặc (tư tưởng mê
lầm) của dục giới nên còn phải sanh cõi dục giới bảy lần, dịch
là Nhập-Lưu (Nhập vào dòng Thánh).
* Nhị Quả Tư-Đà-Hàm : người đã dứt được
sáu phẩm tư hoặc trước của dục giới, còn ba phẩm sau chưa dứt
được nên phải sanh lại cõi dục giới một lần nữa, dịch là Nhất-Lai.
* Tam quả A-Na-Hàm : người đã dứt thêm
được ba phẩm sau (nghĩa là dứt hết chín phẩm tư hoặc của dục
giới) không trở lại sanh nơi cõi dục giới nữa, (chỉ sanh ở cõi
sắc giới và vô sắc giới) dịch là Bất-Lai.
* Tứ Quả A-La-Hán : người đã dứt hết tất
cả kiến hoặc và tư hoặc của tam giới, đã ra khỏi phần đoạn sanh
tử chẳng thọ sanh nơi lục đạo, dịch là Bất-Sanh.
|