THẤT PHẬT THẾ TÔN
1- Đức Phật Tỳ-Bà-Thi (Vipassin) : thuở quá khứ.
2- Đức Phật Thi-Khí (Sikhin) : thuở quá khứ.
3- Đức Phật Tỳ-Xá-Phù (Vessabhu) : thuở quá khứ.
4- Đức Phật Câu-Lưu-Tôn (Kakusandha) : kiếp hiện tại.
5- Đức Phật Câu-Na-Hàm (Konagamana) : kiếp hiện tại.
6- Đức Phật Ca-Diếp (Kassapa) : kiếp hiện tại.
7- Đức Phật Thích Ca
Mâu-Ni (Sakya Muni) : Đức Phật hiện tại.
C̣n Vị
Phật kế thừa Đức Phật Thích Ca sau này là Đức Phật Di-Lặc.
ĐỨC PHẬT THÍCH CA MÂU NI
Đức Phật Thích Ca Mâu-Ni
(Sakya Muni) là vị Giáo-chủ Phật-giáo hiện tại. Ngài là vị Thái tử tên là
Tất-Đạt-Đa (Siddhartha), con Vua Tịnh-Phạn (Suddhodana) và Hoàng Hậu
Ma-Gia (Maya) nước Ca-Tỳ-La-Vệ (Kapilavastu) thuộc Trung-Ấn-Độ. Ngài
Giáng Sanh tại vườn Lâm-Tỳ-Ni (Lumbini) vào ngày trăng tṛn tháng hai
Ấn-Độ, tức tháng tư âm lịch Trung Hoa (Theo phong tục VN ta làm lễ
khánh-đản Ngài vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch).
Ngài xuất gia t́m đạo năm 29
tuổi. Vượt qua bao chướng ngại thử thách tu hành, Ngài ngộ đạo năm 35
tuổi. Sau khi giác ngộ thành Phật, Ngài đi khắp nơi thuyết pháp suốt 45
năm. Đến năm 80 tuổi, Ngài nhập Niết-bàn tại rừng Sa-La Song-Thọ, xứ
Cưu-Thi-Na (Kusinagara). Xá lợi Ngài được chia ra cho tám nước xây tháp
cúng dường.
ĐỨC PHẬT A-Di-ĐÀ
A-Di-Đà (Amita) có nghĩa là
"Vô Lượng Thọ", "Vô Lượng Quang". Theo Kinh Bi Hoa : Thuở quá khứ lâu xa, cơi Xan-Đề-Lam, có ông vua tên là Vô-Tránh-Niệm. Do ông Bảo-Hải
đại-thần khuyến tiến, nhà vua gặp được Đức Phật Bảo-Tạng. Nhà vua thành
tâm cúng dường, quy y, thọ giáo và phát nguyện độ sanh, nên được Đức
Phật Bảo-Tạng thọ kư : sau đây sẽ thành Phật hiệu là A-Di-Đà ở nước
Cực-Lạc Tây-phương. Hiện tại Ngài đang thuyết pháp tại đó. Ngài có 48
đại nguyện độ tận chúng sanh nơi Đức Thế-Tự-Tại-Vương-Phật. Ngài có hai
vị Bồ-Tát phụ tá là Quán-Thế-Âm Bồ-Tát và Đại-Thế-Chí Bồ-Tát.
ĐỨC PHẬT DƯỢC SƯ LƯU LY
Đức Dược-Sư Lưu-Ly Quang
Như-Lai tiếng Phạn gọi là Bệ-Sát-Xa-Lu-Rô. Ngài là vị Giáo chủ nước
Tịnh-Lưu-Ly Đông-phương. Ngài có 12 đại nguyện độ sanh. Ngài có hai vị
Bồ-Tát phụ tá là Nhật-Quang-Biến-Chiếu Bồ-Tát và Nguyệt-Quang-Biến-Chiếu
Bồ-Tát.
BỒ TÁT DI LẶC
Bồ-Tát Di-Lặc tên hiệu là
A-Dật-Đa (Adjita) dịch nghĩa là Vô-Năng-Thắng. Ngài sanh trong họ
Bà-la-môn thuộc ḍng Nam-thiên-trúc (Ấn-Độ). Ngài là vị kế thừa Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni làm Giáo chủ cơi Ta-bà này trong đời vị lai. Hiện tại
Ngài đang thuyết pháp trên cung trời Đâu-Suất.
BỒ TÁT QUÁN THẾ ÂM
Quán-Thế-Âm là dịch nghĩa chữ
Avalokitesvara (Chữ Phạn) có nghĩa là vị Bồ Tát quán sát tiếng kêu cầu của
chúng sanh trên thế gian, mà độ cho họ được giải thoát. Ngài thường thị
hiện nhiều thân để hóa độ chúng sanh. Xưa kia Ngài là con trai cả của vua
Vô-Tránh-Niệm tên là Bất-Thuấn (Huyến). Ngài được thân thừa, cúng dường
Đức Phật Bảo-Tạng và được thọ kư : sau này sẽ thành Bồ-Tát hiệu là
Quán-Thế-Âm, phụ tá bên cạnh Đức Phật A-Di-Đà ở cơi Cực Lạc. Và sau nữa
Ngài sẽ thành Phật hiệu là "Phổ-Quang Công-Đức Sơn-Vương Như-Lai " ở cơi
"Chúng-Bảo Sở-Tập Trang-Nghiêm".
BỒ TÁT ĐẠI THẾ CHÍ
Đại-Thế-Chí là dịch nghĩa chữ
Mohasthanaprata (Chữ Phạn), theo kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ, thời có nghĩa
là "Dùng ánh sáng trí tuệ soi khắp hết thảy, khiến chúng sanh trong ba
đường ác được giải thoát và được năng lực vô thượng". Xưa kia Ngài là con
trai thứ của vua Vô-Tránh-Niệm tên là Ni-Ma. Ngài được thân thừa, cúng
dường Đức Phật Bảo-Tạng và phát nguyện độ sanh mà được thọ kư : sau này sẽ
thành Bồ-Tát hiệu là Đắc-Đại-Thế (Đại-Thế-Chí), phụ tá bên cạnh Đức Phật
A-Di-Đà ở cơi Cực Lạc. Và sau nữa Ngài sẽ thành Phật hiệu là "Thiện-Trụ
Công-Đức Bảo-Vương Như-Lai" ở thế giới "Đại Thế".
BỒ TÁT VĂN THÙ
Văn-Thù gọi đủ là Văn-Thù
Sư-Lợi, c̣n gọi là Mạn-Thù-Thất-Lợi (Manjusri) dịch nghĩa là "Diệu-Đức,
Diệu-Âm, Diệu-Cát-Tường". Xưa kia Ngài là con thứ ba của vua Vô-Tránh-Niệm
tên là Vương-Chúng Thái-Tử. Do cúng dường Đức Phật Bảo-Tạng và phát
nguyện độ sanh, Ngài được tên hiệu là Văn-Thù Sư-Lợi và được thọ kư sau
này sẽ thành Phật ở thế giới Thanh-Tịnh Vô-Cấu Bảo-Chỉ và tên hiệu là Phổ
Hiền Như Lai. Ngài là vị Bồ-Tát hiểu thấu Phật-tánh, đầy đủ ba đức :
Pháp-thân, Bát-nhă, Giải-thoát và Ngài đem ba đức vi diệu ấy giác ngộ
chúng sanh. Ngài là vị có trí tuệ nhiệm mầu, hiện thân giúp đỡ sự truyền
bá Phật pháp của Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni.
BỒ TÁT PHỔ HIỀN
Phổ Hiền là dịch nghĩa chữ
Samantabhadra (Chữ Phạn) có nghĩa là cái thể tánh rộng khắp. Xưa kia Ngài
là con thứ tư của vua Vô-Tránh-Niệm tên là Năng-Đà-Nô. Do cúng dường Đức
Phật Bảo-Tạng và phát nguyện độ sanh, Ngài được thọ kư : sau đây làm hạnh
Bồ-Tát sẽ được tên là Kim-Cương Trí-Huệ Quang-Minh Công-Đức, rồi sau sẽ
thành Phật ở thế giới Bất-Huyến Đông-phương và tên hiệu cũng là Phổ Hiền
Như Lai. Ngài là vị Bồ-Tát hóa thân giúp đỡ sự truyền bá Phật-pháp
của Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni. Ngài có mười đại nguyện thừa sự Chư Phật,
tự tu và độ sanh.
BỒ TÁT ĐỊA TẠNG
Địa Tạng là dịch nghĩa chữ
Ksitigarbha (Chữ Phạn) có nghĩa là an nhẫn bất động như đại địa, suy nghĩ
sâu xa kín đáo như kho tàng bí mật. Tiền thân của Ngài theo Kinh Địa Tạng
nói th́ rất nhiều, nhưng đều do hiếu hạnh và ḷng từ bi của Ngài mà Ngài
phát ra thệ nguyện rộng lớn :"Địa ngục rỗng không, Chúng sanh độ hết mới
thành Phật !". Trên cung trời Đao-Lợi, Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni phó chúc
cho Ngài cứu độ chúng sanh sau khi Phật nhập Niết-bàn cho đến lúc Đức Phật
Di-Lặc ra đời.
BỒ TÁT CHUẨN ĐỀ
Chuẩn Đề (Candi) có nghĩa là
"Thanh-Tịnh", là lời tán thán "tâm tính thanh tịnh". Ngài là vị Pháp-thân
Bồ-Tát, thường được tôn xưng là "Thiên-Nhân Trượng-Phu Quán-Âm", là
"Thất-Câu-Chỉ Phật-Mẫu". Ngài thường thuyết Đà-la-ni cho chúng sanh tu tập, cho tâm tánh thanh tịnh, để đạt đến chỗ Đại-giác.
THẬP ĐẠI ĐỆ TỬ CỦA PHẬT
1- Ngài Xá-Lợi-Phất
(Sariputra) : Trí Tuệ Bậc Nhất.
2- Ngài Mục-Kiền-Liên
(Maudgalyayana) : Thần Thông Bậc Nhất.
3- Ngài Ca-Diếp (Kasyapa)
: Đầu Đà Bậc Nhất.
4- Ngài A-Na-Luật
(Aniruddha) : Thiên Nhăn Bậc Nhất.
5- Ngài Tu-Bồ-Đề (Subhuti)
: Giải Không Bậc Nhất.
6- Ngài Phú-Lâu-Na
(Purna-putra) : Thuyết Pháp Bậc Nhất.
7- Ngài Ca-Chiên-Diên
(Katyayana) : Luận Nghị Bậc Nhất.
8- Ngài Ưu-Ba-Ly (Upali) :
Tŕ Luật Bậc Nhất.
9- Ngài La-Hầu-La (Rahula)
(Con trai của Phật) : Mật Hạnh Bậc Nhất.
10- Ngài A-Nan-Đà (Ananda)
: Đa Văn Bậc Nhất.
HAI MƯƠI TÁM VỊ TỔ SƯ Ở ẤN-DỘ
1- Ngài Ca-Diếp
(Kasyapa)
2- Ngài A-Nan-Đà
(Ananda)
3- Ngài Thương-Na-Ḥa-Tu
(Sanavasa)
4- Ngài Ưu-Ba-Cúc-Đa
(Upagupta)
5- Ngài Đề-Đa-Ca
(Dhrtaka)
6- Ngài Di-Già-Ca
7- Ngài Bà-Tu-Mật
(Vasumitra)
8- Ngài Phật-Đà-Nan-Đề
9- Ngài
Phục-Đà-Mật-Đa
10- Ngài Hiếp Tôn-Giả
(Parsva)
11- Ngài Phú-Na-Da-Xá
(Punyayasas)
12- Ngài Mă-Minh
(Asvaghosa)
13- Ngài Ca-Tỳ-Ma-La
(Kapimala)
14- Ngài Long-Thọ
(Nagarjiuna)
15- Ngài Ca-Na-Đề-Bà
(Kana-deva)
16- Ngài La-Hầu-La-Đa
(Rahulata)
17- Ngài Tăng-Già-Nan-Đề
(Samghanandi)
18- Ngài Già-Gia-Xá-Đa
19- Ngài Cưu-Ma-La-Đa
(Kumaralabdha)
20- Ngài Xà-Dạ-Đa
21- Ngài Bà-Tu-Bàn-Đầu
(Vasubandhu)
22- Ngài Ma-Nô-La
23- Ngài Hạc-Lặc-Na
(Haklena)
24- Ngài Sư-Tử Tôn-Giả
25- Ngài Bà-Xá-Tư-Đa
26- Ngài
Bất-Như-Mật-Đa
27- Ngài Bát-Nhă-Đa-La
(Prajnatara)
28- Ngài Bồ-Đề Đạt-Ma
(Bodhidharma).
(Chính tên Ngài là Bồ-Đề-Đa-La, thuộc ḍng sát lợi, con thứ ba Vua Hương-Chí, nam Ấn-Độ. Trung Hoa
dịch tên Ngài là Đạo-Pháp. Đời Lương-Vơ-Đế, Ngài đem tâm pháp truyền
sang Trung Hoa. Ngài là Vị Sơ Tổ Thiền Tông bên Trung Hoa).
SÁU VỊ TỔ SƯ THIỀN TÔNG Ở TRUNG
HOA
1- Sơ Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma
: Ngài là vị Tổ thứ 28 của Thiền
Tông Ấn-Độ, truyền Thiền Tông sang Trung Hoa thời nhà Lương. Cơ duyên
hóa độ chưa gặp, Ngài tới chùa Thiếu Lâm ngồi quay mặt vào vách suốt chín
năm trời. Sau, Ngài truyền tâm pháp cho Ngài Thần-Quang, đạo-hiệu
Huệ-Khả.
2- Nhị Tổ Huệ-Khả
: Ngài họ Cơ, sanh trưởng tại đất
Vũ-Lao, thân phụ Ngài tên là Tịch. Khi sanh, Ngài có điềm sáng lạ, nên
thân phụ Ngài đặt tên là "Quang". Lớn lên Ngài đi xuất gia nơi Ngài Bảo
Tịnh. Năm 33 tuổi, Ngài về Hương Sơn, ngồi yên lặng tám năm. Sau tới
chùa Thiếu Lâm, tự chặt cánh tay trái ḿnh để cầu pháp nơi Tổ Bồ-Đề
Đạt-Ma. Ngài được Tổ Đạt-Ma truyền tâm pháp và đổi tên thành Huệ-Khả (tức
là trí huệ khá). Sau này Ngài truyền pháp lại cho Ngài Tăng-Xán. Năm 107
tuổi th́ Ngài viên tịch.
3- Tam Tổ Tăng-Xán
: Ngài người miền Từ Châu. Khi c̣n
là Cư sĩ, Ngài đến quy y, thọ giáo nơi Ngài Huệ-Khả. Ngài hành đạo gặp
thời Chu-Vũ-Đế hủy diệt Phật pháp. Ngài hay qua lại núi Tư-Không. Sau
Ngài truyền pháp cho Ngài Đạo-Tín và Ngài Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi (Sang Việt-Nam). Cuối cùng Ngài tới núi La-Phù giáo hóa chúng sanh, rồi đứng thẳng,
chắp tay mà viên tịch gần bên cây đại thụ.
4- Tứ Tổ Đạo-Tín
: Thân phụ Ngài thuộc họ Tư-Mă, gốc
ở Hà-Nội, sau dời về Châu-Kỳ, thuộc Huyện Quảng-Tế, mới sanh Ngài. Lúc
tuổi c̣n nhỏ, Ngài có tánh siêu việt lạ thường, hâm mộ Không-Tông. Đi
xuất gia, Ngài được Tổ Tăng-Xán truyền tâm pháp cho và từ đó Ngài không
ngủ, không đặt lưng xuống chiếu suốt 60 năm. Sau Ngài truyền pháp cho Ngài
Hoằng-Nhẫn. Đến năm 72 tuổi, Ngài ngồi kiết già viên tịch.
5- Ngũ Tổ Hoằng-Nhẫn
: Ngài họ Chu, quán ở Châu-Kỳ,
thuộc huyện Hoàng-Mai. Ngài theo hầu Tổ Đạo-Tín thừ thuở nhỏ. Khi đắc
pháp, Ngài về núi Phá-Đầu hóa độ chúng sanh. Đồ chúng Ngài có hơn 700
người, có Ngài Thần Tú là người quán thông suốt cả nội, ngoại điển nhưng
không đắc ngộ. Sau Ngài truyền pháp cho Ngài Huệ-Năng. Năm 74 tuổi Ngài
ngồi mà viên tịch.
6- Lục Tổ Huệ-Năng
: Ngài họ Lư, người đất Tân-Châu,
thuộc miền Lĩnh-Nam. Cha mất sớm, lớn lên Ngài đi kiếm củi nuôi mẹ. T́m
đủ phương tiện để chu cấp cho mẹ, Ngài xin mẹ tới quy y, thọ pháp nơi
Ngũ Tổ Hoằng-Nhẫn. Tới đây Ngài chuyên giă gạo. Sau Ngài được Ngũ Tổ
truyền tâm pháp, qua phương Nam hoằng dương Phật pháp.
* Ngài có rất đông đệ tử, sau có hai vị kế thừa Ngài
là Nam-Nhạc và Thanh-Nguyên :
+ Dưới Tổ
Nam-Nhạc Hoài-Nhượng là Mă-Tổ Đạo-Nhất, dưới Mă-Tổ Đạo-Nhất là Tổ
Bá-Trượng Hoài-Hải, dưới Tổ Bá-Trượng Hoài-Hải có ba vị là Tổ Hoàng-Bá
Hy-Vận, Tổ Qui-Sơn Linh-Hựu, Vô-Ngôn-Thông (Sang Việt-Nam). Tổ Hoàng-Bá
Hy-Vận có Ngài Nghĩa-Huyền lập phái Lâm-Tế; Tổ Qui-Sơn
Linh-Hựu có Ngài Huệ-Tịch lập phái Quy-Ngưỡng.
+ Ngài Thanh-Nguyên có Ngài Thạch-Đầu. Từ Ngài
Thạch-Đầu trở xuống có Ngài Bản-Tịch lập phái Tào-Động; Ngài
Văn-Yển lập phái Vân-Môn; Ngài Văn-Ích lập
phái Pháp-Nhăn. Do năm phái trên, Thiền Tông truyền bá khắp trong
và ngoài nước Trung Hoa ...
[
BACK ]
|