+ Trong Kinh Phạm Vơng, Phật nói
:“Người ăn thịt chúng sanh mất ḷng từ bi, dứt
giống Phật tánh, mắc vô lượng tội”.
Ăn, giết hại sát sanh hiện đời chịu nhiều
tật bệnh, tàn tật, chết yểu, nhiều tai họa, cốt
nhục chia ĺa; sát sanh là góp phần gây họa
chiến tranh, thiên tai, lũ lụt, hạn hán v.v…
Chết đọa ba đường ác (địa-ngục, ngạ-quỷ,
súc-sanh), chịu vô lượng thống khổ.
* Sát sanh và những hành vi tương tự :
Tự tay ḿnh giết, xúi người khác giết,
giúp đỡ, khen ngợi việc giết hại, cung cấp dụng
cụ giết, chỉ phương pháp giết, thích ăn thịt
động vật, bắt và ăn thai trứng động vật.
* Sát sanh và quả báo :
a. Năm căn không được đầy đủ (mắt, tai,
mũi, lưỡi, tay, chân bị tàn phế) là do đời trước
bắn, ném chim, thú; hoặc chặt đầu, bẻ chân, bẻ
cánh chim, thú.
b. Già cả cô độc không con cái nương nhờ
là do bắt trứng chim hoặc chim con, khiến cho
chim mẹ mất con.
c. Mồ côi từ nhỏ, không có người thân là
do bắt súc-sinh, trói buộc hoặc giam nhốt chúng,
khiến cho chúng phải xa rời cha mẹ, anh em, đồng
bọn.
d. Sinh làm trâu, cày bừa cực khổ c̣n bị
đánh đập là do tham lam của người.
e. Hai tay cong queo không làm ǵ được,
hai chân tàn phế, lưng gù, thân thể bại liệt do
đời trước phá hoại nơi ở của thú, giăng lưới bắt
cá, chim, thú hoặc bẻ tay chân làm tổn thương
chúng.
+ Những ngày đám cưới, giỗ, tiệc tùng …
chớ nên hại vật, sát sanh để ăn hoặc cúng tế. V́
sát sanh là tạo ác nghiệp, mà mong cầu sự an lạc,
niềm vui hạnh phúc là điều không có thể. Tốt
nhất những ngày đó nên tổ chức chay; và việc
cúng tế tuyệt đối cũng phải cúng chay. Được như
vậy th́ việc cúng tế mới được phước, dễ cảm ứng
và linh nghiệm hơn, đồng thời không tạo tội lỗi
…
=>
Đức lớn của trời đất là sự sống; Đạo lớn của Như-Lai
là từ bi !
* Người ăn chay
có những lợi ích :
1. Là thuận ḷng từ bi của Phật nên dễ
cảm thông được Phật độ.
2. Có ḷng Bồ-đề nên nghiệp chướng mau
tiêu diệt.
3. Không vay nợ mạng nên không bị
quả báo sau này.
5. Cuối cùng được sanh về cảnh giới
an lành của Phật.
+ Phật thương chúng sanh hơn cha mẹ
thương con, thấy chúng sanh đau khổ Ngài t́m
nhiều phương cách để cứu khổ ban vui. Nếu chúng
ta ăn chay trường, phóng sanh chim, cá là chúng
ta có ḷng từ bi giống Phật, th́ Phật sẽ rất hài
ḷng. Lại nữa, chúng ta đang tu niệm cầu sanh về
cơi Cực-Lạc để mau chứng quả cùng Phật độ sanh
th́ ḷng từ của chúng ta hợp với Phật nên rất dễ
độ, tu tŕ dễ được văng sanh …
Hỏi
:
Bước đầu Phật tử ăn chay như thế nào ?
Đáp : Nếu có sẵn căn lành th́ liền phát
Bồ-đề tâm ăn chay trường liền. C̣n ai nhiều
nghiệp chướng không phát tâm nổi th́ ăn chay kỳ,
mỗi tháng 2 ngày, 4 – 6 ngày hoặc mười ngày.
Những ngày chay dù hai ngày nhưng phải quyết
định giữ cho trọn th́ công đức rất lớn. C̣n
những ngày khác nên ăn rau quả nhiều hơn ăn thịt,
nếu có ăn thịt th́ nên mua thịt đă được làm sẵn
ở chợ (Tam Tịnh Nhục) chớ không nên sát sanh.
+ Kính thưa đại chúng, trong kinh
Phật dạy :“Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn”.
Nghĩa là : Được thân người là khó, gặp Phật pháp
lại càng khó hơn; gặp Phật pháp mà có thể tin
sâu tu niệm th́ là cái khó ở trong cái khó, như
ṃ kim đáy bể ngàn năm một thuở.
Nay chúng ta đă được thân người và gặp
Phật pháp, được đảnh lễ Tôn Tượng của Ngài, được
thừa hưởng Kinh-tạng Giáo-pháp của Như-Lai và
gần gũi Chư Tăng-Ni, Thiện-tri-thức tu học đó là
một nhân duyên phúc đức lớn lao. Vậy chúng tôi
khuyên đại chúng hăy phát tâm tu tŕ, Niệm Phật,
làm lành lánh dữ để hiện đời được an lạc và giải
thoát ở vị lai.
Thời gian không chờ đợi bất cứ một ai :
một ngày, hai ngày; một năm, hai năm; mười năm,
năm mươi năm … thời gian cướp đi sự sống của vạn
vật trên vũ trụ này. Vậy tôi khuyên tất cả quư
vị hăy phát tâm tu hành, làm lành lánh dữ, để
đời người khỏi phải luống qua một cách vô ích,
không kịp hối hận khi nhắm mắt xuôi tay, lo âu
sợ hăi khi cái chết đến và mịt mờ đường sinh tử
!
+ Kinh nói :“Nếu người nào thọ tŕ danh
hiệu Phật th́ hiện đời được mười loại công đức :
1. Ngày đêm thường được tất cả Chư-thiên,
Thần-tướng đại lực cùng các quyến thuộc ẩn hiện
bảo hộ.
2. Thường được 25 vị đại Bồ-Tát như Ngài
Văn-Thù Bồ-Tát, Phổ-Hiền Bồ-Tát, Di-Lặc Bồ-Tát,
Quán Thế Âm Bồ-Tát … và tất cả các Bồ-Tát thường
theo bảo hộ.
3. Thường được Chư Phật hộ niệm cả ngày
đêm, Phật A-Di-Đà thường phóng ánh sáng nhiếp
thọ người này.
4. Tất cả ác-quỷ, dạ-xoa, la-sát đều
không thể hại, tất cả rắn độc, thuốc độc không
thể xâm hại.
5. Không bị mọi tai nạn nước lửa, giặc
cướp, gươm đao, ngục tù, xiềng xích, chết đột
ngột, điên cuồng mất mạng.
6. Những tội đă làm trước kia đều tiêu
diệt. Những oan mạng đă bị giết chết ngày xưa
đều được giải thoát không c̣n kết thù oán.
7. Đêm nằm nghỉ an ổn, hoặc mộng thấy sắc
thân thắng diệu của Đức Phật A-Di-Đà.
8. Tâm thường hoan hỷ, nhan sắc tươi sáng,
khí lực đầy đủ, việc làm có kết quả tốt đẹp.
9. Thường được mọi người ở đời cung kính,
cúng dường, lễ bái cũng như cúng Phật.
10. Khi lâm chung tâm không sợ hăi, chánh
niệm hiện tiền, được thấy Đức Phật A-Di-Đà và
các Thánh chúng bưng đài vàng tiếp dẫn văng-sanh
về Cực-Lạc, cùng tận kiếp vị lai hưởng thọ sự
vui mầu nhiệm …
=> Niệm Phật một câu phước tăng vô lượng; Lễ
Phật một lạy tội diệt hà sa ! …
* Chẳng phải thanh tịnh tâm ḿnh, trừ
nghiệp chướng rồi mới niệm Phật, mà do thường
niệm Phật tội chướng sẽ tiêu diệt.
+ Cơi ta bà rất nhiều uế trược, con người
phải chịu sinh-già-bệnh-tử và nhiều phiền năo
bức bách. Một đời từ lúc mới sinh ra đến khi già
nhắm mắt phải lo ăn lo mặc, lo cho cha mẹ rồi
đến con cháu … cứ lẩn quẩn trong suy tư lo lắng
và ưu tư phiền năo : nghèo th́ muốn được giàu có,
đau bệnh th́ muốn lành lặn, khổ th́ muốn được an
vui, hạnh phúc … Nhưng mấy người được như ư
nguyện ?
Thời gian th́ không chờ đợi chúng ta, một
khi đau bệnh, tuổi già, rồi vô thường đến chúng
ta đành phải ra đi, bỏ lại tất cả … Chỉ có
nghiệp lực đưa chúng ta đến cơi lành hay cơi dữ
mà thôi. Nghiệp thiện th́ đầu thai về cơi người,
cơi trời; Nghiệp ác th́ đọa vào ba đường dữ :
địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh.
V́ vậy chúng tôi khuyên tất cả quư vị
đừng để thời gian trôi qua một cách vô ích, đến
khi chết phải ân hận hối tiếc. Hăy trấn tĩnh
phát tâm ăn chay niệm Phật, làm lành lánh dữ,
cầu sanh Tây-Phương Cực-Lạc.
Về đến Tây-Phương Cực-Lạc : thân bằng
kim-cang, ba mươi hai tướng tốt, không
sanh-già-bệnh-tử, muốn ăn có ăn, muốn mặc có mặc.
Hằng ngày được thân cận Phật A-Di-Đà, Bồ-Tát
Quan-Âm và Thánh chúng, được tu tập đến khi
thành Phật. Về đến Tây Phương có thể tự tại trở
lại cứu độ ông bà cha mẹ, anh chị em thân bằng
quyến thuộc và tất cả chúng sanh.
=>
Người cả đời ăn chay, tinh tấn Niệm Phật, làm
lành lánh dữ th́ nhất định sẽ được văng sanh về
cơi Phật, hưởng sự vui thắng diệu, không nghi !
…
* Lưu ư : Đối với người niệm Phật
phải hội đủ ba tư lương : Tín – Nguyện – Hạnh.
+ Tín : tin sâu có cơi Tây-Phương Cực-Lạc
có Đức Phật A-Di-Đà, Bồ-Tát Quan-Âm, Bồ Tát
Thế-Chí, cùng các Thánh chúng. Cơi ấy cách thế
giới Ta-Bà mười muôn ức Phật độ.
+ Nguyện : nguyện thiết tha, một ḷng
muốn sanh về cơi Tây-Phương Cực-Lạc của Đức Phật
A-Di-Đà. Quyết định một đời niệm Phật, làm lành
lánh dữ, buông xả chấp trước, cầu sanh về cơi
Phật. Hằng ngày niệm Phật, làm việc lành đều hồi
hướng nguyện sanh về cơi Tây-Phương Cực-Lạc và
hồi hướng cho pháp giới chúng sanh đồng thành
Phật đạo.
+ Hạnh : là thực hành niệm Phật. Trong
tất cả các oai nghi như : đi, đứng, nằm, ngồi
đều niệm Phật được cả (ở nơi trang nghiêm thanh
tịnh th́ có thể niệm lớn tiếng, c̣n ở nơi không
trang nghiêm thanh tịnh th́ niệm thầm). Chừng
nào niệm đến nhứt tâm bất loạn th́ chừng ấy mới
thành công, quyết chắc phần văng sanh !
+Kinh Phạm Vơng dạy rằng
:“Nếu là Phật-tử phải có từ-tâm, thường phải
phóng sanh. Tất cả người nam là cha ta, tất cả
người nữ là mẹ ta. Ta đời đời từ đấy mà sanh ra.
Chúng sanh trong lục-đạo đều là cha mẹ ta. Người
sát sanh để ăn, tức là giết cha mẹ, quyến thuộc
nhiều đời nhiều kiếp trước của ta; phóng thả
chúng tức là cứu cha mẹ, quyến thuộc nhiều đời
nhiều kiếp của ta !”
* ĐẠI SƯ TRÍ GIẢ
Đại Sư Trí Giả là người sống vào đời Trần,
Tùy ở Trung Hoa. Đại sư nh́n thấy ngư dân ven
biển ngày ngày bắt cá sát sanh. Ngài khởi ḷng
từ bi, liền dùng tiền cúng dường mua được một
nơi ven biển Thượng-Hải làm ao phóng sanh. Lại
v́ ngư dân giảng kinh nói pháp. Nhóm ngư dân sau
khi nghe pháp đều đổi ngành chuyển nghiệp, tôn
trọng mạng sống, ham làm điều thiện, c̣n đem hộ
lương 63 Sở ở ven biển có từ 300-400 dặm làm ao
phóng sanh. Đây là nơi phóng sanh đại quy mô sớm
nhất từ trước đến nay trong lịch sử Trung-Hoa.
Vật mạng được cứu sống có đến hàng vạn ức.
* ĐẠI SƯ VĨNH MINH
Đại Sư Vĩnh Minh, người đời Tống, thời
Ngũ Đại ở Trung Hoa, trước làm quan coi kho ở
huyện Dư Hàn. Thường muốn làm việc phóng sanh
nên lấy tiền trong quốc khố để mua tôm, cá, chim
… mà phóng sanh. Đến khi truy cứu bị khép tội
lấy trộm quốc khố, phải xử tử h́nh; nhưng Ngài
trước sau mặt không đổi sắc. Quốc vương lấy làm
lạ, gạn hỏi nguyên do. Đại sư đáp rằng :“Tôi v́
phóng sanh nên mới làm việc này. Nay đă cứu được
hàng ngàn, hàng vạn sanh mạng. Nhờ công đức này
để văng sanh về thế giới Tây-Phương Cực-Lạc, v́
thế nên vui mừng chứ không hề lo sợ !”. Vua hiểu
chuyện, tôn trọng đức hạnh của Ngài bèn ra lệnh
xá tội. Từ đó, Ngài xuất gia làm tăng sĩ, trọn
đời niệm Phật tu hành, đắc đạo chứng quả. Đời
sau tôn Ngài là vị Tổ thứ sáu của Liên Tông (tức
Tịnh Độ Tông bên Trung Hoa).
* H̉A THƯỢNG TÚI VẢI
Người Trung Hoa tôn xưng Ḥa Thượng là Bồ-Tát
Di-Lặc thị hiện. Ngài có kệ rằng :
Khuyên bạn siêng phóng sanh,
Lâu dài được trường thọ.
Nếu phát Bồ-đề tâm,
Đại nạn trời phải cứu !
* ĐẠI SƯ HUỆ NĂNG
Đại Sư Huệ Năng là vị tổ thứ
sáu của Thiền Tông. Từ sau khi được Ngũ Tổ Hoằng
Nhẫn ở Hoàng Mai truyền tâm ấn, v́ tránh bức hại
của kẻ xấu nên đi về Thiều Châu ở phương nam mà
ẩn ḿnh, giấu kín thân phận, cùng sống chung
trong một đoàn thợ săn.
Đoàn thợ săn giao cho Ngài
giữ lưới. Ngài lấy tâm từ bi làm hoài băo, gặp
những con vật như sói, cọp, nai, thỏ … bị sa
lưới đều t́m cách để phóng sanh. Phóng sanh như
vậy được 16 năm, vật mạng được cứu không thể
tính đếm hết, lại c̣n cảm hóa được nhóm thợ săn
đổi nghề hướng thiện. Sau này, Đại Sư ở tại Đạo
Tràng Tào Khê làm hưng thạnh Thiền tông, truyền
khắp mọi nơi.
* ĐẠI SƯ HÀN SƠN VÀ ĐẠI SƯ THẬP ĐẮC
Đại Sư Hàn Sơn tương truyền là
Bồ-Tát Văn-Thù Sư-Lợi thị hiện. Đại Sư Thập Đắc
tương truyền là Bồ-Tát Phổ-Hiền thị hiện. Đại Sư
Hàn Sơn hỏi ngài Thập Đắc :“Phóng sanh có thể
thành Phật được chăng ?”. Đáp rằng : “Chư Phật
vô tâm, duy chỉ lấy từ-bi làm tâm. Người có thể
cứu cái khổ của sanh mạng tức là thành tựu tâm
nguyện của Chư Phật. Cho nên, sanh một niệm từ-bi,
cứu sống một sanh mạng tức là tâm nguyện của
Bồ-Tát Quán-Thế-Âm vậy. Ngày ngày làm việc phóng
sanh th́ tâm từ bi cũng ngày ngày tăng trưởng,
măi măi không ngừng, niệm niệm đều chảy vào biển
lớn đại từ bi của Đức Quán-Thế-Âm. Khi ấy tâm ta
là tâm Phật, sao lại chẳng thành Phật được ?”
+ Phóng sanh chẳng phải những điều lành
nhỏ nhặt có thể sánh được. Phàm là người đồng
nguyện như ta nên rộng hành khuyến khích, khéo
léo khiến cho mọi người đều biết trở về với tâm
từ bi của chính ḿnh mà hóa độ chúng sanh !
* THIỀN SƯ CHÍ CÔNG
Vua Lương Vơ Đế hỏi Thiền Sư Chí Công
rằng :“Công đức phóng sanh như thế nào ?”. Thiền
sư đáp rằng : “Công đức phóng sanh không thể hạn
lượng. Trong Kinh dạy rằng : Muôn loài chúng
sanh đều có tánh Phật, chỉ v́ mê vọng nhân duyên
nên khiến cho thăng trầm khác biệt. Cho đến sanh
tử luân hồi trở thành quyến thuộc với nhau, thay
đầu đổi mặt chẳng nh́n ra nhau được nữa. Nếu
phát được tâm hỷ xả, khởi niệm từ bi, người
chuộc mạng phóng sanh th́ đời này ít bệnh, sống
lâu, tương lai chứng được quả Bồ-Đề”.
* THIỀN SƯ PHẬT ẤN
Miếng ăn miếng trả ắt chẳng sai,
Lời Chư Thánh xưa nào hư dối ?
Giới-sát, Niệm-Phật, thường phóng-sanh,
Quyết về Tây-Phương, bậc thượng phẩm !
* ĐẠI SƯ LIÊN TR̀
Đại Sư Liên Tŕ sống vào triều đại nhà
Minh, từ nhỏ ưa thích làm việc phóng sanh. Sau
khi xuất gia, Ngài xây dựng ao phóng sanh ở hai
nơi là Trường Thọ và Thượng Phương. Ngài có
trước tác một bài
Giới Sát Phóng Sanh,
khuyên dạy hết thảy người đời nên giới sát phóng
sanh. Ngài cũng để lại cho hậu thế bức vẽ
Liên Tŕ Đại Sư Đồ Giải.
Tranh vẽ, văn chương của Ngài đều đẹp đẽ phong
phú, đều ân cần khẩn thiết khuyên răn người đời
chân lư nhân quả báo ứng, cùng với nhiều sự thực
chứng, cảm ứng rơ ràng nghiệp ác của việc sát
sanh và nghiệp lành của việc phóng sanh. Đời sau
tôn Ngài làm Tổ thứ tám của Liên Tông (tức Tịnh
Độ Tông bên Trung Hoa).
* Sau đây là
những lời khuyên của Ngài về việc giới sát phóng
sanh :
1. Ngày sinh không được sát sanh :
Cha mẹ đau đớn, sinh ta ra vất vả. Ngày
sinh ra ta chính là ngày mẹ ta chết dần đi. V́
vậy, nên phải cấm tuyệt việc sát sanh, nên ăn
chay, làm nhiều điều thiện, cầu cho cha mẹ tăng
thêm phước thọ. Cớ sao lại quên nỗi vất vả của
cha mẹ mà nỡ ḷng sát hại sinh linh ?
2. Sinh con không được sát sanh :
Không có con ắt phải buồn lo, sinh được
con th́ rất vui. Sao không nghĩ xem : loài cầm
thú cũng biết yêu thương con, cớ sao ḿnh sinh
con ra lại khiến cho con của loài khác phải chết
? Như vậy có thể yên tâm được sao ? Than ôi, đứa
trẻ vừa mới sinh ra đă không v́ nó tích đức th́
thôi, nay lại c̣n sát sanh hại vật để gây thêm
tội lỗi, thế chẳng phải là mê muội lắm sao ?
3. Cúng giỗ không được sát sanh :
Khi cúng giỗ người đă khuất hoặc tảo mộ
vào tiết xuân thu, nên đều cấm việc sát sanh, để
tạo phước đức. Trong tự nhiên sẵn có tám loại
thực phẩm quư để dâng cúng, đâu thể bới xương
cốt dưới cửu tuyền lên mà ăn sao ? Sát sanh để
dâng cúng chính là đại bất hiếu !
4. Hôn lễ không được sát sanh :
Việc cưới hỏi ở thế gian, có đủ nghi lễ
th́ thành chồng vợ, nào có phụ thuộc vào việc
sát sanh ? Khi lập gia đ́nh là đă bắt đầu nghĩ
đến việc sinh con. Trước lúc sinh con mà làm
việc giết hại, quả là nghịch lư. Như vậy ngày lễ
tốt lành mà lại làm việc hung dữ, giết hại chúng
sanh, chẳng phải là mê muội lắm sao ?
5. Đăi khách không được sát sanh :
Ngày lành cảnh đẹp, chủ hiền đăi bạn :
rau, gạo, quả, trà không ngại chi đến cảnh trí
nhà Phật. Cớ sao lại giết hại mạng sống, cùng
cực béo ngọt, vui ca say sưa với cốc chén, giết
hại oan uổng bao nhiêu sanh vật ngay trên mâm ăn
? Than ôi ! Người có tấm ḷng, nh́n thấy như vậy
chẳng buồn lắm sao ?
6. Cầu an không được sát sanh :
Người đời có thói quen sát sanh để tế
thần, mong thần phù hộ. Không nghĩ rằng : ḿnh
tế thần là muốn tránh cái chết, cầu sự sống,
nhưng lại giết hại mạng khác để mong cho mạng
ḿnh được sống lâu, quả thật là nghịch lư, tàn
độc hung ác.
7. Buôn bán sinh sống không được sát sanh
:
Phàm là con người ai cũng phải v́ cơm ăn
áo mặc. Hoặc phải đi săn bắn, hoặc phải bắt cá,
ṃ tôm, hoặc phải giết trâu, ḅ, heo, chó … cũng
chỉ v́ kế sinh nhai. Nhưng xét lại, những người
không làm nghề này cũng vẫn có cơm ăn áo mặc,
đâu v́ thế mà phải chết đói chết rét ? Làm nghề
sát sinh ắt phải chịu quả báo bị giết hại sau
này. Sao không chịu chuyển đổi nghề nghiệp, chọn
những cách sinh nhai hiền lành chẳng phải tốt
hơn sao ?
=> Người Phật tử phải luôn tâm niệm bảy điều này
để làm kim chỉ nam trong đời sống hằng ngày ! …
+ Người giữ giới không sát sanh được
thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ
dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi
chuyện đều may mắn tốt đẹp. Nếu dốc sức làm việc
phóng sanh, lại thêm chuyên tâm niệm Phật, nhất
định sẽ được tùy nguyện văng sanh, vĩnh viễn
thoát khỏi luân hồi, tiến lên địa vị không thối
chuyển.
* ĐẠI SƯ NGẪU ÍCH
Đại Sư Ngẫu Ích dạy rằng :“Giết hại sanh
mạng tức là giết mất các đức Phật tương lai
trong tự tâm ḿnh. Phóng sanh tức là cứu sống
các đức Phật tương lai trong tự tâm ḿnh. Nếu
cứu sống các đức Phật tương lai trong tự tâm tức
là pháp Tam-muội niệm Phật chân thật”.
* ĐẠI SƯ ẤN QUANG
Đại Sư Ấn Quang được xem là vị Đại sư đệ
nhất của Tịnh Độ Tông kể từ năm Dân Quốc (1912)
tới nay. Đời sau tôn xưng Ngài là vị Tổ sư thứ
mười ba của Liên Tông (tức Tịnh Độ Tông bên
Trung Hoa). Đại sư hết ḷng đề xướng giới sát
phóng sanh, không tiếc sức lực. Trong nhiều bài
thuyết pháp, Đại sư đều giảng rơ về sự lư của
việc giới sát phóng sanh, khuyến khích đệ tử cố
gắng giới sát phóng sanh. Nay xin ghi lại vài
câu pháp ngữ của Đại sư về việc giới sát phóng
sanh như sau :
“Người giới sát phóng sanh, đời sau được
sanh lên cơi trời Tứ Thiên Vương, hưởng phước vô
cùng. Nếu lại có tu Tịnh Độ th́ được văng sanh
về Tây-Phương Cực-Lạc, công đức ấy thật vô bờ
bến. Phàm những ai muốn cho việc nhà được b́nh
an, thân tâm an ổn, tráng kiện, thiên hạ thái
b́nh, nhân dân an lạc, chỉ cần khởi sự giới sát
phóng sanh, ăn chay niệm Phật mà cầu th́ đều
được cả. Phật giáo chỉ rơ lẽ nhân quả báo ứng,
khuyên người giới sát phóng sanh, bỏ việc ăn
thịt súc vật mà theo ăn chay”.
* ĐẠI SƯ HOẰNG NHẤT
Đại Sư Hoằng Nhất là vị đại đức Luật tông
trong thời cận đại, cũng đề xướng việc phóng
sanh. Ngài dạy :“Xin hỏi quư vị, có muốn trường
thọ chăng ? Muốn lành bệnh chăng ? Muốn khỏi tai
nạn chăng ? Nếu ai muốn th́ nay đă có một phương
pháp đơn giản, dễ thực hành, tức là phóng sanh
vậy !”
* LĂO H̉A THƯỢNG HƯ VÂN
Lăo Ḥa Thượng Hư Vân là bậc Thiền tông
đại đức, cũng dạy chúng ta giới sát phóng sanh,
đoạn ác tu thiện. Ngài dạy :“Đây là cơ hội muôn
kiếp khó gặp, chúng ta phải dũng mănh tinh tấn,
phải trong ngoài cùng tu. Tu tập bên trong tức
là chỉ tham câu niệm Phật :
Nam Mô A Di Đà Phật
không khởi tham, sân, si, các tạp niệm, khiến
cho chân-như pháp-tánh được hiển bày. Tu tập bên
ngoài tức là giữ giới, không được sát sanh, đem
mười điều ác chuyển thành mười điều thiện. Chớ
nên suốt ngày rượu thịt buông lung, tạo thành
tội nghiệp vô biên !”.
* ĐẠI SƯ DIỆU THIỆN
Đại Sư Diệu Thiện cũng được Phật tử tôn
xưng là Phật sống Kim Sơn. Việc phóng sanh là
một trong các sinh hoạt thường ngày của Ngài.
Ngài đối với các cầm thú, chim, cá, rùa, ốc, cua
… đều có ḷng thương yêu, đối xử b́nh đẳng. Bất
cứ đi đến đâu Ngài cũng đều ưa thích làm việc
phóng sanh. Ngài từng nói với những người đệ tử
đang chịu khổ báo rằng :“Ta tuy có thể tạm thời
làm cho bệnh của ông giảm thiểu, nhưng nghiệp
giết hại từ nhiều kiếp của ông vẫn chưa tiêu mất,
e rằng sẽ có mối lo chết yểu. Có một phương pháp
tiêu trừ nghiệp chướng hay nhất là làm việc
phóng sanh và giới sát. Cho nên, phóng sanh là
công đức lớn nhất. Ông nếu tin được lời tôi, hăy
mau mau tùy sức mà mua lấy vật mạng để phóng
sanh th́ có thể tăng phước, tăng thọ
!”.
* CƯ SĨ LƯ BỈNH NAM
Cư Sĩ Lư Bỉnh Nam nói về việc giới sát
phóng sanh như sau :“Chúng sanh từ xưa đến nay không dứt nổi
nghiệp giết hại, ai ai cũng phạm vào việc sát
sanh. Sát sanh có thể chia làm hai loại : Một là
trực tiếp, hai là gián tiếp. Trực tiếp là tự
ḿnh giết hại chúng sanh, cắt xẻo lấy da thịt mà
làm thức ăn. Gián tiếp là v́ ḿnh ăn thịt chúng
sanh nên khiến cho người khác phải làm việc giết
hại để phục vụ ḿnh. Cái nhân tạo ra của hai loại sát sanh này
tích tụ lâu ngày, gặp duyên th́ kết thành cái
quả của nạn đao binh, chiến tranh. Có người cho
rằng : muốn cứu văn nạn chiến tranh th́ phải làm
nhiều việc thiện như sửa cầu, làm đường … Lời
nói như vậy không thể tin cậy được. Bởi v́ nay
phải chịu nạn đao binh chẳng phải do cái nhân
quá khứ phá hoại cầu cống, đường sá. Nay muốn
lấy việc làm đường, sửa cầu cống mà giải trừ,
th́ là hai việc hoàn toàn khác nhau.
Phóng sanh chẳng những cứu lấy thân-mạng,
mà cũng nên cứu lấy huệ-mạng của chúng. Nói Tam-Quy
cho chúng nghe là tạo nhân lành cho chúng, nếu
nghe mà nhận được th́ đời sau sẽ không phải rơi
vào địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh. Nếu được thân
người th́ có thể phát tâm Bồ-đề, tin sâu
Phật-pháp, sẽ có khả năng thành Phật. Đây tức là
cứu lấy huệ-mạng chúng !”.
* PHÁP SƯ VIÊN NHÂN
Pháp Sư Viên Nhân dạy rằng :“Tật-bệnh,
ung-thư, tai-nạn … sở dĩ có thể bất hạnh sinh ra
là duyên nơi nghiệp giết hại trước kia chúng ta
đă tạo nên mà chiêu cảm lấy quả báo này. Phương
thức giải quyết chính là phóng sanh. Nhờ vào
việc bỏ tiền, bỏ sức để cứu mạng phóng sanh nên
có thể đền trả vô số món nợ sát sanh trước kia
mà chúng ta đă thiếu.
Điều quư báu nhất của mỗi chúng sanh là
mạng sống. Giết hại chúng th́ chúng oán hận nhất,
oán cừu kết sâu nhất, cho nên nói nghiệp giết
hại là nặng nhất. Ngược lại, cứu sống được chúng
th́ chúng cảm kích nhất, tạo được nhiều phước
thiện nhất, cho nên nói công đức phóng sanh là
đệ nhất.
Những ai phê phán, hủy báng việc phóng
sanh, hoặc cản trở nghi ngờ việc phóng sanh cần
lưu ư ! V́ cản trở người phóng sanh th́ cũng
giống như sát sanh, khiến cho hàng ngàn hàng vạn
sanh mạng không được giải cứu, phải hàm oan mà
chết. Tội lỗi đó thật to lớn vô cùng ! Nhất định
phải gấp rút sám hối, sửa lỗi, nếu không th́ khổ
h́nh nơi địa-ngục nhất định không tránh khỏi !”.
+ Công đức của việc phóng sanh nói không
thể hết ! ... Phóng sanh c̣n giúp tiêu nghiệp
chướng, tăng trưởng ḷng từ bi, hóa giải oan gia
trái chủ nhiều đời nhiều kiếp, chẳng c̣n oan oan
tương báo ! ...
* Bồ-Tát Di-Lặc có kệ rằng :
Khuyên bạn siêng phóng sanh,
Lâu dài được trường thọ.
Nếu phát Bồ-đề tâm,
Đại nạn trời phải cứu !
+ Kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Hạnh Nguyện
phẩm dạy rằng :“Chúng sanh thương yêu nhất là
sanh mạng, Chư Phật thương yêu nhất là chúng
sanh. Cứu được thân mạng chúng sanh th́ thành
tựu được tâm nguyện của Chư Phật !”.
=>
Đức lớn của trời đất là sự sống; Đạo lớn của Như-Lai
là từ bi !
+ Chúng ta hành nghiệp-thiện của ḿnh,
mai sau sẽ được hưởng quả thiện lành; kẻ khác
tạo ác-nghiệp của chính họ, mai sau sẽ phải chịu
quả báo khổ ! Thiện ác nhân quả báo ứng tuyệt
đối không bao giờ sai chạy ! …