K I N H   D I Ệ U   P H Á P   L I Ê N   H O A   -   P H Ẩ M   Q U Á N   T H Ế   Â M   B Ồ   T Á T    P H Ổ   M Ô N   -   H ̉ A   T H Ư Ợ N G   T U Y Ê N   H Ó A   L Ư Ợ C   G I Ả N G         

Hán Dịch : Dao-Tần, Tam-Tạng Pháp-Sư Cưu-Ma-La-Thập

Giảng Thuật : Ḥa Thượng Tuyên-Hóa

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA gồm có bảy quyển, chia thành hai mươi tám phẩm. Phẩm Phổ Môn là phẩm thứ hai mươi lăm, nhưng trong bản kinh văn xưa th́ là thứ hai mươi bốn, v́ trong đó thiếu một phẩm Đề-Bà-Đạt-Đa (phẩm thứ mười hai). Phẩm Phổ Môn diễn bày công đức thần thông diệu dụng và cảnh giới không thể nghĩ bàn của Bồ Tát Quán Thế Âm.

Có mười nhân duyên nói phẩm Phổ Môn này; đó là 1) Nhân Pháp, 2) Từ Bi, 3) Phước Huệ, 4) Chơn Ứng, 5) Dược Châu, 6) Hiển Mật, 7) Quyền Thật, 8) Bản Tích, 9) Duyên Liễu, và 10) Trí Đoạn.

1. Nhân Pháp : "Nhân" có nghĩa là người, và ở đây chính là Bồ Tát Quán Thế Âm; c̣n "Pháp" chính là pháp môn Phổ Môn Thị hiện.

Bồ Tát Quán Thế Âm có thể cứu chúng sanh thoát khỏi bảy thứ tai nạn, giải trừ ba thứ độc, và đáp ứng hai điều mong cầu của chúng sanh; cho nên Ngài là một nhân vật không thể nghĩ bàn. Ngài lại nói pháp Phổ Môn Thị Hiện, có cầu tất ứng, vô cảm bất thông. "Pháp" này là một pháp môn không thể nghĩ bàn; v́ không thể nghĩ bàn nên gọi là Diệu-pháp. V́ Nhân (người) ở đây cũng không thể nghĩ bàn, cho nên cũng có thể gọi là Diệu nhân. Là Diệu nhân, Diệu-pháp mới đáng gọi là Phổ Môn, mới có thể xưng là Thật-tướng-phù. Vậy, do nhân duyên của Nhân và Pháp, nên nói Phẩm Phổ Môn.

2. Từ Bi : do nhân duyên của Từ và Bi nên Bồ Tát Quán Thế Âm nói Phẩm Phổ Môn này. Sao gọi là "Từ?" Từ hay ban vui. Sao gọi là "Bi?" Bi hay cứu khổ.

Bồ Tát Quán Thế Âm cứu bảy thứ nạn, giải trừ ba thứ độc và đáp ứng hai thứ mong cầu của chúng sanh.

Bảy thứ nạn này trong kinh văn nói rất tỉ mỉ; đó là nạn lửa, nạn nước, nạn quỷ La-sát (gió băo), nạn đao gậy, nạn ác quỷ, nạn gông cùm (lao tù), và nạn oán tặc.

Ba thứ độc là gồm những thứ nào? Đó là ba độc tham, sân, si.

Hai điều cầu mong tức là cầu mong sanh con trai và cầu mong sanh con gái.

Trong mọi chúng sanh đều có ba thứ độc tham, sân, si. Tuy nhiên, nếu người nhiều tham, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát th́ được ĺa tham. Nếu người nhiều sân, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát th́ được ĺa sân. Nếu người nhiều si, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát th́ được ĺa si.

Thứ tham này nếu kể hết ra th́ rất nhiều, sân cũng không ít, c̣n si th́ không nhiều mà cũng chẳng ít. Nói nó nhiều th́ cũng không hẳn là nhiều, nói nó ít th́ cũng không phải là ít. Sao gọi là si, hoặc ngu si? Do thiếu trí huệ, không am hiểu sâu xa, không lănh hội được hàm ư, thấy lư mà thấy không đúng (kiến lư bất chân), nên gọi là ngu si. V́ ngu si, dầu thấy được lư luận ấy không chính xác, biết nó là thế mà không biết tại sao như thế.

Căn cứ vào học thuyết của Vương Dương Minh, một học giả người Trung Hoa, th́ người ngu si là người không thể tri hành hợp nhất. Theo ông, người ấy sở dĩ không làm là bởi người ấy không biết; nếu biết, th́ người ấy sẽ làm ngay. Ông lại cho rằng, kẻ biết mà không làm, đó là do chưa thật biết; nếu kẻ ấy biết thật, th́ nhất định sẽ làm ngay.

Vương Dương Minh là một học giả rất nổi tiếng ở Trung Hoa, học thuyết của ông là Tri Hành Hợp Nhất - biết và làm là một - nếu người thật biết th́ nhất định sẽ thật hành; chỉ v́ không biết, người ấy mới không làm. Điều này cũng có nghĩa là kẻ chân chánh hiểu biết, th́ không làm những việc ngu si. Tại sao có người làm việc ngu si? Bởi v́ người ấy không hiểu, không biết rơ. Cho nên tôâi nói đây là thấy không đúng lư.

Có bài thơ về người ngu si như sau:

Hoa đẹp sáng sáng đều xinh tươi,

Trăng sáng ngại ǵ mỗi đêm tṛn,

Đại địa có suối đều thành rượu,

Rừng già không cây chẳng lay tiền.

Người ham thích hoa sanh tâm ngu si nói: "Tôi muốn đóa hoa này măi măi xinh tươi, chẳng tàn phai; sáng sáng đều đẹp như thế này."

Người tham trăng tṛn th́ nói: "Trăng sáng nào ngại mỗi đêm tṛn? Tối hôm qua trăng tṛn thật đẹp, nếu trăng mỗi đêm đều tṛn như thế cả th́ tốt biết bao! Mỗi đêm ra ngoài trời ngắm trăng, ánh trăng sáng ngời cũng đủ, không cần phải dùng đèn điện, vừa bớt tốn tiền, mà dùng ánh sáng thiên nhiên c̣n tốt nữa!"

Như thế không phải là ngu si sao? Trăng có tṛn có khuyết, hoa có nở có tàn. Hoa nở th́ phải có lúc hoa tàn, trăng tṛn th́ phải có lúc trăng khuyết, đó là luật tuần hoàn của trời đất.

Người thích uống rượu lại nghĩ: "Mỗi ngày tôi đều đi mua rượu, mà whisky hoặc brandy th́ rất đắt. Nếu tất cả ao nước trên trái đất này đều biến thành ao rượu, để khi nào tôi thèm rượu th́ chỉ việc đến ao múc lên uống, thật tiện lợi biết bao!"

C̣n kẻ tham tiền th́ mơ mộng: "Ḿnh bây giờ phải đi làm kiếm tiền, thật là quá sức vất vả. Ước ǵ tất cả cây cối đều biến thành 'cây tiền,' trên cây kết toàn những đĩnh vàng đĩnh bạc và tiền đô-la, để khi ḿnh cần tiền th́ chỉ việc hái xuống tiêu xài, thật tiện lợi biết bao!"

Những ước muốn không thể thực hiện được ấy đều là những ảo tưởng ngu si. Lại lấy một ví dụ dễ hiểu nhất. Như có người không có đi học, thậm chí cũng chưa học tiểu học-trung học th́ khỏi nói rồi-nhưng lại muốn được một học vị Tiến sĩ ở đại học. Quư vị nói việc này có hợp lư không? Chưa học qua tiểu học, th́ học vị Tiến sĩ làm sao cấp cho anh ta được?

Lại c̣n có những người, không làm ruộng bao giờ, song đến vụ mùa lại muốn thu hoạch như thiên hạ! Đó đều là ngu si! Thậm chí có người không mua vé số mà lại mong trúng lô độc đắc, quả là một ư tưởng quá ngu si! Thế nhưng, đa số người đời đều mắc phải chứng bịnh vọng tưởng "không làm mà muốn có ăn." Vậy th́ phải làm sao? Có thứ bịnh này th́ cần phải sửa đổi đi mới được.

Bồ Tát Quán Thế Âm cứu bảy nạn, giải ba độc, ứng hai điều mong cầu, đó là đại bi. Ngài lại làm lợi lạc cho tất cả chúng sanh, khiến cho chúng sanh ĺa khổ được vui, đó là Đại từ. V́ nhân duyên đại từ đại bi, nên Ngài nói phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn này.

3) Phước Huệ : Bồ Tát Quán Thế Âm sở dĩ có thể "tầm thanh cứu khổ," phân biệt được mọi âm thanh khác nhau của thế gian-tiếng thiện, tiếng ác, tiếng khổ, tiếng vui, tiếng phải, tiếng quấy-là v́ Ngài có trí huệ chơn chánh.

Trí huệ của Ngài do đâu mà có? Là v́ Ngài bố thí Phổ Môn, nhờ đem pháp ấy ban phát cho chúng sanh, cho nên Ngài được phước báo này-phước đức trang nghiêm. V́ thế nói là do nhân duyên Phước Huệ mà nói Phẩm Phổ Môn.

4) Chơn Ứng : "Chơn" là Bồ Tát Quán Thế Âm dùng diệu lực của chơn thân Ngài để giải cứu bảy nạn, giải trừ ba độc, thỏa măn hai điều mong cầu của chúng sanh. Ngài lại thị hiện ba mươi hai Ứng hóa thân-cũng gọi là Ứng thân-để giáo hóa chúng sanh; v́ thế nên có nhân duyên Chơn Ứng này.

5) Dược Châu : Tại sao gọi là "Dược?" "Dược" đây chính là Dược-vương-thọ. Sao lại gọi là Dược-vương-thọ? Cách đây thật lâu xa, có một người lên núi đốn củi gánh về bán ở chợ. Một vị thầy thuốc nọ thấy trong gánh củi của anh ta phát ra ánh sáng, bèn mua hết gánh củi đó. Về nhà, vị ấy dở củi ra xem th́ thấy bên trong có một khúc cây Dược-vương. Sau khi vị thầy thuốc được Dược-vương-thọ rồi, gặp bất cứ bịnh ǵ, chỉ cần lấy Dược-vương-thọ gơ nhè nhẹ trên thân người bịnh, hoặc đánh nhẹ một cái th́ bịnh liền hết, cứu được không biết bao nhiêu người. Chính v́ thế mà gọi là Dược-vương-thọ.

Tại sao gọi là "Châu?" "Châu" đây chính là Như Ư bảo châu. Sao gọi là Như Ư bảo châu? "Như ư" là vừa ḷng toại ư, cũng chính là khiến cho quư vị vui thích vừa ư, thỏa măn sự yêu cầu của quư vị, đáp ứng mọi ước muốn của quư vị.

Nếu quư vị muốn ăn món chi th́ Như Ư châu liền hiện ra món ấy, quư vị chẳng cần phải đi mua. Nếu muốn mặc bộ đồ đẹp, chỉ cần đối với Như Ư châu mà nghĩ rằng: "Tôi muốn có một bộ đồ thật đẹp, ít có trên đời," bấy giờ Như Ư châu liền hiện ra bộ đồ đúng như ư quư vị mong muốn. Thậm chí quư vị muốn có nhà ở, nó cũng có thể hiện ra được. Quư vị ao ước: "Tối nay tôi muốn ở một căn nhà thật sang trọng" th́ bảo châu này liền hiện ra căn nhà như ư quư vị muốn. Sau khi ở một đêm, sang ngày thứ hai, căn nhà tự động trở về lại trong Như Ư châu.

Quư vị muốn ăn thức ǵ, Như Ư châu liền hiện ra thức ấy, phân lượng vừa đủ, không thừa không thiếu. Về y phục, quư vị cũng không cần phải sắm giá áo, chỉ cần cởi ra th́ y phục ấy tự động trở về trong Như Ư châu. V́ thế, hạt châu ấy được gọi là "Như Ư," toại ḷng vừa ư, thật là mầu nhiệm. Như Ư châu bao lớn? Hạt châu này rất nhỏ, có thể tùy tiện đem theo bên ḿnh; nó lại không nặng và không choán chỗ.

Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm cũng giống như Dược-vương-thọ và Như Ư châu vậy, có thể làm cho mọi người được toại nguyện, vừa ḷng. Chỉ cần quư vị đọc tụng Phẩm Phổ Môn th́ cầu mong việc chi cũng sẽ được măn nguyện. Nhưng không phải là hôm nay tụng niệm, ngày mai liền có hiệu quả. Cần phải trước tiên sửa soạn một cơ sở thật ổn định, giống như cất nhà lầu, trước tiên phải làm nền móng cho thật chắc chắn; nền móng không vững chắc th́ nhà lầu không có cách ǵ xây lên được.

Phổ Môn Phẩm tuy có cảm ứng linh thiêng chẳng khác ǵ Dược-vương-thọ và Như Ư châu, cũng mầu nhiệm không thể nghĩ bàn như thế, nhưng trước tiên quư vị cần phải tŕ tụng Phẩm Phổ Môn. Quư vị phải mỗi ngày mỗi tụng niệm, tụng niệm cho đến chừng nào Bồ Tát Quán Thế Âm nh́n nhận là quư vị hợp cách, có ḷng thành, th́ sau đó quư vị cầu điều chi cũng đều được như ư măn nguyện. Không thể nào lúc b́nh thường chẳng hề tụng niệm, đến khi muốn cầu cảm ứng th́ tức khắc có cảm ứng ngay được. Do vậy, lúc b́nh thường quư vị cũng phải nhất định dụng công tu hành, để đến khi cần th́ Phẩm Phổ Môn sẽ thị hiện những sự vi diệu không thể nghĩ bàn giống như cây Dược-vương và ngọc Như Ư vậy. Nhưng trước hết, chính bản thân quư vị cần phải thường xuyên tŕ tụng mới được!

Có người nói: "Trong Phật giáo có quá nhiều điều phải học! Đă tụng chú Lăng Nghiêm, chú Đại Bi, bây giờ lại phải tụng thêm Phẩm Phổ Môn nữa. Thế th́ nhiều thời khóa quá, chúng tôi làm sao có đủ thời giờ?"

Quư vị không cần quá nhiều thời gian, chỉ cần mỗi ngày quư vị ngủ ít đi một tiếng đồng hồ, bớt nói chuyện một tí, th́ công khóa này có thể thực hiện được ngay. Nếu quư vị không muốn được toại ḷng vừa ư, nói rằng: "Tôi không mong cầu điều chi cả. Tôi không có tâm tham, cũng không có tâm sân hoặc tâm si!" Với những lư do đó, quư vị chẳng cần phải tụng niệm và như thế th́ không c̣n ǵ để nói nữa!

Tuy nhiên, nếu quư vị cảm thấy trong tương lai, ḿnh có thể sẽ gặp một biến cố nào đó, muốn cầu Quán Thế Âm Bồ Tát hoặc Phật giúp đỡ cho, th́ quư vị phải học nhiều Phật-pháp hơn một tí nữa. Phật-pháp ví như biển cả mênh mông, quư vị một giọt cũng chưa uống mà vội sợ nhiều, th́ tương lai nhất định không thể nào uống hết nước trong biển cả ấy được. Nhưng chỉ cần quư vị cố gắng hết sức ḿnh, cần bao nhiêu th́ cứ uống bấy nhiêu. Phật-pháp là kho báu vô tận, dùng hoài không hết, cho nên quư vị hăy cố đem hết sức ḿnh mà vận dụng Phật-pháp.

Vậy, do ư nghĩa Dược Châu nên nói Phẩm Phổ Môn.

6) Hiển Mật : "Hiển" là hiển lộ rơ ràng; "Mật" là bí mật kín đáo. Quư vị tŕ tụng Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm th́ có lúc được sự cảm ứng rơ ràng, và cũng có lúc được sự cảm ứng âm thầm.

Cảm ứng rơ ràng tức là sự cảm ứng mà mọi người đều có thể nh́n thấy, đều biết được. Ví như việc Quán Thế Âm Bồ Tát cứu giúp chúng sanh, trong Phẩm Phổ Môn có nói: "Dầu vào lửa lớn, lửa chẳng đốt được."

Trong Kinh Lăng Nghiêm, khi Quán Thế Âm Bồ Tát thuật về Nhĩ căn Viên thông, có nói: "Lửa không thể đốt v́ tánh lửa là chơn không, tánh không là chơn hỏa."

Ví dụ như quư vị đang ngồi trong pḥng, nhất tâm nhất ư niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, bất ngờ có hỏa hoạn xảy ra. Lúc ấy, chỉ cần quư vị có thể thành tâm niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, th́ dù cho nhà bên cạnh có bị cháy, nhà của quư vị vẫn được vô sự. Nhưng đó phải là vô ư chứ không phải cố ư!

Nếu quư vị cố ư nổi lửa đốt thử để xem nhà ḿnh có bị cháy không, th́ nhất định phải cháy rồi! Tại sao thế? V́ quư vị vốn có ư muốn thử Quán Thế Âm Bồ Tát! Bởi quư vị không có ḷng tin chắc chắn nên mới thử Ngài như thế. Giống như quư vị có một người bạn chẳng hạn, v́ muốn biết người bạn ấy có thật tâm với ḿnh không, có phải là hạng người tốt, "gặp vàng không chóa mắt" hay chăng, bèn đợi khi người bạn đến chơi rồi cố ư đánh rơi dưới đất năm trăm đô-la và tự nhủ: "Nếu anh ấy là người tốt th́ dù biết ḿnh không trông thấy, anh ấy cũng sẽ không lấy số tiền kia."

Tại sao quư vị lại muốn thử thách bạn của ḿnh? Chính là v́ quư vị chưa có được sự nhận định đúng đắn về người bạn ấy, không biết anh ta có phải thật là người tốt không, cho nên mới thử nghiệm như vậy.

Trong kinh, Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn, có nói rằng: Dầu vào lửa lớn, lửa chẳng đốt được. Về việc này, nếu quư vị không tin chút nào, th́ Quán Thế Âm Bồ Tát cũng chẳng để ư đến những chuyện không đâu của quư vị. Quư vị muốn nhảy xuống biển tự tử, nói rằng: "Tôi nhảy vào trong biển lớn để xem có gặp chỗ cạn hay không?" Quư vị muốn thử nghiệm để xem thần thông diệu dụng của Quán Thế Âm Bồ Tát, điều đó chứng tỏ rằng quư vị không có ḷng tin đối với Ngài. Nếu đối với Bồ-tát mà quư vị không có ḷng tin, th́ Ngài có thể cũng chẳng muốn để ư đến những việc không đâu của quư vị.

Quư vị ngụy biện: "Nếu không thử nghiệm, làm sao tôi biết được việc ấy là thật hay giả?" Quư vị biết việc ấy là thật, th́ thế nào? Mà không biết việc ấy là thật, th́ đă làm sao? Quư vị biết rồi, th́ ngày ngày cũng vẫn phải ăn cơm, mặc quần áo, mới có thể sống được; thế th́ quư vị cần ǵ phải làm thêm một việc thừa nữa?

Sự cảm ứng hiển lộ rơ ràng th́ mọi người đều biết. Như nhà kế bên cháy mà nhà ḿnh không cháy; đó không phải là hiển lộ rơ ràng sao? Ai nấy đều biết rơ: "A! Người ấy nhờ niệm Quán Thế Âm Bồ Tát nên được sự cảm ứng đấy! Tin Phật thật là có sự mầu nhiệm." Đó là sự cảm ứng hiển lộ.

Lại c̣n có sự cảm ứng bí mật nữa. Ví dụ đáng lẽ quư vị phải gặp tai nạn hoặc té xuống biển bị nước cuốn, nhưng trong vô h́nh, được sự cảm ứng từ Quán Thế Âm Bồ Tát, quư vị không phải gặp sự nguy hiểm ấy nữa. Trong thầm kín, Ngài làm cho tai nạn của quư vị tiêu mất đi, mà ngay cả quư vị cũng hoàn toàn không hay biết; đó gọi là sự cảm ứng bí mật.

Như có người đáng lẽ bị chết thiêu trong trận hỏa hoạn, nhưng nhờ người ấy tin tưởng Quán Thế Âm Bồ Tát, Ngài bèn âm thầm giải trừ tai nạn cho. Đó cũng là sự cảm ứng bí mật.

Thậm chí quư vị đang ngồi trên phi cơ, lẽ ra phi cơ bị trục trặc - giao thông hiện nay tuy rất tiện lợi, song số người tử vong do phi cơ, xe lửa, xe taxi... gây ra cũng rất nhiều-nhưng quư vị nhờ tụng phẩm Phổ Môn, nhờ niệm chú Đại Bi, nhờ tin tưởng ở Quán Thế Âm Bồ Tát, nên Ngài âm thầm, không để cho ai biết, lặng lẽ giúp quư vị "chuyển rủi thành may." Đó gọi là "gặp hung hóa kiết, biến nguy thành an."

Nhân có sự quan hệ Hiển Mật cho nên nói Phẩm Phổ Môn. Phẩm này có Hiển Mật Viên thông-Hiển cũng viên thông mà Mật cũng viên thông; bởi Hiển Mật đều viên thông cả, nên công đức của Phẩm Phổ Môn là không thể nghĩ bàn.

Phẩm Phổ Môn có vô số diệu dụng, chú Đại Bi cũng có những diệu dụng như thế. Bây giờ tôi kể một việc cảm ứng xảy ra ở quê tôi cho quư vị nghe.

Ở Đông Bắc (Măn Châu) quê tôi, có một người nông dân rất giàu có. Mùa thu năm ấy, ông chất nông phẩm lên xe đem ra chợ bán; bán xong mang tiền về nhà. Khi c̣n cách nhà độ ba dặm đường, bất ngờ gặp phải đám thổ phỉ chặn đường đánh cướp. Người nông dân này thấy phía trước có cướp th́ hốt hoảng than thầm: "Phải làm sao đây? Chạy trốn ư?" Nhưng bọn thổ phỉ nh́n thấy rồi, muốn trốn cũng không được; nếu không trốn thoát th́ nhất định phải bị cướp. Ngay lúc ấy, ông ta niệm chú Đại Bi, và chiếc xe ngựa của ông ta cứ thẳng đường tiến tới trước.

Khi xe ông tiến gần đến chỗ bọn thổ phỉ, th́ từ trong đám thổ phỉ có một người bước ra, đi đến trước xe và nói: "Ông đưa roi cho tôi để tôi đánh xe cho!"

Ông nghe lời, đưa roi đánh xe cho người kia. Xe ông đi ngang qua chỗ đám thổ phỉ mà bọn họ dường như không thấy không nghe ǵ cả, cho nên ông không bị cướp. Đợi xe chạy tới chỗ bọn thổ phỉ không c̣n thấy được nữa, người đánh xe giùm ấy trả roi lại cho ông và nói: "Bây giờ ông hăy đi đi, không có việc ǵ nữa đâu."

Ông nông dân ấy v́ nh́n thấy người đánh xe giúp ḿnh vốn từ trong đám thổ phỉ đi ra, nên cứ đinh ninh anh ta cũng là thổ phỉ, mới nói: "Thưa tiên sinh, hôm nay nhờ tiên sinh cứu giúp mà tôi khỏi bị nạn cướp, dám hỏi quư danh tiên sinh là chi? Hiện ở đâu? Tương lai tôi sẽ đến quư phủ hầu bái tạ."

Người kia đáp: "Tôi tên là A Thệ Dựng."

Quư vị niệm chú Đại Bi ắt đều biết rơ, trong chú Đại Bi không phải có một vị Hộ pháp tên là A Thệ Dựng sao? Trong đồ h́nh, vị Hộ pháp ở phía sau vai có hai cánh, tên là A Thệ Dựng. Nhưng đương lúc ấy, người nông dân lại tự hỏi: "Ồ, A Thệ Dựng là ai vậy ḱa?" Bấy giờ ông ta quên bẵng rằng "A Thệ Dựng" chính là một câu trong chú Đại Bi và là tên của một vị Hộ pháp.

Tới chừng vị A Thệ Dựng ấy đi rồi, không c̣n nh́n thấy nữa, người nông dân mới sực nhớ ra: "À, đây không phải là vị Hộ pháp A Thệ Dựng trong chú Đại Bi hay sao?" Song, khi ông nhớ ra th́ t́m không thấy "A Thệ Dựng" nữa, chẳng biết là đă đi về đâu!

Trên đây là một trong những cảnh giới không thể nghĩ bàn của chú Đại Bi. Nếu như người nông dân ấy nghĩ: "Để ḿnh thử niệm chú Đại Bi xem có linh nghiệm không," tất A Thệ Dựng sẽ không hiện thân đến cứu ông ta. Chính nhờ ông ta không có ư muốn thử nghiệm, mà chỉ một ḷng tin tưởng: "Tŕ niệm chú Đại Bi th́ sẽ có thể gặp hung hóa kiết, đổi nguy thành an"; và quả nhiên ông ta được toại ư nguyện, không bị thổ phỉ cướp bóc.

7) Quyền Thật : Bồ Tát Quán Thế Âm dùng sức của Pháp thân mà lặng lẽ, bí mật cứu giúp chúng sanh, ấy là "Thật." Ngài lại dùng ba mươi hai Ứng hóa thân để giáo hóa chúng sanh, ấy là "Quyền." "Quyền" là phương tiện quyền xảo, cũng là phương pháp tạm thời, không phải là vĩnh viễn. Lại v́ Bồ Tát Quán Thế Âm dùng nhân duyên Quyền Thật này, nên mới nói Phẩm Phổ Môn.

8) Bản Tích : Sao gọi là "Bản?" "Bản" là căn bản, "Tích" là dấu tích. Bồ Tát Quán Thế Âm dùng một Pháp thân mà độ khắp tất cả chúng sanh; Pháp thân ấy chính là "Bản." Ngài lại dùng Ứng hóa thân để giáo hóa chúng sanh; các thân đó chính là "Tích."

Pháp thân của Bồ Tát Quán Thế Âm ví như vầng trăng sáng; c̣n "tích" của Ngài ví như bóng trăng soi trên ngàn sông nước. Ấy gọi là: "Nước đẫy ngàn sông ngàn ánh trăng." Chỉ có một vầng trăng sáng chiếu soi các ḍng sông, mà tất cả những bóng trăng trong các ḍng sông đều là từ bản thân của một mặt trăng duy nhất này huyễn hiện ra. Trăng trong nước chính là nước, là "tích;" c̣n mặt trăng trên trời chính là "bản."

Do nhân duyên Bản Tích mà nói Phẩm Phổ Môn.

Bồ Tát Quán Thế Âm dùng một Pháp thân mà thị hiện khắp trong tâm của tất cả chúng sanh, khiến cho họ đều cải quá tự tân, hồi tâm hướng thượng, ĺa khổ được vui, rốt ráo thành Phật.

Giảng đến đây có người nói: "Hèn ǵ! Sở dĩ tôi không cải quá tự tân là v́ Bồ Tát Quán Thế Âm không thị hiện ở tâm tôi, khiến tôi gây ra biết bao lỗi lầm, lại c̣n không chịu sửa đổi nữa."

Người nghiện thuốc lá th́ nghĩ rằng: "Có lẽ là v́ Bồ Tát Quán Thế Âm không gia bị tôi, không muốn giúp tôi cai thuốc."

Người thích uống rượu th́ nói: "Tôi muốn học Phật pháp, nhưng đáng tiếc là tôi cai rượu không được. Đó là lỗi của Bồ Tát Quán Thế Âm, v́ Ngài không chịu giúp đỡ tôi."

Họ nghĩ như thế rồi sanh ḷng oán trách Bồ Tát Quán Thế Âm: "Bồ Tát Quán Thế Âm thật bất công! Tại sao Ngài giúp đỡ người ta mà không giúp đỡ tôi?"

Điều này thật là ngu lại càng ngu, thành ra hai cái ngu si chồng chất lên nhau. Tại sao Bồ Tát Quán Thế Âm lại không gia bị quư vị? Đó là do quư vị không chịu nghe lời giáo hóa của Ngài đấy thôi. Quư vị nghe thấy danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát th́ phải cải quá tự tân, phải thanh lọc đầu óc của ḿnh đi. Đồng thời, cần phải hiểu rằng:

Hiểu dĩ văng là không kể đến,

Biết vị lai có thể truy t́m.

Mọi người đều phải biết rằng việc quá khứ th́ đă qua rồi, kể như xong; c̣n tương lai th́ sắp đến, chúng ta có thể sửa đổi để đi theo con đường chân thiện. Nhưng quư vị rơ biết mà cố phạm th́ tội ấy càng chồng chất thêm. V́ thế, oán trách Bồ Tát Quán Thế Âm không bảo hộ quư vị là một điều quá lầm lạc! Bồ Tát Quán Thế Âm lúc nào cũng muốn bảo hộ quư vị, nhưng tiếc thay, cửa ḷng quư vị đóng chặt, không để cho Ngài tiến vào. Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ có nước thở dài: "Ôi! Chúng sanh này thật là đáng thương biết bao!" V́ thế quư vị không nên trách Bồ Tát Quán Thế Âm, mà phải tự trách ḿnh đă thiếu nhiệt tâm.

9) Duyên Liễu : "Duyên" là duyên nhân, "Liễu" là liễu nhân. Sao gọi là "Liễu nhân?" Ấy là cái nhân này đă kết liễu, đă dứt hết. Cũng có thể nói "liễu nhân" tức là hiểu rơ nguyên nhân.

Trong khóa tu học mùa hè năm nay (1968), mọi người đều thức dậy rất sớm và tận dụng từng giây từng phút để học Phật-pháp. Những người ở xa th́ thức dậy từ lúc bốn giờ khuya để có thể đến đây tham Thiền và nghiên cứu kinh điển. Có những người đang theo học Cử nhân, Tiến sĩ tại trường Đại học Washington ở Seattle, cũng đến tham gia khóa tu học này. Điều đó chứng tỏ rằng họ đă nhận thức được tầm quan trọng của Phật-pháp. Tại sao họ từ những nơi quá xa xôi như vậy mà chịu khó đến tận đây (San Francisco) để tham Thiền, học tập kinh tạng, nghiên cứu Phật-pháp? Chính là v́ họ muốn "liễu" cái "nhân" ấy. Nghe kinh chính là chủng tử của "liễu nhân;" quư vị có nhân duyên nghe kinh, đó là "duyên" của nhân. Vậy, v́ nhân duyên Duyên Liễu nên nói Phẩm Phổ Môn này.

10) Trí Đoạn : Bồ Tát Quán Thế Âm dùng trí huệ, trí đức trang nghiêm của Ngài để giáo hóa chúng sanh, quả vị của Ngài là trang nghiêm trí huệ.

"Trí" là Trí đức của Huệ, tức là đức hạnh của trí. "Đoạn" là Đoạn đức, tức là đoạn trừ, cắt đứt tất cả vô minh. Đoạn đức c̣n được gọi là Phước đức. Nhân v́ Ngài đoạn trừ được vô minh, nên có được phước đức trang nghiêm chân chánh.

Đức Phật th́ đầy đủ cả phước lẫn huệ; Bồ Tát Quán Thế Âm mặc dù là Bồ-tát, nhưng Ngài có phước đức trang nghiêm và cũng có huệ đức trang nghiêm. Cho nên, "Trí huệ" cũng gọi là "Phước huệ."

Trên đây là mười nhân duyên nói phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn, phẩm thứ hai mươi lăm của bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

Trước khi nghiên cứu phần kinh văn, chúng ta hăy t́m hiểu về danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi tin rằng Quán Thế Âm Bồ Tát rất quen thuộc đối với tất cả quư vị, bởi Ngài là một vị Bồ-tát đại từ đại bi và rất có nhân duyên với chúng sanh chúng ta.

Quán là "năng quán chi trí"- trí huệ năng quán, trí huệ dùng để quán xét. Thế Âm là cảnh giới sở quán-các âm thanh của thế gian chính là cảnh giới được quán xét.

Bất luận âm thanh nào của thế gian, Quán Thế Âm Bồ Tát cũng đều nghe biết cả. Ngài biết rơ từng âm thanh một của mỗi chúng sanh; v́ sao? V́ Ngài không ngừng quán sát các âm thanh đó. Suốt ngày, Ngài hết xem xét nơi này lại xem xét nơi khác, t́m xem có âm thanh ǵ hay không.

Âm thanh vốn phải lắng nghe mới phải, v́ sao ở đây lại nói là "xem?" Âm thanh mà có thể "xem," có thể "thấy" được ư? Chúng ta th́ không thể, song Quán Thế Âm Bồ Tát th́ có thể "thấy" được âm thanh. Ngài nh́n thấy âm thanh như thể chúng được ghi nhận trên màn ra-đa, và mỗi chúng sanh được kư hiệu bằng một ánh chớp nhỏ (blip) trên màn ảnh ra-đa. Ngài có thể theo dơi từng âm thanh của quư vị. Đó là một cách giải thích.

Lại có thể giải thích rằng: Quán Thế Âm Bồ Tát có khả năng nghe bằng mắt và thấy bằng tai! Mặc dầu chúng ta nói là Ngài quán sát các âm thanh của thế gian, Ngài cũng có thể nghe bằng mắt được! Ngài không chỉ dùng mắt để nh́n mà c̣n có thể dùng mắt để nghe nữa. V́ sao ư? Bởi v́ Ngài có thần thông Lục căn Hỗ dụng. Những người tu hành theo Kinh Pháp Hoa, đạt được cảnh giới Pháp Hoa Tam Muội, hoặc Lục căn Thanh tịnh, đều có được khả năng Lục căn Hỗ dụng; huống hồ là Quán Thế Âm Bồ Tát!

Cho nên, tai của Quán Thế Âm Bồ Tát có thể nói chuyện, có thể ăn uống; mắt của Ngài có thể nghe và cũng có thể suy nghĩ được nữa. Đó là cảnh giới Lục căn Hỗ dụng mà Quán Thế Âm Bồ Tát đă chứng được từ lâu xa về trước; và nhờ vậy, Ngài có thể quán xét âm thanh của thế gian.

Có lẽ có người thắc mắc: "Tại sao Quán Thế Âm Bồ Tát lại đa sự, muốn ôm đồm nhiều việc quá vậy? Từ sáng đến tối nhọc ḷng quán xét âm thanh? Để làm ǵ kia chứ?"

Quán Thế Âm Bồ Tát làm như thế là v́ Ngài không thể bỏ mặc chúng sanh Ứ quư vị, tôi, và bao người khác nữa. Ngài xem tất cả chúng sanh như con vậy. Quán Thế Âm Bồ Tát chẳng khác nào một người mẹ luôn quan tâm đến con cái Ứ luôn để ư xem đứa này có khóc không, đứa kia có đói không, đứa nọ có lạnh khôngẨ, suốt ngày Ngài bận rộn trông nom chúng sanh chúng ta.

Có người thắc mắc: "Như thế th́ Ngài giống như baby-sitter sao?"

Đúng, cũng gần như là vậy. Có điều là Ngài không được trả lương! Đó là điều thiệt tḥi nhất cho Quán Thế Âm Bồ Tát! Chính v́ không thể bỏ mặc chúng sanh, nên Ngài muốn quán xét các âm thanh của thế gian, để xem có chúng sanh nào đang chịu khổ sở th́ Ngài giải trừ sự thống khổ cho chúng sanh đó, hoặc có loài chúng sanh nào gặp nạn th́ Ngài giải trừ tai nạn cho loài chúng sanh đó.

Quán Thế Âm Bồ Tát "tầm thanh cứu khổ"Ứ Ngài lắng nghe tiếng kêu của chúng sanh mà đến cứu họ thoát khỏi khổ nạn. Nếu quư vị đang chịu khổ sở, th́ chỉ cần niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, tất quư vị sẽ được "gặp rủi hóa may," và mọi sự được thuận lợi đúng như quư vị mong muốn. Đa số người đời không biết đến diệu pháp này, cho nên khi gặp chuyện nguy hiểm, bất trắc, họ không biết niệm danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ Tát.

Nếu lúc gặp hiểm nguy mà quư vị có thể nhớ niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, quư vị sẽ được b́nh yên vô sự. Nếu quư vị ở trong đám cháy, lửa sẽ không thiêu đốt quư vị. Nếu quư vị té xuống chỗ nước sâu, nước không nhận ch́m quư vị. Nếu quư vị không biết bơi, quư vị sẽ thấy ḿnh tự nhiên được tấp vào chỗ cạn. Đó là do sức cảm ứng của Quán Thế Âm Bồ Tát. Lúc nguy cấp, chỉ cần quư vị có thể niệm danh hiệu của Ngài, chắc chắn sẽ được sự cảm ứng và được cứu thoát. Tuy nhiên, quư vị cần phải thật sự có ḷng tin; không thể lưỡng lự, bán tín bán nghi được.

Giả sử quư vị bị ở trong đám cháy và vừa niệm danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ Tát vừa hoài nghi: "Có thật là Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ đến cứu ḿnh không? Không có đâu! Làm ǵ có chuyện mầu nhiệm linh thiêng như thế được!" V́ một niệm nghi ngờ đó, Ngài không thể đến giải nguy cho quư vị được. Tại sao vậy? Bởi v́ quư vị không tin, không có tín tâm đối với Ngài! Quư vị cần phải một ḷng một dạ thiết tha tin tưởng: "Ḿnh niệm danh hiệu của Quán Thế Âm Bồ Tát, Ngài chắc chắn sẽ đến cứu ḿnh!" Hoặc nếu sắp bị cọp dữ vồ bắt ăn thịt, quư vị liền nhắm nghiền hai mắt và niệm "Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát..."; bỗng nhiên cọp sẽ không thể hả miệng ra được nữa. Đó chính là nhờ thần lực của Quán Thế Âm Bồ Tát vậy.

Bồ-tát là "giác hữu t́nh," kẻ đi giác ngộ chúng hữu t́nh, giúp họ trở nên giác ngộ. Các ngài cũng là "hữu t́nh giác," những chúng hữu t́nh đă giác ngộ. Bồ-tát cũng c̣n được gọi là "Đại Đạo tâm chúng sanh, Khai sĩ, hoăc Hữu thượng sĩ. "

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa - Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn

Ḥa Thượng Tuyên Hóa Lược Giảng

Lúc bấy giờ ngài Vô Tận Ư Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai phải, chắp tay hướng về Đức Phật mà thưa rằng: "Thế Tôn! Bồ Tát Quán Thế Âm do nhân duyên ǵ mà tên là Quán Thế Âm?"

Lúc bấy giờ chính là đương lúc ấy. Đương lúc ấy là lúc nào? Chính là lúc Bồ Tát Vô Tận Ư ở trên hội Pháp Hoa hỏi về nhân duyên có tên gọi Quán Thế Âm Bồ Tát; cũng chính là lúc này, khi nói xong phẩm Diệu Âm Bồ Tát Bổn Sự, giờ đây là lúc nói Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn. Có vị Vô Tận Ư Bồ Tát. Sao gọi là Vô Tận Ư? Nói chung, có ba thứ vô tận:

1. Thế giới vô biên trần nhiễu nhiễu : Thế giới th́ vô lượng vô biên, chúng ta không nên cho rằng thế giới này là cái mà chúng ta mắt thấy tai nghe được, đó là một thứ giới hạn của thế giới thôi. Không phải thế đâu! Thế giới này nhiều đến vô lượng vô biên, có thế giới này, thế giới khác,vô lượng thế giới; cơi nước này, cơi nước khác, vô lượng cơi nước, vô cùng vô tận, cho nên gọi là Thế giới vô biên trần nhiễu nhiễu.

Sao gọi là nhiễu nhiễu? Nhiễu là nhiễu loạn; nhiễu loạn là bất định; bất định cũng có nghĩa là động. Trần có nghĩa là không thanh tịnh, trên thế giới có rất nhiều vi trần. Thử nh́n khi mặt trời mới mọc, trong ánh dương quang thấy vô số vi trần đang lên lên xuống xuống trong không trung, lăng xăng lay động, chợt cao chợt thấp. Những vi trần này từ đâu đến? Bao nhiêu đất bụi ở thế giới này từ đâu có? Xét tận cội nguồn, truy cứu căn nguyên của vi trần này là vấn đề thật quan trọng. Tất cả vi trần này đều từ trong tâm của mỗi chúng sanh hiện ra. Tại sao? V́ trong tâm chúng sanh quá nhiều vọng tưởng. Vọng tưởng giống như vi trần lăng xăng không an, luôn luôn biến động. Chúng ta thử quan sát vọng tưởng nhiều vô số, chúng nhiều đến nỗi không thể tính đếm được. Có đếm cũng không biết là bao nhiêu! Trong Kinh Lăng Nghiêm nói: "Trong một niệm có chín mươi sát-na." Sát-na là một khoảng thời gian rất ngắn, mà trong một sát-na lại có chín trăm lần sanh diệt, cho nên nói là "Thế giới vô biên trần nhiễu nhiễu."

2. Chúng sanh vô tận nghiệp mang mang : Thế giới là vô biên, nhân v́ có thế giới cho nên cũng có chúng sanh. Chúng sanh là do các duyên ḥa hợp mà sanh ra. Có rất nhiều thứ do nhân duyên ḥa hợp mà sanh, đại khái có bốn thứ: Thai sanh, noăn sanh, thấp sanh và hóa sanh. Tại sao có thai sanh? Thai nhân nơi t́nh mà có, thai sanh là v́ có ái t́nh, nhân đó mà có ra sanh mạng mới. Noăn nhân tưởng mà sanh, đó là do tưởng mà thành h́nh. Thấp sanh là nương nơi ẩm ướt mà sanh, ở nơi chỗ có khí ẩm ướt cũng có thể sanh ra. Hóa sanh tức là biến hóa mà sanh ra, đó là sanh mạng tự nhiên biến hóa mà sanh ra chứ không nương vào duyên của cha mẹ. Nói kỹ hơn, có mười hai loại chúng sanh không ngoài tám thứ: Có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng phải có sắc, chẳng phải không sắc, chẳng phải có tưởng, chẳng phải không tưởng. Chúng sanh nhiều như vậy, cứu cánh là từ đâu mà có? Chúng sanh là từ Phật tánh mà ra. V́ thế mới nói: "Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, đều có thể thành Phật." Nhưng chẳng phải là nói chúng sanh chính là Phật, không cần tu hành cũng thành Phật. Nhưng nhất định phải dụng công tu hành tham thiền, học Phật-pháp... th́ mới có thể phản bổn hoàn nguyên mới thành Phật được; không phải là nói chúng sanh hiện tại chính là Phật mà chẳng cần phải tu hành. Hiểu một cách đơn giản như thế chính là thứ tà tri tà kiến! Mà là cần phải tu học Phật-pháp, y giáo phụng hành mới có thể thành Phật được.

3. Ái hà vô để lăng thao thao : Ái hà là chỉ t́nh yêu nam nữ; chẳng những ở nhân loại nói yêu, mà ở dị loại như súc sanh cũng chấp mê không ngộ v́ chữ "yêu" này, nhất là súc sanh lại càng không rơ lư hơn, cho nên tâm dâm dục của chúng nặng phi thường. Chúng nó từng giờ từng khắc đều nghĩ tưởng đến việc dâm dục. Nếu có thể sanh tâm quả dục, tự trong sạch tâm ḿnh, cắt bỏ ái dục th́ cách việc thành Phật không xa. "Ái hà" này thật không có đáy, càng ch́m càng sâu, càng sâu càng ch́m xuống nữa, nên là "vô để" (không có đáy). "Lăng thao thao" là thứ sóng dập dồn liên miên không dứt cũng như sóng nước vậy. Tại sao trong nước biển lại có sóng? Bởi v́ trong tâm chúng sanh có sóng. Trong tâm chúng sanh có sóng là v́ ái hà có sóng. Tâm ái này muốn bứt cũng bứt không đứt. Lại dùng dao bén muốn chặt đứt t́nh ái cũng không dễ ǵ. Nhưng nếu quư vị có trí huệ chân chánh th́ giải quyết vấn đề này không khó, ấy gọi là "Gươm trí huệ dứt dây t́nh ái." Người không có trí huệ th́ rớt trong biển ái, càng quậy càng sâu. Phải quậy đến bao giờ? Đó là v́ nó không có đáy, càng quậy càng sâu, càng sâu càng quậy, càng quậy càng ch́m.

Do ba lư do nói trên nên Bồ Tát Vô Tận Ư muốn biến vô lượng thế giới này thành thế giới Cực Lạc, muốn giáo hóa vô tận chúng sanh đều được thành Phật, lại muốn lấp ái hà không đáy kia thành bằng phẳng. Cho nên Bồ-tát này gọi là Vô Tận Ư.

Bồ-tát là tiếng Phạn nói gọn, nói đủ là Bồ-đề Tát-đỏa. Theo nghĩa Trung Hoa th́ "Bồ' là giác, "Tát" là t́nh. Bồ-đề là giác đạo, Tát-đỏa là hữu t́nh. Bồ-tát dùng đạo lư giác ngộ để giác ngộ tất cả hữu t́nh. Đó là chính ḿnh được khai ngộ, rồi muốn t́m cách dạy bảo mọi người cùng khai ngộ, ấy gọi là tự giác, giác tha. Những vị Bồ-tát này từ đâu đến? Bồ-tát là từ chúng sanh mà đến. Bồ-tát trước kia cũng là chúng sanh, cũng đủ tất cả tánh chúng sanh như chúng ta hiện nay, không có ǵ khác cả. Nhưng các ngài là người giác ngộ trong chúng sanh, là bậc giác ngộ trong chúng hữu t́nh, c̣n chúng ta đây lại là kẻ mê muội trong chúng sanh, hăy c̣n chưa giác ngộ. Nếu như hôm nay quư vị giác ngộ th́ hôm nay là Bồ-tát, ngày mai quư vị giác ngộ th́ ngày mai là Bồ-tát. Mà giác ngộ cái ǵ? Giác ngộ cái vô minh. Nếu quư vị biết vô minh từ đâu đến th́ có thể phá trừ nó được ngay, đó là "giác" đấy. Nếu không phá được vô minh th́ là "bất giác." Phá được vô minh th́ Pháp tánh tự hiện bày, ái hà cũng khô cạn; ái hà khô cạn th́ trí huệ hiện tiền. Đó là giác ngộ đấy. Bồ-tát là giác ngộ hữu t́nh, mà cũng là hữu t́nh giác ngộ. Bồ-tát c̣n gọi là chúng sanh "đại đạo tâm," v́ đạo tâm của các ngài rất lớn; c̣n gọi là Khai sĩ, v́ các ngài có thể khai mở tâm ngu si của chúng sanh để hiển bày Phật tánh sẵn có.

Liền từ chỗ ngồi đứng dậy. Ở trên hội Pháp Hoa, Vô Tận Ư Bồ Tát nghe Phật nói Phẩm Diệu Âm Bồ Tát Bổn Sự đă xong, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi của ḿnh. Tại sao phải đứng dậy? Bất luận ở trong một hội trường lớn nào, khi quư vị muốn nói cần phải đứng dậy trước đă, chớ không thể ngồi tại chỗ rồi đưa tay lên hỏi. Như vậy là quá tùy tiện! Lúc ấy ngài Vô Tận Ư Bồ Tát muốn nói, Ngài chẳng những là đứng dậy mà c̣n trịch áo bày vai phải nữa. Tại sao phải để lộ vai phải? Đó là để biểu lộ sự cung kính.

Chắp tay hướng về Đức Phật. Tiếp theo, ngài Vô Tận Ư chắp hai tay lại mà thưa rằng:

Từ đoạn Lúc bấy giờ Bồ-tát Vô Tận Ư liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai phải, chắp tay hướng về Phật mà thưa thưa rằng là do Tôn giả A Nan khi kiết tập kinh điển viết ra. Đoạn này dùng để miêu tả nhân duyên của pháp hội này. Bắt đầu từ "Thế Tôn" là lời của Bồ Tát Vô Tận Ư nói.

Thế Tôn! Thế Tôn là bậc tôn quư của thế gian và xuất thế gian. Thế gian và xuất thế gian đều tôn kính Ngài.

Bồ Tát Quán Thế Âm do nhân duyên ǵ mà tên là Quán Thế Âm? Bồ Tát Vô Tận Ư sau khi bạch Thế Tôn, rồi nói: "Bồ Tát Quán Thế Âm có sức oai thần to lớn như thế, có nguyện lực từ bi to lớn như thế - Ngài có thể cứu được bảy nạn, giải ba độc, ứng hai thứ cầu, có mười bốân vô úy, mười chín lần thuyết pháp, thị hiện ba mươi hai ứng thân - do nhân duyên ǵ mà Ngài được gọi là Quán Thế Âm?" Do nhân duyên ǵ, cũng chính là hỏi rằng Bồ Tát Quán Thế Âm ở trong quá khứ đă tu pháp môn ǵ mà tên của Ngài là Quán Thế Âm?

Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ư: "Này thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng sanh chịu các khổ năo, nghe Bồ Tát Quán Thế Âm này nhất tâm xưng danh. Quán Thế Âm tức thời quán xét tiếng tăm kia, đều đặng giải thoát."

Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ư: Câu này là Tôn giả A Nan khi kiết tập kinh tạng y chiếu theo văn nghĩa mà viết ra. Thiện nam tử là tiếng Phật Thích-ca xưng gọi Bồ Tát Vô Tận Ư. Phật bảo: "Này Thiện-nam-tử! Nếu có vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng sanh." "Nếu có," là lời giả thiết, là sẽ có mà chưa có, hiện nay chưa có, tương lai có thể sẽ có. Tương lai hoặc là có trăm ngàn vạn ức chúng sanh. Những chúng sanh này gồm có mười hai loại chúng sanh: noăn, thai, thấp, hóa, có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng phải có tưởng, chẳng phải không tưởng.

Thọ chư khổ năo. "Thọ" là gặp phải, thọ chịu. Chữ "chư," nếu hiểu như một trợ động từ, có nghĩa là nhiều và cũng để chỉ các thứ khổ năo mà họ phải thọ. Nếu không coi như là một ngữ trợ từ, th́ có nghĩa là mỗi một chúng sanh thọ lấy thứ khổ năo nào đó.

Những "khổ năo" này có nhiều hay ít? Đại khái có bốn loại:

1. Một người thọ một khổ: Như là câm, người ấy có khổ th́ chính người ấy biết, cũng không thể nói cho người khác biết; đó gọi là "người câm nhai hoàng liên" (một loại cây thuốc rất đắng).

2. Một người thọ nhiều khổ: Ví như một người đi đến bất cứ chỗ nào cũng đều gặp phải khổ năo, nếu chẳng thiên tai th́ cũng nhân họa, nếu chẳng bị giặc cướp th́ lại bị hỏa tai. Tất cả những khổ năo ở thế gian, người ấy đều gặp phải, đó gọi là "một người thọ nhiều khổ."

3. Nhiều người thọ một khổ: Giống như Việt Nam bây giờ (1968) hiện đang chiến tranh, khi tác chiến, phi cơ oanh tạc, đạn pháo rầm trời, sanh linh đồ thán, thương vong vô số kể, thật là kinh khủng. Nhiều người trong một quốc gia thọ nhận một thứ khổ, đó gọi là "nhiều người thọ khổ." Lại có một thứ nữa, như bịnh dịch lan tràn, rất nhiều người bị thứ bịnh truyền nhiễm ấy uy hiếp làm chết đi sống lại. Thứ khổ năo ấy dù chưa phải chết, nhưng mắc phải tật bịnh th́ đau khổ phi thường. Đó cũng là "nhiều người thọ một khổ."

4. Nhiều người thọ nhiều khổ: Ngoài ra lại c̣n có rất nhiều thứ khổ năo khác, nói măi cũng không hết. Thế giới này là thế giới khổ năo, chúng sanh cũng nhiều, khổ năo cũng không kém, vậy th́ có bao nhiêu thứ khổ năo? Thật ra, không thể nào tính đếm được, nói chung là có tám vạn bốn ngàn thứ.

Thế th́ khi thọ khổ phải làm sao? Ai cũng có khổ năo hết. Đương lúc chúng ta thọ khổ, luôn luôn phải nhớ kỹ, đừng nên quên Bồ Tát Quán Thế Âm. Đương lúc chúng ta thọ khổ, nghe Bồ Tát Quán Thế Âm này th́ phải nên nhất tâm xưng danh.

Nghe tức là xưa nay ḿnh vốn không biết. Như tại Mỹ đây, cứu cánh là có bao nhiêu người nghe qua danh hiệu của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm? T́m thử xem? Tôi tin rằng toàn cả nước không có đến 1%! Quư vị nghĩ xem, có biết bao nhiêu người không được nghe danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, mà quư vị hiện tại được nghe. "Nghe" cũng có nghĩa là minh bạch hay biết được. Như biết được Quán Thế Âm Bồ Tát với Nhĩ căn viên thông, có ba mươi hai Ứng thân... thần lực tự tại như thế.

Nhất tâm xưng danh: Quan trọng là ở chỗ nhất tâm. Quư vị chớ nhị tâm, tam tâm và lại càng không nên tứ tâm. Quư vị càng nhiều tâm, nhưng không giống với làm việc công đức đâu, càng nhiều càng tốt. Tâm càng nhiều lại càng không tốt. Tại sao? V́ tâm một khi nhiều tức sẽ tán loạn, tán loạn tức là không chuyên nhất, không chuyên nhất th́ bất linh, không có công hiệu. Nếu quư vị nhị tâm xưng danh th́ không linh ứng, mà tam tâm xưng niệm lại càng không có tác dụng.

Bồ Tát Quán Thế Âm. "Quán" là quán thấy, "Thế" là thế gian, "Âm" là âm thanh. Đó là vị Bồ-tát quán thấy tất cả âm thanh của thế gian. Tức thời quán xét tiếng tăm kia. Tức khắc quán xét âm thanh của chúng sanh ấy. Đều đặng giải thoát. Bao nhiêu khổ năo đều được giải thoát. Giải thoát có nghĩa là không c̣n nữa. Không c̣n khổ năo nữa th́ thế nào? Th́ được an vui. Sự giải thoát này cũng là đạt đến tự do thực sự, không c̣n bị bó buộc, vô quái vô ngại.

Nếu có người tŕ danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy đặng, v́ do sức oai thần của Bồ-tát này đặng như vậy. Nếu có người bị nước xiết cuốn trôi, xưng danh hiệu Bồ-tát này liền gặp chỗ cạn.

Đoạn văn kinh này nói về Bồ Tát Quán Thế Âm cứu độ chúng sanh thoát khỏi nạn lửa và nạn nước, hai nạn đầu trong bảy nạn. Nếu có người tŕ danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm này. "Nếu có," là bây giờ chưa có, tương lai có thể có. Giả sử có một người ở t́nh huống ấy mà tŕ niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. "Tŕ" là nắm chắc, nghĩa là không quên, cũng tức là tâm tâm niệm niệm đều chấp tŕ câu: "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát." Th́ dầu vào trong đám lửa lớn, lửa chẳng cháy đặng. Song, đây ư là nói người ấy b́nh thường niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, mà không phải là nói đợi đến khi bị vây hăm trong đám lửa lớn mới niệm danh hiệu Ngài, không phải là bảo bây giờ mới đốt hương, bây giờ mới niệm Phật, cũng không phải là nói hôm nay có tai nạn, hôm nay mới niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Có câu là: "B́nh thường chẳng đốt hương, gặp việc ôm chân Phật." Lúc rảnh, một cây hương cũng không đốt, gặp việc gấp mới chạy ôm chân Phật cầu xin cứu nạn cho. Lúc ấy dù cho quư vị ôm bắp vế của Phật, nhưng Phật cũng không có để mắt tới đâu. Tại sao thế? V́ lúc b́nh thường quư vị không chịu tu hành, đến chừng gặp nạn mới cầu cứu với Phật, đó gọi là "bây giờ mới đốt hương, bây giờ mới niệm Phật." Lại c̣n có một hạng người, lúc b́nh thường cũng chưa đốt hương chưa niệm Phật, nhưng lúc có nạn gấp, Bồ Tát Quán Thế Âm cũng cứu giúp họ, khiến họ ĺa khổ đượĩc vui. Thế nghĩa là sao? Quư vị biết rằng, mỗi người chúng ta đều có nhân trước quả sau. Ở đời trước, có thể người ấy đă từng dũng mănh tinh tiến tu hành, gắng sức dụng công niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, thậm chí đă từng tạo ra các thứ công đức, đời này dù không có niệm mà nhờ đời trước đă tŕ niệm, đă từng gieo trồng căn lành, nên ở đời này dù người ấy không niệm mà Quán Thế Âm Bồ Tát vẫn đến cứu giúp cho. Ấy là nhờ có nhân xa mà được. Về nhân, có nhân xa mà cũng có nhân gần. Nhân xa là nhân gieo trồng từ đời trước, nhân gần là nhân gieo trồng ở đời này.

Có người nói: "Đời trước có thể tôi đă gieo nhân rồi, bây giờ không cần phải niệm nữa. Tương lai tôi có mắc nạn, Bồ Tát Quán Thế Âm cũng sẽ đến cứu tôi." Điều đó không lấy ǵ chắc lắm. Quư vị yêu cầu tôi bảo đảm, tôi cũng không dám! Nếu như quư vị ngay từ bây giờ bắt đầu thành tâm thành ư niệm đi, th́ tôi có thể bảo đảm với quư vị, chắc chắn có thể được cảm ứng, tương lai nếu quư vị có tai nạn chi, Bồ Tát Quán Thế Âm nhất định sẽ đến cứu quư vị. V́ bởi quư vị không phải là "bây giờ đốt hương, bây giờ cảm ứng" th́ tuyệt đối sẽ có cảm ứng.

Trước kia có một người nhất tâm mong muốn đi Phổ Đà Sơn ở Nam Hải để triều bái Bồ Tát Quán Thế Âm. Nhưng mà trong thiên hạ lại có lắm chuyện trớ trêu! Ngày ông ta lên thuyền để đi Phổ Đà Sơn triều bái Bồ Tát Quán Thế Âm th́ nhà kế bên phát hỏa, bốc cháy. Người nhà ông ta chạy đến báo tin: "Không xong rồi! Anh phải về mau! Đừng đi Phổ Đà Sơn nữa. Nhà kế bên chúng ta bị cháy rồi, anh phải về lo thu xếp mới được."

Người ấy nói: "Tôi v́ muốn triều bái Bồ Tát Quán Thế Âm nên đă trường chay ba năm rồi, bây giờ đă lên thuyền sắp đi. Nhà nếu phải cháy, th́ dầu tôi có rời thuyền th́ nhà cũng vẫn cháy. Nếu không đáng cháy, nhờ sức bảo hộ của Bồ-tát, dầu tôi không xuống thuyền nhà cũng không cháy được. Với thành tâm này, tôi đâu có thể v́ nhà cháy mà không đi lễ Bồ-tát Quán Thế Âm!"

Đối với ông ta lúc đó, việc nhà cháy cũng mặc kệ, chỉ quyết định nhất tâm đi lễ Bồ Tát Quán Thế Âm mà thôi. Sau khi ông ta đi triều bái Bồ Tát Quán Thế Âm ở Phổ Đà Sơn trở về, nh́n thấy làng xóm hai bên đều trống không v́ bị lửa ngốn, chỉ c̣n độc ngôi nhà ḿnh nguyên vẹn. V́ thế có người hỏi: "Tại sao mấy nhà xung quanh bị cháy hết mà nhà anh không bị cháy?" Anh ta đáp: "Nhờ tôi thành tâm đi lễ Bồ Tát Quán Thế Âm. Khi đi, thứ ǵ tôi cũng buông xả hết, cái ǵ cháy cứ cháy, tôi cho cháy tuốt, đều không màng đến. Đó là nhờ Bồ Tát Quán Thế Âm bảo hộ cho đấy! Nhờ oai lực của Ngài cứu giúp nên nhà của tôi mới được nguyên vẹn như thế!"

Đó là bằng chứng: "Giả sử vào trong đám lửa lớn, lửa không thể cháy được."

Do nhờ sức oai thần của Bồ-tát này. Tại sao lửa không thể cháy được? V́ Bồ Tát Quán Thế Âm có oai thần lực lớn nên lửa không thể cháy được.

Nếu bị nước xiết cuốn trôi. Nếu b́nh thường quư vị niệm danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm, hoặc là vô ư - chớ không phải muốn thử nghiệm Bồ Tát Quán Thế Âm mà nhảy xuống biển xem có linh nghiệm chẳng bị ch́m hay không? Nếu quư vị có ư muốn thử, không phải thật ḷng tin th́ tuyệt đối không linh nghiệm đâu. Quư vị nhảy xuống biển chắc chắn sẽ ch́m ngay. Tại sao? Tại quư vị có tâm muốn thử Bồ-tát. Bồ Tát Quán Thế Âm đâu phải học tṛ, quư vị cũng không phải là thầy giáo, tại sao quư vị lại muốn thử nghiệm Bồ Tát Quán Thế Âm? Tại v́ quư vị không tin Bồ Tát Quán Thế Âm có những thần thông như thế nên mới thử nghiệm xem. Sự thử nghiệm đó không sao, nhưng lại là đem sinh mạng của ḿnh làm vật hy sinh đấy! Không nên đem sinh mạng làm tṛ cười, để đánh cuộc như vậy!

Xưng danh hiệu Bồ-tát này liền gặp chỗ cạn. Quư vị xưng niệm danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm th́ bất ngờ gặp được chỗ cạn. Ở trong biển lớn th́ làm sao đến được bờ kia? Đó là nhờ oai lực của Bồ Tát Quán Thế Âm mới có sự cảm ứng như thế. Bất cứ là người nào, nếu muốn giải trừ các khổ năo của bảy nạn, th́ trước phải thường thường cung kính xưng niệm danh hiệu Ngài.

Nếu có trăm ngàn muôn ức chúng sanh v́ t́m vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mă năo, san hô, hổ phách, trân châu, các thứ báu... mà vào biển lớn. Giả sử gió băo thổi giạt thuyền bè của họ trôi tấp nơi nước quỷ La-sát. Trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thời các người đó đều thoát khỏi nạn quỷ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán Thế Âm.

Đoạn văn này là nói về nạn quỷ La-sát, nạn thứ ba trong bảy nạn, cũng có thể gọi là nạn gió băo. Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh v́ t́m vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mă năo, san hô, hổ phách, trân châu, các thứ báuẨ

Con người trong thế gian tham muốn những thứ này v́ cho đó là quư báu. Kỳ thật nó là vật ở ngoài thân. Quư vị không rơ vật báu của Tự-tánh ḿnh mà lại đi tham đắm của báu bên ngoài để được những thứ không có tác dụng ǵ cả, không quan hệ ǵ với Tự-tánh của ḿnh. Nhưng đa số người lại thích t́m vàng. Quốc gia nào cũng đều thích vàng. V́ mọi người đều cho nó là một thứ báu vật hy hữu nên ngày đêm nghĩ cách kiếm t́m, thậm chí các quốc gia giao chiến với nhau cũng là v́ thứ vàng này. Tại sao người ta lại quư vàng như thế? V́ nó rất ít, v́ ít cho nên trở thành quư. Nếu như vàng nhiều như đất th́ người ta cũng không coi nó có giá trị là bao.

Ấy là: "Vật do ít thành ra quư!"

Bởi v́ ít cho nên ai cũng thích, thậm chí nằm mơ cũng thấy vàng, có người đến Phi châu để đào vàng, có người đến Mỹ châu để đào vàng. Trước đây nghe nói ở Cựu Kim Sơn có ráát nhiều vàng, cho nên có nhiều người đổ dồn đến nước Mỹ, nhất là người Trung Hoa đến Mỹ cốt để đào vàng. Đào vàng ở nước Mỹ xong lại chạy đến nước Úc. Nước Mỹ có Cựu Kim Sơn, nước Úc có Tân Kim Sơn. Những người chuyên môn đăi vàng, v́ muốn đến nước Mỹ để t́m vàng mà bị chôn thân trong biển không ít. Tôi nghĩ rằng số người chết rất nhiều, v́ trước đây sự giao thông không tiện lợi như bây giờ, tin tức loan truyền cũng không được thông suốt, cho nên số người chết cũng không biết là bao nhiêu. Những người ấy muốn đi t́m vàng trên đường th́ gặp gió băo, đang đi trên biển lại bị gió băo thổi mạnh, người và thuyền đều ch́m cả. Vàng là vật quư báu bậc nhất, bạc được kể bậc nh́.

Ngoài ra c̣n có lưu ly, mà người Trung Hoa gọi là Thanh sắc bảo, bửu bối màu xanh. Xa cừ là một loại đá quư, ở trên mặt có lộ ra những đường vân giống như vết xe lăn trên bùn, cứ cách một đường trắng lại có một đường sáng ánh giống như một đường rănh, cho nên gọi là Xa cừ. Tuy nh́n thấy h́nh như có đường rănh mà dùng tay sờ lên mặt đá lại bằng phẳng trơn láng, không có dấu vết. Đá này là một trong bảy loạĩĩi báu vật. Mă năo là một thứ ngọc đá. Thứ đá này giống như óc ngựa, trên màu đá sắc trắng lộ ra từng đường từng đường vân li ti màu đỏ giống như gân máu, cho nên gọi là Mă năo. San hô là loại cây san hô dưới biển, có cây cao tới một thước, tôi đă thấy có cây cao hơn ba tấc. San hô là một loại hóa thạch, do loài trùng ở dưới nước biến thành thực vật có h́nh dạng giống như cây. Chất liệu của nó giống như ngọc đá cho nên thật là quư giá.

Ở Trung Hoa có một người nhà giàu tên là Thạch Sùng, ông ta rất thích so sánh sự giàu sang với người khác. Một hôm ông ta đến dự yến tiệc ở nhà một vị Hoàng thân bà con với Vua. Lúc ấy Vua ban cho vị Hoàng thân một cây san hô cao độ hơn sáu tấc. V́ là của Vua ban nên tự nhiên phải là quư trọng đặc biệt. Vị Hoàng thân mời Thạch Sùng đến nhà ḿnh, sau bữa cơm, mới đưa cây san hô ra khoe. Nào ngờ Thạch Sùng lấy tay bẻ vụn cây ấy, khiến cho vị Hoàng thân lo sợ quá, mới nói: "Cây này là của Hoàng thượng ban cho, sao ông lại bẻ gẫy đến nỗi không c̣n giá trị ǵ nữa thế!"

Thạch Sùng nói: "Ngài đừng lo! Tôi sẽ đổi cho ngài một cây san hô khác, ngày mai ngài đến nhà tôi tùy ư lựa chọn, thích cây nào tôi sẽ biếu ngài cây đó."

Hôm sau vị Hoàng thân đến nhà Thạch Sùng để xem thử, th́ thấy lồ lộ ở pḥng khách một dăy san hô cao một thước! Hoàng thân nh́n thấy nghĩ bụng: "A! Ḿnh dù là Hoàng thân, nhưng giàu chưa bằng một góc anh Thạch Sùng này!" Nghĩ rồi bèn lựa một cây san hô vừa ư đem về. Về sau, Thạch Sùng rốt cuộc nhân v́ quá giàu mà phải chết. Ấy gọi là "chết v́ của." Người ta tại sao mà chết? Chính là v́ chữ tài ấy! "Chim chết v́ ăn, người chết v́ của." Chim tại sao mà chết? Chính v́ chữ thực mà ra. Chúng sanh điên đảo như vậy đấy!

Hổ phách là một loại khoáng chất màu vàng thẫm, trong suốt, do nhựa cây tùng biến thành. Trân châu (ngọc trai) là vật thể h́nh tṛn sản xuất từ con trai, lung linh trong suốt, sáng lấp lánh thật đáng yêu.

Mà vào biển lớn. Người ta v́ muốn t́m của báu mà vào biển cả để kiếm t́m, v́ ở đó có rất nhiều của báu. Giả sử gió băo, gió băo là hắc phong, v́ gió màu đen. Thứ gió màu đen này ai cũng có. Tại sao gọi là gió màu đen? V́ khi nổi nó lên gương mặt biến thành xạm đen. Người ta v́ tức giận nên mới có gió đen, nếu không tức giận th́ gió đen không nổi lên.

Biển cả này là ǵ? Là tánh hải - biển Tự tánh của chúng ta! Gió đen ví như vô minh của chúng sanh. Thứ vô minh này c̣n gọi là phiền năo. Nếu quư vị sanh phiền năo, là có gió đen đấy; nếu không c̣n phiền năo th́ biển cả tự tánh của quư vị sẽ gió lặng sóng êm. Thế nào mới có thể t́m được của báu? Phải vào ngay trong tự tánh của quư vị đào bới của báu của chính ḿnh. Đương khi quư vị đào bới của báu của chính ḿnh ấy th́ có thể gặp phải ma chướng. Tại sao có ma chướng? Do v́ đức hạnh của ḿnh không đủ, đức tánh không đủ, đạo đức không đủ. V́ không có gây tạo công đức nên đức hạnh chưa tṛn, v́ đức hạnh không tṛn đủ nên mới có gió đen, mới bị ma chướng. Nếu đức quư vị lớn th́ gió đen sẽ hóa ngay. Hóa thành cái ǵ? Hóa thành mây lành, điềm lành. Ngạn ngữ có câu: Đạo cao rồng cọp nể, đức trọng quỷ thần theo là ǵ? - Đạo cao thần cọp nể nghĩa là người có đạo hạnh cao th́ rồng gặp cũng phải khoanh ḿnh lại không nhúc nhích. Rồng xưa nay là một loại rất lợi hại, có thể làm kinh thiên động địa, dời non lấp biển như không, thế lực rất là to lớn. Nhưng nếu quư vị có đạo lực th́ tuy rồng có thần thông to lớn cũng không dám thị uy trước mặt quư vị, mà ngoan ngoăn khoanh tṛn lại. C̣n loài cọp dù hung hăn cách mấy, nếu quư vị không có tâm sân hận th́ nó lại biến thành một loại chó mèo thuần dưỡng, khi gặp quư vị sẽ lắc đầu vẫy đuôi mừng rỡ mà không dám ăn thịt. Nhưng quư vị phải có đạo hạnh mới được cảnh giới như vậy, nếu không th́ rồng không khoanh, cọp không quỳ đâu!

Đức trọng quỷ thần theo: Một khi đức hạnh quư vị đă đủ, đă tṛn đầy, th́ quỷ thần gặp quư vị sẽ cung kính tôn trọng, cúi đầu đảnh lễ. Cho nên điều quan trọng nhất là đôn phẩm lập đức.

Thổi giạt thuyền bè của họ trôi tấp nơi nước quỷ La-sát. Quỷ La-sát là loài quỷ ăn tinh khí của người, và đều là phái nữ, chuyên môn ăn tinh khí người ta. Nếu thuyền bị gió băo trôi giạt vào nước quỷ La-sát, chỉ cần trên thuyền có một người phát tâm xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm th́ tất cả người trên thuyền, cho đến trăm ngàn vạn ức chúng sanh, đều được thoát nạn La-sát. Do nhân duyên đó mà tên vị Bồ-tát này là Quán Thế Âm.

Đạo đức là điều mọi người đều nên phải chú trọng. Con người sở dĩ khác với cầm thú là do có đạo đức. Nếu không trọng đạo đức, không biết đạo đức, th́ có khác chi cầm thú? Hơn nữa, đạo đức cần phải hành, phải có biểu hiện thực tiển; nếu không th́ căn bản c̣n ǵ để nói.

Tôi có một người bạn rất thân ở Đông Bắc (Măn Châu). Tại sao anh ấy lại trở thành bạn thân? V́ anh cùng tôi là bạn đồng tu, đồng hạnh. Lúc tôi c̣n tại gia từng để tang thủ hiếu bên cạnh mộ mẹ, anh ta cũng có thủ hiếu bên mộ phần cha mẹ anh. Điểm khác biệt là lúc c̣n tại gia anh ta là thổ phỉ. Trước khi thủ hiếu để tang mẹ anh từng là đạo tặc, đánh cướp khắp nơi, tống tiền người khác. Trong một chuyến "ăn hàng" thất bại, anh bị người đánh trọng thương. Sau đó, về dưỡng thương hơn nửa năm trời mà vẫn chưa lành, lúc đó anh mới tỉnh ngộ, nghĩ rằng:

-"Lâu nay làm nhiều việc sai quấy nên vết thương mới lâu lành như thế này."

Anh bèn hạ quyết tâm phát nguyện: "Nếu vết thương tôi được lành th́ từ nay về sau tôi không làm thổ phỉ nữa."

Anh lại c̣n nguyện đích thân đến ở bên phần mộ cha mẹ để thủ hiếu. Sau khi phát nguyện, quả nhiên không đầy mấy ngày vết thương tự nhiên kéo da non. Dĩ nhiên anh vẫn tiếp tục thủ hiếu bên mộ phần. Trong thời gian anh để tang có rất nhiều hiện tượng kỳ diệu phát sanh. Đơn cử một việc "Cắt thịt tế trời cầu trời tạnh" cho mọi người.

Trong thời gian anh thủ hiếu, liên tục mấy tháng trời mưa tầm tă, không ngày nào tạnh. Anh ngẫm nghĩ: "Trời mưa như thế này th́ ngũ cốc của mọi người sẽ ngập và chết hết!"

Nghĩ thế, anh quyết tâm cầu tạnh mưa giúp cho mọi người, mới ngửa mặt lên trời phát thệ: "Nếu nội trong ba ngày trời tạnh th́ tôi sẽ cắt thịt trên người để cúng Phật, cúng trời."

Anh vừa phát nguyện xong th́, kỳ lạ thay, không đầy ba ngày trời tạnh mưa hẳn. Anh giữ lời nguyện bằng cách đứng ở trước bàn Phật, cầm dao cắt một miếng thịt độ hai lượng trên cánh tay ḿnh. Sau khi cắt thịt xong, v́ đau nhức quá anh ngất đi. Khi vừa tỉnh lại, chợt có quan huyện đi tới, nh́n thấy máu rơi đầy đất, tự nghĩ:

-"Người này cắt thịt ḿnh để làm ǵ ḱa? Chắc đang nổi cơn điên." Ông ta bước tới hỏi mới biết anh ta cắt thịt để cúng Phật cúng trời v́ cầu tạnh mưa cho mọi người.

Quan huyện nghe xong hết lời khen ngợi: "Anh thật là người quá tốt!" Và đối với anh ta có một ấn tượng thật tốt. Về sau không biết từ đâu bay đến một con chim có tiếng kêu rất đặc biệt.

Nó kêu: "Làm nhiều phước, làm nhiều phước, tốt lắm." Suốt ngày nó chỉ kêu như thế, ư bảo hăy làm nhiều việc lành đi. Làm việc thiện càng nhiều càng tốt.

Cho nên làm việc ǵ tôi cũng không sợ khổ, cả ngày làm việc không rảnh để xem kinh mà tối lại c̣n giảng kinh cho quư vị nghe nữa sao? Đó là v́ muốn bố thí thêm một ít, đem pháp ra bố thí. Tại Mỹ, có thể nói là "pháp" quá ít! Nhân đó tôi phát nguyện bố thí Phật-pháp cho quư vị, dù cực khổ thân tôi cũng không dừng nghỉ hay bỏ cuộc.

Nếu lại có người sắp sửa bị hại, xưng danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm, th́ dao gậy của người cầm liền găy từng đoạn mà đặng thoát khỏi.

Đoạn văn kinh này là nói về nạn dao gậy. Nếu có người sắp sửa bị hại, mà có thể xưng danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm th́ dao gậy của người cầm, người cầm là nói về người muốn giết hại, cầm dao bén và gậy gộc trong tay, sắp sửa muốn ra tay. Liền găy từng đoạn. Đúng lúc quư vị niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, tự nhiên cổ của quư vị cứng hơn dao thép của người kia. Xưa nay dao bao giờ cũng cứng hơn cổ, nhưng bây giờ lúc dao chém đến cổ, tự nhiên bị găy vụn. Nếu không tin, quư vị cứ thử xem cổ ḿnh có cứng bằng dao không? Con dao có bị găy từng khúc không? Đó là nhờ sức đại oai thần của Bồ Tát Quán Thế Âm nên mới khiến cho cổ cứng như đá tảng đến nỗi dao của người ấy tự nhiên bị găy vụn. Mà đặng thoát khỏi. Nhờ đó mà được giải thoát nạn dao gậy. V́ lẽ ǵ được thoát khỏi? Do v́ người ấy phát tâm niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Có người hoài nghi: "Niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm mà được linh cảm như thế sao?" Chẳng những được như thế mà c̣n linh cảm hơn thế nữa! Chỉ cần quư vị thành tâm tin tưởng, thành tâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm th́ sẽ được sự cảm ứng theo ư mong cầu.

Nếu quỷ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cơi tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe người xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thời những ác quỷ ấy c̣n không dám lấy mắt dữ mà nh́n người huống lại làm hại đặng. Giả sử lại có người, hoặc có tội hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thảy đều đứt rả, liền được giải thoát.

Đoạn kinh này nói về việc giải trừ nạn quỷ Dạ-xoa, La-sát và nạn gông cùm xiềng xích. Nếu quỷ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cơi tam thiên đại thiên. Sao gọi là cơi nước tam thiên đại thiên? Nhân v́ ba ngàn (thiên) nên gọi là cơi nước tam thiên đại thiên. Thế giới chúng ta ở đây gồm có một mặt trời, một mặt trăng, một núi Tu Di, một tứ thiên hạ. Một tứ thiên hạ gồm bốn châu lớn: Nam Thiệm Bộ châu, Bắc Câu Lô châu, Tây Ngưu Hóa châu và Đông Thắng Thần châu. Bốn bộ châu lớn này thành một tứ thiên hạ. "Một" đây là chỉ một núi Tu Di, một mặt trời, một mặt trăng và bốn châu. Một ngàn núi Tu Di, một ngàn mặt trời mặt trăng, một ngàn tứ thiên hạ, gọi là một tiểu thiên thế giới; một ngàn tiểu thiên thế giới thành một trung thiên thế giới; một ngàn trung thiên thế giới mới tính là một đại thiên thế giới. V́ có ba chữ ngàn nên gọi là Tam thiên (ba ngàn) đại thiên thế giới.

Nếu trong Tam thiên đại thiên thế giới đầy dẫy cả quỷ Dạ-xoa cùng La-sát. Quỷ Dạ-xoa bao gồm: Phi hành dạ-xoa, Địa hành dạ-xoa và Không hành dạ-xoa. Quỷ Dạ-xoa chạy rất nhanh, hỏa tiễn bây giờ cũng chạy không kịp tốc độ của nó, v́ thế nó c̣n có tên là Tốc tật quỷ hay Tiệp tật quỷ. La-sát là quỷ ăn tinh khí, nó chuyên môn ăn tinh khí của người. Muốn đến hại người. Loại quỷ Dạ-xoa, La-sát này chuyên môn hại người, đến đâu cũng t́m cách quấy rầy người. Như quư vị muốn phát tâm Bồ-đề, chúng nhất định không bao giờ thích, cố ư gây rắc rối cho quư vị, nghĩ ra mọi cách ngăn cản khiến quư vị không thể tu hành được rồi thối thất đạo tâm. Từ trước quư vị đă phát tâm Bồ-đề một cách mạnh mẽ, nhưng nó lại lẻn vào thân tâm quư vị làm cho quư vị tự nhiên khởi lên vọng tưởng: "Tu hành làm chi! Học Phật-pháp để làm ǵ! Thôi đừng nên học Phật-pháp nữa! Đi chỗ khác chơi, mọi việc đều tự do theo ư ḿnh, thích nhảy đầm th́ nhảy, thích nghe âm nhạc th́ nghe. C̣n học Phật ư! Cái này không được làm, cái kia không được làm, có biết bao cái không được làm! Lại không được xem hát, không được uống rượu, không được hút thuốc nữa, cả khối việc phải kiêng cử! Phật-pháp quả là càng học càng rắc rối!" Ai có ư nghĩ đó tức là bị quỷ Dạ-xoa, La-sát đến xúi bẫy đó. Có người muốn xuất gia. Nó xui vị ấy nghĩ: "A, xuất gia cực lắm! Cả ngày làm việc quần quật, lại ăn không ngon, mặc không đẹp, cực khổ quá mức! Đi tu để làm ǵ?" Nghĩ thế rồi thối tâm đi. Lại có vị muốn làm Tỳ-kheo-ni, quỷ Dạ-xoa, La-sát sẽ đến giục vị ấy nghĩ: "Ối chào! Nên đi lấy chồng đi! Lấy chồng mỗi ngày có chồng bầu bạn, vừa ḷng thích ư hơn." Làm cho quư vị đừng phát tâm Bồ-đề nữa, chính là công việc của quỷ Dạ-xoa La-sát đấy. Chúng chuyên môn làm tổn hại đạo tâm Bồ-đề, phá hoại việc tu hành của người. V́ thế nói: "Muốn đến hại người."

Nghe người xưng danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm. Cho dù có rất nhiều quỷ Dạ-xoa, La-sát muốn đến làm hại, gây phiền phức cho người. Nhưng một khi chúng nghe quư vị niệm "Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát" th́ những ác quỷ ấy c̣n không dám lấy mắt dữ để nh́n. Một khi quư vị niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, tự nhiên hào quang tỏa sáng, bọn quỷ ấy muốn nh́n quư vị cũng không nh́n thấy được. V́ chúng thấy quư vị có ánh sáng chói ḷa như đèn điện, mở mắt không ra. Cho nên nói là: C̣n không thể lấy mắt dữ tợn để nh́n. Huống lại làm hại đặng. Cả đến mắt cũng không thể mở th́ làm sao gia hại được? Tự nhiên nó phải chạy xa thôi. V́ thế quư vị phải luôn luôn niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm th́ sẽ được Ngài bảo hộ cho.

Giả sử lại có người, là giả sử c̣n có một người. Hoặc có tội hoặc không tội. Không luận là có tội hay không. Bị gông cùm xiềng xích trói buộc thân ḿnh. Người có tội tất nhiên bị chính phủ bắt giữ, bị c̣ng tay, chân mang gông. Người "có tội" là chỉ người phạm tội; c̣n người "không tội" là chỉ người bị oan uổng, bị vu cáo, bản thân không phạm phải tội lỗi mà bị chính phủ bắt giữ cầm tù trong ngục, tay mang c̣ng, chân mang gông. Gông cùm xiềng xích là những h́nh cụ xử phạt mà tội nhân phải mang, nó dùng để trói buộc người. Nếu xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu ngay lúc đó người ấy có thể xưng niệm "Nam-mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát." Th́ thảy đều đứt ĺa. Những thứ h́nh cụ gông cùm xiềng xích này bèn tự nhiên bị găy đứt. Liền được giải thoát. Tức thời được giải thoát ngay v́ c̣ng tự động đứt, gông tự nhiên mở.

Nói tóm lại, bất cứ h́nh cụ nào đang ở trên thân đều tự nhiên rơi xuống. Việc này tôi đă chứng kiến rất nhiều. Có lần đó, tôi ở chùa Nam Hoa, vào thời kỳ Nhật Bản xâm lược Trung Quốc, tôi gặp một vị Sư bị quân Nhật bắt giam vào ngục, tay chân đều bị xiềng xích cả. Vị Sư ấy ở trong ngục suốt ngày đều niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm miên mật không dứt. Vào một buổi chiều, bỗng nhiên những gông cùm trên thân Sư đều bị găy đứt, cửa ngục cũng tự động mở ra nên trốn thoát được.

Nếu kẻ oán tặc đầy trong cơi nước tam thiên đại thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo hàng quư báu đi qua nơi đường hiểm trở. Trong đó có một người xướng rằng: "Các thiện nam tử! Chớ nên sợ hăi, các ông nên nhất tâm xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, vị Bồ-tát đó hay ban cho chúng sanh niềm không lo sợ. Các ông nếu xưng danh hiệu Ngài th́ sẽ đặng thoát khỏi oán tặc này."

Các người buôn nghe rồi, đều cất tiếng niệm: "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát," v́ xưng niệm danh hiệu Bồ-tát mà được giải thoát.

Nếu kẻ oán tặc đầy trong cơi nước tam thiên đại thiên. Giả sử bất cứ chỗ nào trong cơi nước tam thiên đại thiên này đều có oán tặc. "Oán tặc" là ngày xưa họ có oan trái với quư vị nên đời này làm giặc để cướp của cải của quư vị. Có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo hàng hóa đi qua nơi hiểm trở. Có một người thương chủ dẫn theo rất nhiều người lái buôn, lại có mang theo rất nhiều vật quư giá trị phi thường, đi qua một nơi có nhiều giặc cướp thổ phỉ. Trong đó có một người xướng rằng: "Các thiện nam tử! Chớ nên sợ hăi, các ông nên nhất tâm xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, vị Bồ-tát đó hay ban cho chúng sanh niềm không lo sợ. Các ông nếu xưng danh hiệu Ngài th́ sẽ đặng thoát khỏi oán tặc này." Nhưng trong số những người lái buôn đó có một người đề nghị với mọi người như thế này: "Thưa quư ông, quư anh em, quư bạn! Các vị đừng nên sợ hăi. Mọi người chúng ta nên nhất tâm chuyên niệm 'Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát' đi, v́ vị Bồ-tát này hay dùng tinh thần vô úy bảo hộ cho tất cả chúng sanh. Chúng ta nếu nhất tâm niệm danh hiệu Ngài th́ tuy hiện tại chúng ta gặp bọn oán tặc, chúng ta tự nhiên sẽ được thoát nạn, sẽ không phải bị chúng cướp giựt hay giết hại." Các người buôn nghe rồi, đều cất tiếng niệm: "Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát." V́ xưng niệm danh hiệu Bồ-tát mà được giải thoát. Những người lái buôn kia nghe nói rồi đều đồng loạt cất tiếng niệm: "Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát." Nhờ niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm nên được thoát khỏi nạn oán tặc, không bị thổ phỉ cướp giựt. Nhơn v́ có sự linh cảm không thể nghĩ bàn ấy nên mỗi người đều phải thành tâm thật ư xưng niệm danh hiệu Ngài, chớ có hoài nghi.

Này Vô Tận Ư! Đại Bồ Tát Quán Thế Âm có sức oai thần cao lớn như thế.

Đức Phật Thích-ca Mâu-ni sau khi giảng giải lư lẽ như trên xong, lại gọi tiếp: "Này Vô Tận Ư! Sức oai thần của Bồ Tát Quán Thế Âm thật là rộng lớn cao tột!" Nói măi không rồi, giảng hoài không hết.

Nếu có chúng sanh nào nhiều ḷng dâm dục thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền đặng ly dục.

Giả như có những chúng sanh nào, ḷng đặc biệt dâm dục quá nhiều. Có người vừa học Phật vừa sanh tâm dâm dục, học Phật-pháp càng nhiều, tâm dâm dục càng phát triển mạnh. Cả ngày từ sáng đến tối khởi lên vọng tưởng dâm dục cuồn cuộn như gịng nước chảy tràn. Đó là một thứ tư tưởng, hành vi cùng biểu hiện rất xấu xa! Vậy th́ phải làm sao? Quư vị đừng buồn, cũng đừng lo! Chỉ cần thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm là được. Nhưng chỉ đơn thuần tụng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm vẫn chưa đủ, mà phải đem ḷng cung kính chân thành đảnh lễ Bồ Tát Quán Thế Âm thật nhiều nữa.

Đảnh lễ Phật và Bồ-tát là một biểu hiện rất cung kính. Nhưng có một số người không biết lư lẽ này, nhất là những người ngoại đạo, nh́n thấy người ta lạy Phật rồi phê b́nh một cách mù quáng rằng: "Đó đều là ngẫu tượng, là thứ gỗ khắc hay tô đắp mà thành, lạy làm chi?" Tại v́ chính ḿnh không có huệ nhăn, không thấy được cảnh giới Phật quang chiếu khắp mới sanh ra đại ngă mạn như thế, thậm chí coi ḿnh c̣n hơn Phật cho nên mới nói cần ǵ phải lạy Phật! Đó chính là kẻ ngu si mắc phải sai lầm quá lớn! Nếu thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm th́ tâm dâm dục của quư vị tự nhiên ĺa khỏi. Có người nói: "Thật là bậy quá! Tôi thích dâm dục mà bây giờ không có nữa, phải làm sao đây?" Nếu quư vị thích có, cũng không cần phải lo, rồi sẽ có. Nếu quư vị không thích có rồi sẽ được không có.

Hoặc người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, liền đặng ĺa ḷng giận.

Giận hờn là ǵ? Chính là nổi nóng, chính là phiền năo, cũng là vô minh. Giận hờn lợi hại giống như lửa vậy.

Ấy là: "Một đốm lửa giận, có thể đốt tiêu cả rừng công đức."

Người xưa cũng nói: "Ngàn ngày gánh củi một mồi lửa."

Ư nói quư vị đốn củi một ngàn ngày chỉ cần một đốm lửa châm vào có thể đốt cháy sạch. Đó là h́nh dung b́nh thường chúng ta tích tạo bao công đức thiện nghiệp, dù tu hành bao lâu mà một khi quư vị nổi cáu lên, phừng lửa vô minh, th́ bao nhiêu công đức tích tụ được đều đốt sạch cả. Hạng người nào thích nổi lửa vô minh thế? Chính là A-tu-la đấy. Mỗi cá nhân đều có một xu hướng riêng. Người thuộc Phật đạo, tính cách đa số là từ bi; người thuộc Tiên đạo th́ ưa thích thanh nhàn, thuộc Nhân đạo th́ đều có nhân duyên với mọi người; thuộc Quỷ đạo th́ tánh hay giảo hoạt, không muốn thua thiệt, là người không thành thật, lén lén lút lút, và cũng giống như quỷ La-sát đă nói ở trước, đều có ư "muốn đến hại người." Người thuộc Súc sanh đạo th́ nặng về tham dục, bất luận thứ ǵ họ đều không sợ nhiều, càng nhiều càng tốt, tham măi không chán. Người thuộc Tu-la đạo th́ hay phát cáu, những người này hễ động đến th́ nổi giận ngay, cáu gắt om ṣm. Những người như thế th́ phải làm sao? Có cách ǵ có thể sửa đổi được? Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đă đem pháp môn này dạy bảo cho quư vị kỹ càng, đó là phải thường niệm: "Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát." Hơn nữa, phải tiếp tục luôn luôn không gián đoạn.

"Thường" nghĩa là không dứt. Mỗi khi lên chùa, gặp chỗ nào có thờ Phật, hoặc thờ Bồ Tát Quán Thế Âm th́ phải cung kính cúi đầu đảnh lễ. Cũng không nên hôm nay lạy, rồi ngày mai không lạy; sáng nay đảnh lễ, chiều tối lại không đảnh lễ. Nếu chịu kiền thành hằng thường kính lễ chư Phật Bồ-tát, lâu dần rồi bịnh nổi cáu ấy sẽ không c̣n nữa, mà chính ḿnh cũng không biết v́ sao? Nếu quư vị không tin, tôi sẽ đem kinh nghiệm của chính ḿnh nói cho quư vị nghe. Tôi trước kia là người rất dễ nổi giận, hễ nói đánh là đánh, nói mắng là mắng ngay. Năm tôi 12, 13 tuổi rất thích đánh nhau. Bất luận là người lớn bao nhiêu, đến với tôi th́ phải nghe tôi chỉ huy, nếu không nghe tôi chỉ huy th́ tôi đánh! Dù chết cũng phải đánh, đánh đến chừng nào chịu hàng phục mới thôi. Thế gọi là ǵ? Đó chính là một thứ hành động của A-tu-la. Về sau tôi học Phật, mới biết thói giận bướng như thế là không tốt, phải cải hóa tự tân mới được, nên thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Cho nên bây giờ làm sư phụ, tôi phải tu hạnh nhẫn nhục. Có lúc đồ đệ đến hiếp đáp, trước hết tôi nổi cáu, nhưng rồi nhỏ nhẹ ôn ḥa, nhẫn nhục cho đến khi người ấy từ từ hiểu ra, tự nhận biết lỗi ḿnh. V́ trước đây tôi chọc người khác giận nên bây giờ tôi bị đệ tử đến hiếp đáp. Có thể nói đây là một thứ quả báo! Có người hỏi: "Đồ đệ nào dám hiếp đáp thầy vậy?" Người nào hiếp đáp tôi th́ người đó tự biết.

Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, liền đặng ĺa ngu si.

Trước đă nói về tham và sân, bây giờ nói về si. Tham sân si được gọi là ba độc. Ba độc này làm hại Phật tánh của chúng ta hôn mê như say ngủ. Tại sao chúng ta chưa giác ngộ? Cả đời sống say chết mộng? Đó là bởi ba độc này. Tham là tham dục. Xưa nay tham dục này tác hại rất lớn đối với tự tánh, nhưng có một số người lại cho nó là một thứ hưởng thụ tối cao, cho nên đă gây ra biết bao hành vi điên đảo, đem tự tánh của ḿnh vùi chôn dưới lớp trần cấu. Thứ trần cấu này càng ngày càng nhiều, v́ thế mà ánh sáng Phật tánh của quư vị không hiển lộ được. Đó là sự tệ hại của tham độc. Tác hại của sân độc cũng rất lớn không kém ǵ tham độc.

C̣n thế nào là si độc? Si là ngu si. Ngu si mà chẳng biết ḿnh ngu si, đó là ngu si đấy. Có kẻ cho ḿnh là người rất thông minh, có trí huệ; nhưng trên thực tế, nếu quư vị hỏi anh ta: "Anh từ đâu đến đây? Tương lai anh sẽ về đâu?" th́ anh ta không biết. Đến không biết ḿnh từ đâu đến, đi không biết ḿnh đi về đâu, quư vị thử nghĩ xem người như thế có phải là thông minh không? Nhưng chính anh ta lại không thừa nhận ḿnh là người ngu si. Ấy là:

Việc nhỏ lợi danh người người thích,

Việc lớn sanh tử chẳng ai lo.

Trên thế gian này, việc t́m cầu danh lợi tuy là nhỏ, nhưng người ta suốt ngày quần quật bôn ba, thậm chí hại bạn, giết người, phóng hỏa đều là v́ lợi cả. Nếu không v́ "lợi" cũng v́ "danh"! Trên thế gian này, số quốc gia cùng con người không đếm kể hết, song tựu trung lại có hai hạng người: Một là cầu danh, hai là cầu lợi. Danh lợi nó chi phối, làm điên điên đảo đảo biết bao nhiêu người vẫn chưa giác ngộ được. Từ khi sanh ra đến lúc chết, đều ở trong t́nh trạng bon chen, giành giật, có người ham làm quan, có người ham phát tài, có người ham được con cái, cho đến những ham muốn nghiêng về khoái lạc. Khát vọng một đời, chờ đợi mọi thứ khoái lạc, nhưng mà chưa hưởng thụ được bao nhiêu rồi phải chết. Chết rồi đi về đâu cũng không biết! Lúc sống đều tự cho ḿnh là phi thường, cảm thấy chính ḿnh thật là không ai bằng.

-"Ta là người có trí huệ thông minh nhất. Lúc c̣n đi học, ta mỗi năm đều được hạng nhất, bất cứ làm việc ǵ ta cũng đều dẫn đầu, trên người một bậc."

Tự cho ḿnh là thông minh khác thường, mà kỳ thật cả bản lai diện mục của ḿnh cũng không nhận biết! Sự thông minh như thế đều là giả cả, đó là thứ "thông minh giả." Người thật sự có thông minh th́ không cảm thấy chính ḿnh có trí huệ. Vậy th́ thấy ḿnh là ngu si sao? Cũng không tự thấy ḿnh là ngu si, lại càng không tự thấy ḿnh có trí huệ. Tuy rằng, ngoài mặt xem ra cũng cùng một thân thể h́nh trạng như mọi người, nhưng mà những tư tưởng quan niệm của họ thật thấu suốt rơ ràng. Rơ ràng là thế nào? Thấu suốt rơ ràng rằng tất cả đều như huyễn như hóa. Biết rằng tất cả mọi thứ đều là giả, họ không tham đắm vinh hoa phú quư trong mộng, ham giành sắc đẹp, tranh nhân ngă, tranh thị phi, tranh đứng đầu, tranh danh đoạt lợi, mà hiểu rơ tất cả đều là vô thường. V́ thế Kinh Kim Cang nói:

"Tất cả pháp hữu vi

Như chiêm bao, bóng nước,

Như điện chớp, mù sương,

Hăy quán cho thật tường."

Tất cả pháp hữu vi như chiêm bao, bóng nước. Pháp hữu vi là ǵ? Tất cả những ǵ có h́nh tướng, có thể nh́n thấy, đều là pháp hữu vi. Nó giống như chiêm bao, bọt nước. Bọt nước trong biển cả, quư vị cho là thật hay giả? Nói là thật, th́ sao nó lại hóa ra không có? Nói là giả, th́ sao lại có cái bọt nước? Tuy có bọt nước, nhưng không phải thật tại, không có thể tánh chơn thật. Bóng, cũng là hư ảo. Lại giống như mù sương; sáng sớm có mù sương, nhưng khi mặt trời mọc lên nó lại tan biến hết. Điện, cũng là có; nhưng lửa điện, lửa đá chớp mắt tan đi, cũng không phải là chơn thật. Nếu có thể quán tưởng tất cả sự vật như thế th́ c̣n có ǵ phải chấp trước? Không có chấp trước mới là thật hiểu rơ. Bấy giờ, quư vị sẽ không tưởng Đông tưởng Tây, càng không tưởng Nam tưởng Bắc, tất cả vọng tưởng trần lao đều bị vất bỏ. Bỏ hết những vọng tưởng trần lao rồi, lúc ấy quư vị không muốn thành Phật cũng không được, muốn không có trí huệ cũng không được, sẽ tự nhiên có thôi.

Cho nên đương lúc tự ḿnh không có trí huệ, không nên cho là ḿnh có trí huệ. Trí huệ không phải t́m cầu ở bên ngoài mà có. Không nên sanh tâm kiêu ngạo, cho là:

-"Giữa mọi người, ta là kẻ thông minh nhất, đẹp đẽ nhất, kiệt xuất đối với mọi người, siêu quần bạt tụy, trên tất cả."

Nếu quư vị có tư tưởng này là quư vị c̣n chấp tướng. "Tướng" vốn là cái đăy da hôi, nó như là chiêm bao, bóng nước. Quư vị suốt ngày cho nó ăn ngon mặc đẹp, hết ḷng cho nó hưởng thụ. Nhưng đến lúc nó bỏ đi, nó cũng không thèm để ư tới quư vị. Có người lại chăm chút cho đăy da hôi này, vừa hút thuốc, vừa uống rượu, vừa ăn thịt, suốt ngày lo lấp cái hố sâu không đáy này, lấp rồi lại chảy, chảy rồi lại lấp, lấp măi vẫn không đầy. Nhưng người ta cứ bỏ cũ thay mới, mới cũ thay nhau, v́ bản thân mà bận rộn, vất vả.

Tại sao mỗi ngày ăn một bữa cơm? Tại v́ sợ phiền phức cho nên ăn ít một chút để bớt đi phiền rộn. Có một số người cho rằng ăn ngon là cách hưởng thụ tốt nhất, tôi lại cho rằng đó là việc phiền rộn nhất. Giải thích như thế nào đây? Nếu ăn nhiều vào th́ bụng sẽ khó chịu. Ăn ít vào, lại sanh ra tâm tham:

-"Đồ ăn ngon như thế này, nên ăn nhiều một ít!"

Nếu đồ ăn không ngon th́ không thể sanh tâm tham. Bao tử cũng không bị khổ sở. Cho nên đó đều là những việc phiền phức. Tại sao người ta lại có những phiền phức này? Tại v́ ḿnh quá ngu si mới tham hưởng thụ, cầu giàu sang, cầu danh lợi, cầu vui sướng, các thứ ấy thảy đều là điên đảo cả. Quư vị tham cái này cái nọ, th́ kết quả sẽ ra sao? Kết cuộc rồi cũng phải chết thôi. Đến lúc chết, không đem theo được tí ǵ. Đó không phải là ngu si sao? Ngu si như thế th́ phải làm sao? Theo phương pháp của Kinh Pháp Hoa dạy: "Thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm." Sự ngu si của quư vị sẽ mất đi và trí huệ sẽ hiện lên. Ai có thể biết ḿnh ngu si? Đó mới là nhận thức đúng đắn về ḿnh. Đă có trí huệ, mới biết ḿnh là ngu si. Nếu quư vị tự ḿnh không có trí huệ th́ rốt cuộc không thể biết tự ḿnh là ngu si đâu, càng nghĩ càng xa thôi. Chính ḿnh vốn là ngu si, mà tự cho là rất thông minh th́ há không phải là trên ngu si lại thêm ngu si hay sao? Trước là một kẻ ngu si c̣n chưa đủ, lại muốn biến thành kẻ ngu si gấp đôi. Hiện tại chúng ta nếu muốn ḿnh không ngu si th́ phải thường cung kính niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Đó là một phương pháp hay nhất, linh diệu nhất. Tuyệt đối bảo đảm mầu nhiệm không thể nói được.

Nói về ngu si và trí huệ, th́ thế nào là ngu si? Thế nào là trí huệ? Tôi sẽ nói một đạo lư mà quư vị sẽ không tin đâu, đó là

-"Ngu si chính là trí huệ, trí huệ chính là ngu si."

Tại sao nói thế? Ở Tâm Kinh có câu: "Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc." Cảnh giới này nói lên chơn sắc từ chơn không mà sanh, chơn không từ chơn sắc mà có, cho nên hai mà không hai. Ngu si và trí huệ cũng cùng một đạo lư ấy. Khi quư vị biết dùng th́ đó là trí huệ, nếu không biết dùng th́ đó là ngu si. Ngu si và trí huệ không phải là hai mà phải xem quư vị có biết dùng hay không! Nếu quư vị biết dùng th́ ngu si cũng biến thành trí huệ; nếu không biết dùng th́ trí huệ biến thành ngu si. Nếu thấu triệt được đạo lư này th́ quư vị sẽ không c̣n điên đảo nữa.

Này Vô Tận Ư! Bồ Tát Quán Thế Âm có sức oai thần lớn như thế, làm lợi ích rất nhiều. Cho nên chúng sanh thường phải tâm niệm Ngài.

Nếu có người nữ nào, hoặc cầu con trai, lễ bái cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, bèn sanh được bé trai phước đức trí huệ; hoặc cầu con gái, bèn sanh bé gái có tướng đẹp đẽ, do gieo trồng gốc phước đời trước, được mọi người kính mến.

Đức Phật sau khi nói những việc trên xong, lại bảo Bồ Tát Vô Tận Ư: "Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng những có sức oai thần cứu được bảy nạn, giải được ba độc như vừa nói, mà lại c̣n có rất nhiều thần thông diệu dụng làm lợi ích cho chúng sanh, v́ thế chúng sanh phải nên thường thường tâm niệm Bồ-tát này." Điều này mọi người phải đặc biệt chú ư! Thường phải tâm niệm, là không phải chỉ niệm ở đầu môi mà tâm không niệm. Tóm lại, phải niệm niệm nhớ tưởng, luôn luôn ghi nhớ danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.

Nếu có người nữ nào hoặc cầu con trai. Giả như có một người nữ muốn cầu có một đứa con trai. Cầu như thế nào mới được như nguyện? Phải theo đúng như Phẩm Phổ Môn trong Kinh Pháp Hoa đă dạy, tức là phải lễ bái, đồng thời dùng hương hoa trái cây... cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, tự nhiên có thể được một đứa bé trai đầy đủ phước đức trí huệ. Nếu cầu con gái, th́ có thể sanh một đứa bé gái tướng mạo đoan chánh, mắt mũi tai miệng đều cân đối xinh đẹp cả. Gốc phước do trồng đời trước, được mọi người kính mến. Tại sao lại được tướng mạo đoan chánh trang nghiêm đẹp đẽ như thế? Đó đều là do đời trước, hoặc mua hương hoa, dùng các thứ trang nghiêm để cúng dường Phật, Bồ-tát. Do chứa nhóm công đức cúng Phật thuở xưa kia nên được đời đời tướng mạo đầy đủ, trang nghiêm tốt đẹp, ai thấy cũng kính mến.

Này Vô Tận Ư! Bồ Tát Quán Thế Âm có oai lực như thế! Nếu có chúng sanh cung kính lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm th́ phước đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sanh phải nên thọ tŕ danh hiệu của Ngài.

Này Vô Tận Ư! Nếu có người thọ tŕ danh hiệu của sáu mươi hai ức Hằng hà sa Bồ-tát, lại suốt đời cúng dường đồ ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc men... Ông nghĩ thế nào? Công đức của thiện nam tử, thiện nữ nhơn đó có nhiều chăng?

Vô Tận Ư đáp: "Rất nhiều, thưa Thế Tôn!"

Phật nói: "Nếu lại có người thọ tŕ danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, cho đến chỉ một lần lễ bái cúng dường, th́ phước đức của hai người này đồng nhau không khác, trong trăm ngàn muôn ức kiếp không thể cùng tận."

Đức Phật sau khi nói những việc cứu bảy nạn, giải ba độc, ứng hai điều cầu mong của Bồ Tát Quán Thế Âm vừa xong, lại nói: "Này Vô Tận Ư! Vị Bồ Tát Quán Thế Âm này có oai lực như vừa nói ở trên, nếu có chúng sanh nào hay cung kính và phát tâm lễ bái Bồ Tát Quán Thế Âm th́ phước đức của người ấy nhất định tồn tại không uổng phí. V́ lư do ấy, các chúng sanh đều phải nên thọ tŕ danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm." Nếu quư vị có thể trong tâm thường tŕ niệm Bồ Tát Quán Thế Âm th́ được phước báo công đức không thể nghĩ bàn, vi diệu khó lường.

Phật lại bảo: "Này Vô Tận Ư! Giả sử có người thọ tŕ danh hiệu của rất nhiều Bồ-tát, nhiều như số cát trong sáu mươi hai ức sông Hằng, và chẳng những chỉ niệm tụng mà c̣n suốt đời dùng hương hoa đèn quả, hoặc bốn thứ: thức ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc men... để cúng dường Tam Bảo. Ư ông như thế nào? Những thiện nam tín nữ ấy có được công đức nhiều hay không?"

Sau khi Phật nói xong, Bồ Tát Vô Tận Ư đáp: "Công đức này rất nhiều." Phật lại bảo: "Giả sử c̣n có người hay niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Chẳng cần nói người ấy có suốt đời cúng dường, mà chỉ có thể trong một thời gian rất ít lễ lạy cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, th́ phước đức của hai người này như nhau. Trong trăm ngàn muôn ức kiếp phước đức này cũng không cùng tận."

Này Vô Tận Ư! Thọ tŕ danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm được vô lượng vô biên phước đức lợi ích như thế.

Bồ Tát Vô Tận Ư bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Quán Thế Âm như thế nào đi khắp thế giới Ta-bà này? Như thế nào nói pháp cho chúng sanh nghe? Sức phương tiện của những việc đó như thế nào?"

Đức Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ư: " Nếu Ông hay thọ tŕ danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm th́ có thể được lợi ích phước đức nhiều vô số vô lượng như đă nói ở trước." Bồ Tát Vô Tận Ư nghe Phật nói thế lại bạch hỏi Phật: "Bạch Thế Tôn! Vị Bồ Tát Quán Thế Âm này làm thế nào để giáo hóa chúng sanh ở thế giới Ta Bà? Làm thế nào để thuyết pháp cho họ nghe? Nhân duyên phương tiện giáo hóa chúng sanh, sức phương tiện và những sự việc ấy như thế nào?"

Thế nào gọi là thế giới Ta-bà? "Ta-bà" là tiếng Ấn Độ (Saha), dịch là "kham nhẫn," cũng chính là kham năng nhẫn thọ, là nói thế giới này rất khổ, không dễ ǵ chịu đựng nổi.

Phật bảo Bồ Tát Vô Tận Ư: Này thiện nam tử, nếu có chúng sanh trong cơi nước nào, đáng dùng thân Phật để được độ thoát th́ Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phật nói pháp độ họ.

Đáng dùng thân Bích-chi Phật để được độ thoát th́ Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Bích-chi Phật nói pháp độ họ.

Đáng dùng thân Thanh-văn để được độ thoát th́ Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Thanh-văn nói pháp độ họ.

Đáng dùng thân Phạm vương để được độ thoát th́ Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phạm vương nói pháp độ họ.

Đáng dùng thân Đế Thích để được độ thoát th́ Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Đế Thích nói pháp độ họ.

Đáng dùng thân Tự Tại Thiên để được độ thoát th́ Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Tự Tại Thiên nói pháp độ họ.

Đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên để được độ thoát th́ Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên nói pháp độ họ.

Đức Phật nghe Bồ Tát Vô Tận Ư hỏi như thế, mới đáp: "Này thiện nam tử! Giả sử như trong các cơi nước ở ba ngàn đại thiên thế giới có chúng sanh nào đáng dùng thân Phật mới có thể độ cho họ thành Phật th́ Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ thị hiện thân Phật đến nói pháp cho chúng sanh ấy nghe."

Đến đây có người hỏi: "Bồ Tát Quán Thế Âm chỉ là Bồ-tát chứ chưa thành Phật mà sao có thể hiện thân Phật để nói pháp được! Đó chẳng phải mạo xưng là Phật sao?"

-Không phải đâu! Nhân v́ Bồ Tát Quán Thế Âm trong vô lượng kiếp về quá khứ đă thành Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh. Sau khi thành Phật, Ngài v́ không quên chúng sanh nên mới trở lại thế giới này, ẩạn giấu thân Phật mà hiện thân Bồ-tát để cứu giúp chúng sanh. Đó gọi là "ẩn lớn hiện nhỏ." La-hán là "hồi Tiểu hướng Đại;" Bồ Tát Quán Thế Âm là "hồi Đại hướng Tiểu." Ngài từ thân Phật lại "quay ngược thuyền Từ," cũng như người ta nói: "Quay xe trở lại," mục đích là để cứu vớt chúng ta là những chúng sanh đau khổ.

Cho nên Bồ Tát Quán Thế Âm tuy bề ngoài hiện thân Bồ-tát, kỳ thật bên trong ngầm chứa Phật hạnh. Ẩn bên trong là hạnh nguyện của chư Phật, hành vi của chư Phật. Đó là lư do tại sao Bồ Tát Quán Thế Âm có thể hóa hiện thân Phật để thuyết pháp cho chúng sanh, chớ không phải mạo xưng là Phật để dối gạt chúng sanh.

Tiếp đó Đức Phật lại bảo: "Đáng dùng thân Bích-chi Phật để được độ thoát, liền hiện thân Bích-chi Phật để nói pháp độ họ."

Bích-chi Phật là tiếng Phạn (Pratyekabuddha), nói đủ là "Bích-chi-ca-la," dịch là Duyên-giác. Duyên-giác lại có hai thứ: Những vị sanh vào thời có Phật ra đời th́ gọi là Duyên-giác; những vị sanh vào thời không có Phật gọi là Độc giác. Khi có Phật ra đời, do tu Thập Nhị Nhân Duyên mà ngộ đạo. Vị ấy quan sát tại sao có Vô minh? Vô minh tại sao lại có Hành? Tại sao có Thức? Có Danh sắc? Có Lục nhập? Làm sao lại có Xúc? Rồi có Thọ? Sau Thọ lại có Ái? Có Ái lại có Thủ? Nhân v́ có Hữu cũng lại có Sanh? Có Sanh rồi lại có Lăo, Tử? Cả ngày quán sát tới lui mười hai nhân duyên như vậy, biết rằng tất cả đều là Khổ, Không, Vô thường, Vô ngă, nên tất cả đều buông bỏ, và do đó mà khai ngộ. Do quán mười hai nhân duyên mà ngộ đạo nên gọi là Duyên-giác. Vào thời không có Phật, vị ấy cũng tu mười hai nhân duyên này; mùa Xuân quán thấy trăm hoa đua nở, mùa Thu vạn vật héo tàn, quán xét các trạng thái biến hóa tự nhiên nên giác ngộ được Sanh, Trụ, Dị, Diệt, Thành, Trụ, Hoại, Không; các thứ h́nh sắc thảy đều là vô thường, cũng nhân đó mà được giác ngộ, gọi là Độc-giác. Do v́ sanh ra vào thời có Phật hay không Phật mà gọi là Duyên-giác hay Độc-giác mà thôi.

Bồ Tát Quán Thế Âm nhờ có Thiên nhăn chiếu thấy, Thiên nhĩ nghe xa, biết được chúng sanh nào đáng dùng thân Bích-chi Phật để được độ thoát th́ hiện ra thân Bích-chi Phật để nói pháp Thập Nhị Nhân Duyên cho họ nghe, như là: "Anh có biết Vô minh là từ đâu mà có không? Chính là từ chỗ một niệm bất giác của anh mà có. Do một niệm bất giác, cho nên trong Như Lai Tạng Tánh của anh phát sanh ra Vô minh. Đă có Vô minh th́ sanh tiếp ra Hành, ..." Đối với chúng sanh như thế, Ngài dùng thân Bích-chi Phật để nói pháp độ họ th́ khiến cho họ khai ngộ giác đạo. Sau đó mới dạy họ phát tâm Bồ-đề, hồi Tiểu hướng Đại.

Đáng dùng thân Thanh-văn để được độ thoát, liền hiện thân Thanh-văn nói pháp độ họ. Thế nào gọi là Thanh-văn? Thanh-văn cũng là một vị La-hán, Duyên-giác cũng là một vị La-hán, thuộc về hàng Nhị thừa. Thanh-văn, th́ "Thanh" là tiếng tăm, "Văn" là nghe thấy, có nghĩa là nghe thấy lời Phật nói mà ngộ đạo. Phật nói những lời ǵ? Nói pháp Tứ đế, do nghe những lời này mà ngộ đạo, nên gọi là Thanh-văn.

Tứ đế là ǵ? Là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Đức Phật Thích-ca đầu tiên ba lần chuyển pháp luân Tứ đế cho năm vị Tỳ-kheo nghe. Bấy giờ các vị Kiều Trần Như, hăy c̣n chưa xuất gia, sau khi được Phật nói pháp cho nghe, mới xuất gia làm Tỳ-kheo. Tại vườn Nai Phật nói với họ: "Đây là Khổ có tánh bức bách, đây là Tập có tánh chiêu cảm, đây là Diệt có tánh khả chứng, đây là Đạo có tánh khả tu."

-Đây là Khổ có tánh bức bách: Là nói Khổ này có tính bức bách mạnh mẽ, khiến người chịu không nổi. Khổ có Khổ khổ, Hoại khổ, Hành khổ. Lại có tám thứ: Sanh khổ, Lăo khổ, Bịnh khổ, Tử khổ, Ái biệt ly khổ, Cầu bất đắc khổ, Oán tắng hội khổ, Ngũ ấm xí thạnh khổ. Những thứ khổ ấy bức bách con người xoay chuyển không nổi, thở không ra hơi, suốt ngày bực bội. Tấùt cả vấn đề đó đều do khổ sanh ra, cho nên nói Khổ có tánh bức bách.

-Đây là Tập có tánh chiêu cảm: Tập là chứa nhóm tích tụ. Cái ǵ tích tụ với nhau? Phiền năo tích tụ với nhau. Tại sao có phiền năo? Tại v́ có "Khổ." Trước hết có khổ, khi bị khổ áp bức chịu không nổi mới sanh ra phiền năo, phát sinh ra giận dữ. V́ thế nói phiền năo này có tánh chiêu cảm, là do chứa nhóm mà thành. Đó cũng là từ Khổ mà có Tập.

-Đây là Diệt có tánh khả chứng: Diệt là tịch diệt, tịch diệt cả vô minh phiền năo. Thứ an lạc của tịch diệt này là diệu quả của Niết-bàn, là thứ có thể chứng đắc được.

-Đây là Đạo có tánh khả tu: Thứ Đạo này mọi người đều có thể tu, không một ai nói là không thể tu được. Bất cứ người nào cũng đều có thể tu đạo, bất cứ người nào cũng đều có thể chứng được lư thể Niết-bàn. Đó là lần Chuyển pháp luân thứ nhất.

Đức Phật chỉ là hiện thân thuyết pháp giảng nói pháp Tứ đế cho năm vị Tỳ-kheo ấy nghe, tiếp theo Phật lại chuyển pháp luân lần thứ hai: "Đây là Khổ các ông nên biết, đây là Tập các ông nên đoạn, đây là Diệt các ông nên chứng, đây là Đạo các ông nên tu." Nói rằng "Khổ này không phải chỉ riêng ta thành Phật mới biết, mà các ông cũng phải biết nó là Khổ. Các ông cũng phải dứt trừ Tập đế, phải nên cầu chứng diệu quả Niết-bàn, cũng phải nên tu hành thứ Bồ-đề giác đạo này."

Đức Phật chuyển pháp luân lần thứ ba: "Đây là Khổ ta đă biết, đây là Tập ta đă đoạn, đây là Diệt ta đă chứng, đây là Đạo ta đă tu." Những Khổ này ta đă biết, Tập này ta đă dứt trừ. Ta đă biết Khổ này nên không bị Khổ làm mê. Ta đă dứt hết phiền năo, cũng không c̣n Tập đế nữa. Diệt này ta đă chứng đắc rồi, ta đă được niềm vui tịch diệt chân chánh. Đạo này ta đă tu xong."

Năm vị Tỳ-kheo ấy nghe Phật diễn nói ba lần chuyển pháp luân Tứ đế xong, tức th́ được khai ngộ. Nhân nghe tiếng Phật thuyết pháp mà ngộ đạo nên gọi là Thanh-văn. Thanh-văn và Duyên-giác gọi là Nhị-thừa, cũng gọi là Tiểu-thừa. Có Tiểu thừa cũng có Đại-thừa. Sao gọi là Đại, sao gọi là Tiểu? Thật ra không có Đại mà cũng không có Tiểu, chỉ v́ tâm chúng sanh có Đại có Tiểu mà thôi. Xưa nay tâm lượng rộng lớn khắp hư không pháp giới, nhưng phàm phu chúng ta không biết dùng Như Lai Tạng Tánh sẵn có của chính ḿnh. Có người chỉ dùng một phần nhỏ, có người dùng được phần lớn, có người dùng cả toàn bộ. Chư Phật th́ có thể dùng được toàn bộ, v́ đă phản bổn hoàn nguyên rồi. Bồ-tát có thể dùng được một phần lớn, v́ các ngài có trí huệ rộng lớn nên có thể dùng được số nhiều của báu trong gia tài Như Lai Tạng Tánh sẵn có của chính ḿnh. Sự hiểu biết của hàng Tiểu thừa rất ít cho nên dùng được ít. V́ thế nên Bồ Tát Quán Thế Âm gặp được cơ duyên người đáng dùng thân Thanh-văn để được độ thoát, th́ hiện ra thân Thanh văn đến nói pháp Tứ đế cho họ nghe.

Đáng dùng thân Phạm vương để được độ thoát, liền hiện thân Phạm vương đến nói pháp độ họ.

Phạm vương chính là Đại Phạm Thiên Vương, Hoàng đế của trời Đại Phạm. Phạm có nghĩa là thanh tịnh. Vị ấy làm vua trên trời cảm thấy rất tự tại. Bồ Tát Quán Thế Âm cũng hiện thân Đại Phạm Thiên Vương đến để nói pháp cho nghe.

Đáng dùng thân Đế Thích để được độ thoát th́ hiện thân Đế Thích đến nói pháp độ họ.

Đế Thích (Shakra), mà trong Kinh Di Đà gọi là Thích-đề-hoàn-nhơn (Shakra Devanam Indrah), trong Đạo giáo gọi là Ngọc Hoàng Đại Đế. Vị Đế Thích này không phải chỉ có một mà có rất nhiều. Chúng ta biết rằng có một cơi trời tên là Tam thập tam (hay Đao Lợi). Đế Thích của cơi trời Tam thập tam cũng chính là Thiên chúa (God) của một số người tín ngưỡng.

Trong chú Lăng Nghiêm có câu: "Nam mô Nhân-đà-ra-da." Nhân-đà-ra-da cũng là tên gọi của Thiên chúa. Những sự việc ở trên trời đều do vị Đế Thích này thống lănh và quản lư, v́ thế năng lực của vị này rộng lớn phi thường, quyền lực và thần thông cũng to lớn; nhưng vị này chỉ có thể ở trên trời, mà mạng sống của trời rồi có lúc cũng chấm dứt. Bồ Tát Quán Thế Âm thấy có vị Đế Thích nào cơ duyên đă thành thục, bấy giờ Ngài mới hóa hiện thân Đế Thích đến nói pháp cho họ nghe. Tại sao phải hóa làm thân Đế Thích để nói pháp cho họ nghe? V́ là đồng loại sẽ dễ dàng tiếp nhận sự khuyến hóa hơn. Cũng giống như nhân loại chúng ta vậy, bất luận là người ở giai cấp nào th́ đối với giai cấp đó dễ dàng kết thân hơn. Người buôn bán th́ kết thân với người buôn bán, người đi học th́ kiếm người đi học mà kết thân, người học Phật th́ kết thân với người học Phật, người cờ bạc th́ kết thân với người cờ bạc, kẻ cướp th́ kết thân với kẻ cướp. Ấy gọi là:

-"Vật cùng loại dễ hợp, người cùng việc dễ quen."

V́ những quan hệ ấy nên Bồ Tát Quán Thế Âm thường hiện ra thân đồng loại với chúng sanh, thị hiện các phương tiện khiến cho các chúng sanh ấy dễ dàng được hóa độ. Nhưng Bồ Tát Quán Thế Âm không những chỉ dùng thần thông biến hóa để hiện thân thuyết pháp và không nhất định theo tiếng kêu cứu mới ứng hóa, mà thậm chí c̣n phân thân đến cơi này để làm người, cũng tu học Phật pháp rồi mới giáo hóa vô lượng vô biên chúng sanh. Ví như đối với hạng học sĩ, Bồ Tát Quán Thế Âm hóa thân làm một vị giáo sư diễn nói Phật-pháp cho họ nghe, từ từ dẫn dụ khiến cho một số học giả lần lần có cảm t́nh hướng đến Phật-pháp, bỏ nghi thêm tin, rồi phát tâm quy y, thọ tŕ một giới, hai giới, năm giới, cho đến mười giới trọng bốn mươi tám giới khinh của Bồ-tát. Sau đó họ lại nương theo pháp môn của Bồ Tát Quán Thế Âm để tu hành, biến thành một Bồ Tát Quán Thế Âm, thế là Bồ Tát Quán Thế Âm lại có thêm một Hóa thân nữa.

Làm sao lại có được ngàn trăm ức Hóa thân? Đó chính là quư vị mô phỏng theo Ngài, học tập theo Ngài, th́ sẽ biến thành Hóa thân của Ngài đó. Cũng như nói "Pháp không định pháp," là pháp không nhất định, không nên chấp trước. Nếu quư vị chấp trước là nhất định, thử hỏi chính quư vị có nhất định là ḿnh có thể không chết không? Nếu quư vị có thể nhất định không chết th́ mọi sự việc đều có thể nhất định rồi.

Nếu quư vị nói: "Không thể được, tôi chắc chắn là phải chết!"

Thế th́ không có pháp nhất định rồi. Cho nên Phật-pháp cũng là pháp không nhất định. V́ thế, lư lẽ "Thiên bá ức hóa thân" không phải là khó hiểu, chỉ cần quư vị có hằng tâm, nghị lực để học tập theo Bồ Tát Quán Thế Âm, hoằng dương Phật-pháp, cứu độ chúng sanh th́ quư vị cũng là Hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Có một trăm người học theo Ngài th́ có một trăm Hóa thân, có một ngàn người học theo Ngài th́ có một ngàn Hóa thân. Chừng nào có số người chịu bắt chước theo Ngài hoằng dương Phật-pháp th́ chừng ấy cũng sẽ có vô lượng vô biên Hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm. Đó là nói theo sự, c̣n nói theo lư th́ khi quư vị thành Phật rồi cũng thực sự có đầy đủ ngàn trăm ức Hóa thân.

Đáng dùng thân Tự Tại Thiên để được độ thoát th́ Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Tự Tại Thiên nói pháp độ họ.

Đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên để được độ thoát th́ Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên nói pháp độ họ.

Tự Tại Thiên là ǵ? Là thiên ma ngoại đạo. Tôi ngày thường nói với quư vị Tự Tại Thiên chính là Thiên chúa của Thiên Chúa giáo và Cơ Đốc giáo. Đại Tự Tại Thiên Vương cũng thuộc về loại tôn giáo này. Sự cống cao ngă mạn của họ thật không thể nghĩ bàn, họ nói không có Phật, không có Pháp, không có Tăng, phỉ báng Tam Bảo. Tự Tại Thiên tự cho ḿnh là tối cao vô thượng bậc nhất trên đời. Tại sao lại như thế? V́ y quá tự tại, quá khoái lạc! Nhưng Bồ Tát Quán Thế Âm không lạ ǵ với hạng chúng sanh này, khi cơ duyên của họ thành thục th́ Bồ-tát cũng đến giảng giải Phật-pháp, khiến họ chuyển mê thành ngộ, phản bổn hoàn nguyên.

Đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân để được độ thoát th́ hiện thân Thiên Đại Tướng Quân đến nói pháp độ họ.

Thiên Đại Tướng Quân đây có hai nghĩa, một nghĩa là làm Đại Tướng Quân ở nhân gian, c̣n có một nghĩa nữa là vị thiên thần trên trời. Vị ấy đă hưởng hết phước trời và chuyển xuống nhân gian làm vị Đại Tướng Quân. Bồ Tát Quán Thế Âm biết nhân duyên của họ đáng được hóa độ th́ hiện thân Tướng quân nói pháp cho họ để phá trừ bến mê, giác ngộ vô thường, bỏ hết tất cả lạc thú của thế gian, phát tâm tu hành, cầu chứng được sự an lạc chân chánh vô thượng.

Đáng dùng thân Tỳ-sa-môn để được độ thoát th́ hiện thân Tỳ-sa-môn đến nói pháp độ họ.

Tỳ-sa-môn là tên của một vị trong Tứ Đại Thiên Vương, cũng chính là vị Thiên vương ở Bắc Câu Lô châu tại phương Bắc. Mỗi đại bộ châu đều có một vị Đại Thiên Vương, tức là Đông Thiên Vương, Tây Thiên Vương, Nam Thiên Vương và Bắc Thiên Vương. Đáng dùng thân Tỳ-sa-môn để dùng Phật-pháp hóa độ th́ Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Thiên Vương để thuyết pháp cho họ nghe.

Đáng dùng thân Tiểu Vương để được độ thoát th́ hiện thân Tiểu Vương đến nói pháp độ họ.

Tiểu Vương là chỉ cho vị vua quản lư một nước, vị này chỉ xưng vương một nước mà thôi. Đáng dùng thân Tiểu Vương để được độ thoát th́ lúc ấy Bồ Tát Quán Thế Âm hiện thân Tiểu Vương đến để nói pháp cho họ nghe.

Đáng dùng thân Trưởng giả để được độ thoát th́ hiện thân Trưởng giả nói pháp độ họ.

Sao gọi là Trưởng giả? Kinh Lăng Nghiêm nói: "Phàm người có đạo đức, có trí huệ, có danh vọng, gịng họ cao sang, tuổi tác lớn, những người lớn tuổi đều ưa thích vị ấy, những người trẻ tuổi đều cung kính vị ấy." Tại sao vị ấy được mọi người đối xử tốt như vậy? V́ vị ấy có tâm từ bi, b́nh đẳng, đối xử với ai cũng đều một mực nhân từ, nhiệt tâm giúp đỡ, cho nên được mọi người công nhận là "Trưởng giả." Nếu như có người đáng dùng thân Trưởng giả để được độ thoát th́ Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Trưởng giả đại trượng phu thật giàu sang đến nói pháp cho họ nghe. Trong chú Đại Bi, Bồ Tát Quán Thế Âm hiện ra tướng đại trượng phu có râu tóc dài mấy thước, dáng ngồi thẳng ngay, oai phong lẫm lẫm, đó chính là tướng đại phú trưởng giả.

Đáng dùng thân cư sĩ để được độ thoát th́ hiện thân cư sĩ nói pháp độ họ.

Đáng dùng thân cư sĩ để được độ thoát th́ Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện ra thân một vị cư sĩ đến nói pháp cho vị ấy nghe. Cư sĩ tức là những người c̣n ở nhà, cũng chính là những người tại gia tin theo Phật giữ ǵn năm giới, phụng hành thập thiện. Năm giới là ǵ? Đó là năm thứ đại giới: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Sao gọi là thập thiện? Thập thiện là trái ngược với thập ác. Thập ác tức là thân có ba ác: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Ư có ba ác là Tham, sân, si. Miệng có bốn ác: Vọng ngôn, ỷ ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt.

"Vọng ngôn" chính là nói dối. "Ỷ ngữ" là nói những lời tà vạy không đúng đắn, chuyên môn nói chuyện nam nữ khiến người nghĩ đến việc bất chánh. "Ác khẩu" là cộc cằn mắng chửi người. "Lưỡng thiệt" là một người có hai cái lưỡi. Một người tại sao lại có hai lưỡi? - Thật ra không phải người ấy có hai lưỡi đâu, mà là một cái lưỡi lại nói hai lời không giống nhau. Đến với người kia nói người này không tốt, đến với người này nói người kia không tốt, bươi móc việc xấu để ly gián hai bên, nên gọi là hai lưỡi. Bốn điều ác của miệng chiếm gần phân nửa, thân và ư mỗi thứ chỉ có ba ác nghiệp mà miệng lại có bốn thứ ác nghiệp. Thân có ba ác, ư có ba ác, miệng có bốn ác cộng chung là mườụi ác (thập ác). Trái ngược với thập ác là thập thiện. Thập thiện chính là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không tham, không sân, không si, không nói dối, không nói thêu dệt, không mắng chửi, không nói hai lưỡi. Không làm ác chính là làm thiện. Làm cư sĩ một mặt phụng tŕ ngũ giới thập thiện, một mặt phải hộ tŕ Tam Bảo, ủng hộ Phật-pháp, đề xướng Phật-giáo, khiến cho Phật-giáo mỗi ngày một hưng thịnh hơn. Đó là trách nhiệm của mỗi vị cư sĩ. Trách nhiệm của người xuất gia chính là hoằng dương Phật pháp.

Đáng dùng thân Tể Quan để được độ thoát th́ hiện thân Tể Quan nói pháp độ họ.

"Tể Quan" tức là chức quan Tể tướng hoặc các chức vị cao khác. Nếu có những chúng sanh đáng dùng thân quan quyền để được độ thoát, th́ Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân Tể tướng hoặc người có quyền cao chức trọng đến nói pháp cho họ nghe.

Đáng dùng thân Bà-la-môn để được độ thoát th́ hiện thân Bà-la-môn nói pháp độ họ.

Đáng dùng thân Bà-la-môn (Bà-la-môn là một đạo ở Ấn Độ, chuyên tu phạm hạnh thanh tịnh), để được độ thoát, th́ Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ hiện thân Bà-la-môn ngoại đạo đến nói pháp cho chúng sanh ấy nghe, khiến cho họ hiểu biết Phật pháp, y giáo phụng hành, tương lai sẽ thành Phật.

Đáng dùng thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di để được độ thoát th́ hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nói pháp độ họ.

Tỳ-kheo là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch ra ba nghĩa là:

1. Bố ma: Hễ có người xuất gia tu hành, thọ giới Cụ túc th́ quyến thuộc ma ít dần, v́ thế khiến ma lo sợ.

2. Khất sĩ: Vị tăng xuất gia, trên xin pháp của chư Phật để nuôi Pháp thân, dưới xin cơm của chúng sanh để nuôi sắc thân.

3. Phá phiền năo: Xuất gia tu hành, y lời Phật dạy tu hành có thể phá trừ vô minh phiền năo, kiến tánh thành Phật.

Tỳ-kheo-ni là nữ giới xuất gia thọ giới Cụ túc.

Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di là tiếng Phạn, dịch là Cận sự nam và Cận sự nữ. Cận sự là gần gũi phụng sự. Những cư sĩ nam nữ này thường thường gần gũi Tam Bảo, thường đến chùa lễ Phật, tụng kinh, quét dọn, cúng dường phụng sự Tam Bảo, làm các công đức để cầu phước báo. Những thiện nam tín nữ này gọi là Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Bồ Tát Quán Thế Âm nh́n thấy những chúng sanh nào có cơ duyên đáng dùng thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di để được độ thoát, Bồ-tát liền hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di đến thuyết pháp cho chúng sanh ấy nghe.

Đáng dùng thân phụ nữ của trưởng giả, cư sĩ, Tể quan, Bà-la-môn để được độ thoát liền hiện thân phụ nữ nói pháp độ họ.

Trưởng giả cũng gồm có vợ của trưởng giả; cư sĩ, Tể quan, Bà-la-môn cũng có vợ của họ. Trưởng giả cũng có nữ trưởng giả, cư sĩ cũng có nữ cư sĩ, Tể quan cũng có nữ Tể quan, Bà-la-môn cũng có người nữ Bà-la-môn. Nếu có người đáng dùng các thân phụ nữ để được độ thoát, Bồ Tát Quán Thế Âm liền hiện thân phụ nữ của trưởng giả, cư sĩ, Tể quan, Bà-la-môn đến nói pháp cho họ nghe.

Đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ để được độ thoát th́ hiện thân đồng nam, đồng nữ nói pháp độ họ.

Đáng dùng tức là "nên," hoặc "cần phải;" do đó ở đây ư nói: "Cơ duyên của người ấy là cần phải hiểu rơ Phật-pháp từ thời niên thiếu." Như Bồ-tát Vi-đà khi xưa phát nguyện đời đời kiếp kiếp làm thân đồng nam. Lại như Bồ-tát Long Nữ trong đời quá khứ cũng phát nguyện đời đời kiếp kiếp làm thân đồng nữ, chứ không muốn kết hôn. Đồng nam, đồng nữ, là những người mà về mặt sinh lư, thân thể không bị phá hoại. Một khi nam nữ khác phái tiếp xúc nhau th́ thân thể không c̣n hoàn chỉnh nữa. Văn pháp Trung Hoa gọi là "Phá thân," tức là thân thể bị xâm phạm, phá hoại. Nếu không có qua hành vi "phá thân" th́ thân thể hoàn chỉnh. Ở Trung Hoa có một thứ công phu quyền cước gọi là "Đồng tử công." Đồng tử công này muốn luyện được tất phải là thân thể hoàn chỉnh, chưa bị phá hoại. Thứ công phu này một khi luyện thành th́ gươm đao chém không đứt, thương đâm không thủng. Tại sao gươm đao đâm chém không thủng? V́ họ "trong luyện một loại khí," tức là họ nương vào một luồng chánh khí trong cơ thể chưa hề bị phá hoại; đồng thời "ngoài luyện gân cốt da," rèn luyện gân cốt và bắp thịt, do đó mà có thể sinh ra tác dụng to lớn như thế.

Trong Phật-pháp, thân đồng nam đồng nữ là thân thể rất thanh tịnh, không bị ô nhiễm; nếu tu đạo hoặc tham thiền th́ mau đạt đến kết quả, mau được khai ngộ, chứng được Thiên nhăn thông. V́ thế đồng chơn nhập đạo rất là quư báu. Đồng nam thuộc về Càn, mà Càn là thuần dương. Đồng nữ thuộc về Khôn, mà Khôn là thuần âm. Một đàng là thuần dương, một đàng là thuần âm; nói theo Đạo giáo là thân thể rất thanh tịnh. Bồ Tát Quán Thế Âm quán nhân duyên của người nào đó nếu đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ để tu hành đắc đạo th́ Bồ-tát liền hiện ra thân đồng nam, đồng nữ đến nói pháp cho họ nghe, khiến cho họ phát tâm Bồ-đề, mau chóng thành Phật đạo.

Đáng dùng thân trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lầu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, nhân và phi nhân v.v... để được độ thoát th́ hiện ra các thứ thân ấy nói pháp độ họ.

"Rồng" có rất nhiều loại: có loại rồng ở trên trời, có loại rồng ở dưới biển, có loại rồng giữ kho tàng. Rồng ở trên trời th́ làm hộ pháp ở trên trời; rồng dưới biển th́ ở trong Long cung, làm thủ lănh bọn tôm cá trạnh. Rồng giữ kho tàng là loại rồng do tâm tham dẫn dắt mà t́m đến canh giữ kho châu báu người ta chôn dưới đất. Lại c̣n có loại rồng chuyên làm mưa. Ngày xưa có rất nhiều rồng, bây giờ thông thường người ta ít thấy rồng rồi bảo là không có thứ động vật này; kỳ thật, loài rồng có rất nhiều. Vào thời Lục Tổ Đại-sư có một con rồng chuyên phun hơi độc, khói mù. Nếu người nào trúng phải độc của khói mù này sẽ sanh bịnh nặng, thậm chí bất trị rồi chết. Nền Thiền đường của chùa Nam Hoa hiện nay nguyên là đầm của con rồng độc. Đầm này diện tích khoảng một mẫu; không ai biết được đầm sâu bao nhiêu. Thuở ấy, trong đầm lại có một con rồng đang ở. Rồng này không phải là rồng hiền mà là con rồng dữ chuyên hại người. Nó thường làm cho chúng ở chùa Nam Hoa sanh bịnh, không tu hành được. Một hôm Lục Tổ Đại-sư đến bên đầm, con rồng này hiện thân h́nh đầy chật cả cái đầm ấy. Lục Tổ Đại-sư thấy thế cười nói:

- Nè, mi có tài hiện ra thân lớn chứ không có thể hiện được thân nhỏ. Nếu chỉ hiện thân lớn thôi th́ đâu có tài cán bao nhiêu!

Con rồng nghe Lục Tổ Đại-sư nói thế liền ẩn mất thân to lớn ấy đi, hiện lại thân nhỏ xíu độ một tấc dài bơi lội trong nước. Lục Tổ Đại-sư nói:

- À, mi cũng có đôi chút bản lănh mới biến lớn biến nhỏ được đấy, nhưng mi có lẽ không dám chui vào bát của lăo tăng!

Con rồng ở dưới nước nghe nói thế, bèn "tót một cái" nhảy ngay vào trong bát của Lục Tổ. Đại-sư nói:

-A, đây là ngươi tự ư đến, nhưng không ra được đâu!

Con rồng ấy sử dụng hết cả thành công lực để nhảy ra ngoài, nhưng không cách nào nhảy ra được. Lúc đó Đại-sư mới nói:

-Ngươi đừng vùng vẫy làm chi! Ngươi có biết tại sao đời này ngươi phải mang rồng không? Đời trước ngươi đă là người tu hành, cũng có căn lành, từng học Phật-pháp, nhưng v́ ngươi quá nặng tâm sân hận, giận dỗi quá lắm, như thế nên đời này mới đọa lạc làm thân rồng. Ngươi đừng cho ḿnh có bản lănh biến lớn biến nhỏ, biến có biến không là to lớn. Ơ này! Ngươi bây giờ ở trong bát của ta rồi, có ra được không nào?

Rồng nghe Lục Tổ nói mấy lời ấy, tỏ ư hàng phục, không c̣n ư nhảy ra ngoài nữa; bấy giờ Lục Tổ mới thuyết pháp cho nó nghe. Nghe pháp rơ ràng xong, rồng tỉnh ngộ và thoát khỏi kiếp làm rồng. Thi thể của con rồng ấy được cất giữ rất lâu ở chùa Nam Hoa, về sau v́ binh lửa chiến tranh nên đă bị mất. Đó là một đoạn nhân duyên Lục Tổ Đại-sư hàng phục rồng độc ở chùa Nam Hoa.

Ở Trung Hoa vào đời Đường có Ngụy Trưng tuy làm Thừa tướng ở nhân gian mà cũng lên làm quan ở cơi trời. Bấy giờ có chú rồng Tiểu Bạch Long làm mưa sai lệnh trời. Ngọc Hoàng bảo mưa một tấc ba thôi mà nó làm mưa đến một thước ba tấc, nên bao nhiêu ruộng lúa đều ngập lụt cả. Như thế là đă phạm pháp, Ngọc Hoàng bèn sai Ngụy Trưng đi giết chú rồng nhỏ đó. Biết được tin này, chú rồng nhỏ chạy đến báo mộng vua Đường Thái Tông, nói: "Ngày mai xin Bệ hạ cứu mạng tôi. Bệ hạ là rồng, tôi cũng là rồng, cho nên xin Bệ hạ cứu cho mạng rồng nhỏ xíu này."

Vua nói: "Chúng ta đều là giống rồng cả, vậy th́ chúng ta là anh em với nhau, khi ngươi có việc ta phải giúp ngươi mới phải. Vậy ta co thể làm ǵ để giúp đỡ ngươi đây?"

-Tôi phạm luật trời, v́ làm mưa sai lệnh nên ngày mai tôi bị xử tội chém, mà người chém tôi chính là Thừa tướng Ngụy Trưng. Ngày mai nếu Bệ hạ lưu ông ta lại không cho ông ta làm ǵ th́ ông ta không thể giết tôi được.

-Cái đó dễ thôi! Ta là vua, ông ấy là quan của ta, ông ấy nhất định phải nghe theo lời sai bảo của ta. Ngươi cứ yên tâm!

Hôm sau, Đường Thái Tông kêu Ngụy Trưng đến đánh cờ. Nhà vua nghĩ: "Ông ta đánh cờ với ta, không rời được ta, nhất định không thể đi chém con rồng nhỏ kia được."

Hai người ngồi đánh cờ, đánh cho tới giữa trưa, Ngụy Trưng bỗng nhiên thiu thiu ngủ. Đường Thái Tông rất mừng, nghĩ: "Ông ta đă ngủ rồi th́ nhất định không thể đi chém con rồng nhỏ kia được, ta không phải lo nữa." Nào ngờ lúc Ngụy Trưng ngủ chính là lúc thần thức ông ta đă ra đi cầm kiếm Thượng phương chém chết con rồng nhỏ. Giây lát sau Ngụy Trưng lại cùng Đường Thái Tông tiếp tục cuộc cờ. Đến quá giờ, cuộc cờ mới kết thúc. Đường Thái Tông tự nghĩ: "Chú rồng nhỏ đă năn nỉ ta, chỉ cần quá giờ Ngọ th́ Ngụy Trưng không thể giết nó được. Như vậy là ta đă cứu được người anh em của ḿnh, ta đă làm được công đức thật không phải nhỏ."

Nào ngờ tối đến, con rồng nhỏ lại tới đ̣i mạng:

-Bệ hạ bảo chúng ta là anh em, muốn cứu tôi mà sao Bệ hạ lại để cho bầy tôi của Bệ hạ giết tôi? Như thế không khác nào Bệ hạ giết tôi. Vậy th́ Bệ hạ phải đền mạng cho tôi mới được.

Đường Thái Tông tỉnh dậy, biết con rồng nhỏ đến đ̣i mạng, sợ đến toát mồ hôi. Hôm sau đem việc này bàn với quân sư Từ Mậu Công. Từ Mậu Công nói:

-Không hề chi! Ở đây chúng ta có hai người có thể ngăn cản việc ấy, đó là Tần Quỳnh và Kính Đức. Bệ hạ sai bọn họ trấn giữ cửa sau th́ con rồng nhỏ đó không dám đến nữa.

Tần Quỳnh là thần tướng mặt vàng, c̣n Kính Đức là thần tướng mặt đen. Màu đen của ông ta đen c̣n hơn dầu hắc, đen đến nỗi phát sáng. Dùng hai người này giữ cửa, quả nhiên con rồng nhỏ tối đó không dám tới nữa. Nhưng nếu mỗi tối đều bắt hai người này canh cửa mà họ là đại tướng của quốc gia, cực khổ quá th́ cũng không được. Bấy giờ mới vẽ h́nh hai người này dán ở cửa để canh cửa cho Đường Thái Tông, con rồng nhỏ đó măi măi không dám tới. V́ thế người Trung Quốc, mỗi khi Tết đến, cũng đem h́nh Tần Quỳnh và Kính Đức dán ở trước cửa để yêu ma quỷ quái không dám đến quấy rối.

Nhơn quả tái sinh làm rồng là do"thừa cấp giới hoăn." Tu hành Đại thừa giáo rất dụng công, học Phật pháp rất giỏi nhưng không nghiêm giữ giới luật. Nhơn v́ "thừa cấp," cho nên được thần thông biến hóa; lại nhân v́ "giới hoăn" nên phải đọa lạc làm súc sanh.

"Dạ-xoa" c̣n gọi là Dược-xoa, đều là tiếng Phạn (Yakshas), có nghĩa là "Tiệp tật" v́ chúng di chuyển rất nhanh, thậm chí hỏa tiễn do khoa học hiện đại chế tạo cũng đuổi không kịp. Thứ quỷ này trong một niệm có thể đến bất cứ nơi nào chúng muốn đến.

"Càn-thát-bà"ụ (Gandharvas) dịch là Hương thần, v́ họ lấy hương làm thức ăn và thân toát ra mùi hương. Lại dịch là Nhạc thần, là vị thần tấu nhạc cho Ngọc đế, đầu đội mũ bát giác, tay cầm ống địch, thân màu đỏ, tóc phát ra ánh sáng. Tây Vực gọi người xướng ca là Càn-thát-bà.

"A-tu-la" là tiếng Phạn (Asura), dịch là "Phi thiên," v́ họ có phước trời nhưng không có đức của trời, giống như trời mà chẳng phải trời. A-tu-la c̣n dịch là "Vô đoan chính," v́ dung nhan họ rất xấu xí, chẳng phải chúng sanh sanh ở cơi giới A-tu-la mới gọi là A-tu-la, mà súc sanh giới trong lục đạo cũng có rất nhiều loài súc sanh vốn là A-tu-la chuyển sanh, như chó, ngựa, ḅ..., nhất là ngựa, tánh A-tu-la rất nặng.

Trung Hoa có câu: "Con ngựa hại bầy," ám chỉ con ngựa ở trong bầy nếu cứ không đá con này th́ cũng cắn con kia, khiến cho cả bầy ngựa không được b́nh an. Đối với đồng loại th́ con ngựa đó có hại, nên gọi nó là "con ngựa hại bầy." Đó cũng là một loại A-tu-la. Dễ thấy hơn hết là loài ḅ, chúng đích thực là A-tu-la. Trên đầu ḅ có hai cái sừng, quư vị có biết nó định làm ǵ không? Nó dự định đánh nhau đấy. V́ khi xưa lúc làm A-tu-la, trên đầu thường đội mũ trụ, trên ḿnh mặc áo giáp, cho nên khi chuyển sanh làm ḅ cũng không quên được tánh A-tu-la, trên đầu dự bị sẵn hai chiếc sừng để đánh nhau với người. Chẳng những loài ḅ là A-tu-la, gà chọi cũng là A-tu-la biến thành. Gà chọi hễ gặp nhau th́ đá ngay. Chẳng những gà chọi là A-tu-la mà có một thứ dế màu đen rất thích đấu đá, hai con gặp nhau th́ nhất định chọi nhau cho đến khi có một con chết mới thôi.

Ở Trung Hoa vào đời Tống, tṛ đá dế ăn tiền rất thịnh hành. Hễ dế của ai bị đá chết th́ người ấy bị thua tiền. Ngoài ra, những loại như rắn, chuột, mèo..., các động vật thích đấu đá, có tánh hiếu sát đều thuộc loại A-tu-la cả. Chúng sanh chuyển sanh làm A-tu-la th́ tướng mạo rất xấu xí, không đoan chánh chút nào! Có thể là mơm dài như heo, mũi dài như voi, mỏ nhọn, răng vểnh, miệng heo, mũi voi, mắt ḅ, tai chuột; hoặc là thân người lại có đầu heo, hoặc thân người mà đầu ḅ, hoặc thân người mà đầu ngựa hay đầu hổ, rất là hung ác.

Trông tướng mạo nam A-tu-la rất là xấu xí, nhưng nữ A-tu-la dung mạo rất mỹ miều. Nữ A-tu-la có thể nói là ai thấy th́ thương ngay. V́ thế Thiên chúa Đế Thích ở cơi trời Lục Dục có một lần thấy nữ A-tu-la đẹp đẽ quá nên phải ḷng và cầu hôn. Tu-la vương cũng bằng ḷng và đem con gái ḿnh gả cho Ngọc đế. Một hôm Đế Thích rất vui v́ mời được nhạc phụ đến dùng cơm với các món ăn ngon nhất trên trời. Lúc ăn cơm xong, khi Tu-la vương sắp trở về, Ngọc đế muốn biểu lộ sự cung kính của ḿnh bằng cách dàn thành hai hàng đội ngũ tất cả thiên binh, thiên tướng để đưa tiễn. Nhưng Tu-la vương nh́n thấy, trong ḷng phát giận không vui, tự nghĩ: "A, ngươi dùng thiên binh thiên tướng để dọa ta à? Cái thằng này!"

Tu-la vương giận dữ trong ḷng, nhưng Ngọc đế vẫn dửng dưng không biết.

Trên cung trời có một vị tiên nhân thường hay thuyết pháp, v́ Ngọc đế thích nghiên cứu đạo lư nên mỗi ngày đến nơi vị tiên nhân ấy nghe pháp. Khi Ngọc đế đi nghe pháp như thế, Tu-la nữ ở nhà nảy sanh ra một mối nghi ngờ, nghĩ thầm: "Ông ta mỗi ngày đều vắng nhà, vậy chớ đi đâu? Đại khái chắc là đi làm việc bậy bạ đây! Chắc là đi t́m cô nào đây!"

Chờ khi Ngọc đế trở về, Tu-la nữ mới ḍ hỏi:

- Ông thường ngày vắng nhà là đi làm ǵ thế? Có phải là đi t́m một h́nh bóng khác, ư trung nhân khác hay không? V́ thế mà không ở nhà bồi tiếp tôi chớ ǵ?

- Không phải đâu! Ta đi đến chỗ vị Tiên nhân để nghe pháp mà.

Nhưng Tu-la nữ đời nào chịu tin, bèn vận dụng thần thông ngầm ḍ xét chỗ của Đế Thích đến. Đợi Đế thích lên xe báu xong, nàng dùng pháp thuật ẩn thân cũng lên xe theo. Khi đến chỗ thuyết pháp Đế Thích xuống xe, nàng ta cũng xuống xe theo. Đế Thích thấy thế liền hỏi:

- Sao nàng cũng đến đây?

-Tôi đến để điều tra xem ông có nói thật hay không. Bất luận là ông nói thế nào, tôi cũng không hề tin đâu!

Đế Thích nghe nói tức giận, nổi máu trượng phu ra, lấy gậy đánh cô vợ ḿnh. Nàng Tu-la nữ liền ̣a khóc lớn. Nào ngờ tiếng kêu khóc đó làm cho đạo hạnh vị tiên nhân tiêu mất đi, không thể nói pháp được nữa. Từ trước đến nay vị tiên nhân này chưa nghe tiếng nói phụ nữ bao giờ, nay nghe tiếng kêu của Tu-la nữ quá ngọt ngào bèn động mối tâm dâm dục, mất hết đạo nghiệp đi, nên không thể tiếp tục thuyết pháp được nữa. Việc đó xảy ra càng làm cho Ngọc đế giận thêm, lại càng trách móc vợ. Tu-la nữ cũng lại tức giận, trở về mách lại với cha: "Ông Đế Thích này thật không giữ quy củ chút nào, hiện tại đang theo một cô gái khác, bỏ bê con!" Cô ta c̣n bịa thêm rất nhiều chuyện, cha cô nghe qua càng thêm nổi trận lôi đ́nh, nói:

- Chà, có như thế à! Hèn nào lần trước nó thị oai với ta, té ra là nó khi dễ ông gia nó mà, không coi nhà vợ nó ra ǵ hết.

Tức thời kéo binh tướng A-tu-la đi đánh nhau với Đế Thích. Đế Thích tuy có thiên binh, thiên tướng, nhưng càng đánh càng thua, bèn chạy đến chỗ Phật Thích-ca cầu xin giúp đỡ. Đức Phật nói:

- A, bây giờ ông bị khổ nạn à! Không hề ǵ, để ta giúp cho.

Phật mới dạy trời Đế Thích niệm câu "Ma-ha Bát-nhă Ba-la-mật-đa," và lại bảo:

- Ông niệm câu chú này rồi, cũng nên đem dạy cho binh tướng ông đều niệm câu ấy, th́ tất cả khổ nạn đều được giải trừ.

Đế Thích trở về bèn đem câu chú ấy dạy cho các binh tướng của ḿnh. Trước khi cùng A-tu-la đánh nhau mỗi người đều niệm "Ma-ha Bát-nhă Ba-la-mật-đa." Một khi niệm câu chú trên th́ không biết tại sao mà tất cả binh tướng của Tu-la đều bị đánh bại. Nhờ đó, Đế Thích mới khôi phục lại được oai thế của ḿnh.

Tóm lại, A-tu-la chính là chúng sanh hay sân hận và ưa đấu tranh. Thời kỳ này chính là thời đại của Tu-la, v́ thế mới xảy ra thế giới đại chiến. Hiện tại chính là thời đại mà A-tu-la có quyền lực rất lớn. Người nào thường hay nổi nóng, giận hờn th́ tương lai có thể sanh làm A-tu-la, cũng có thể hiện tại là A-tu-la rồi. Nếu có thể sửa đổi tánh hờn giận, tu hạnh nhẫn nhục th́ có thể thoát được chuyển sanh vào loài A-tu-la.

"Ca-lầu-la" (Garudas) tức là chim đại bàng cánh vàng, chuyên ăn thịt rồng. Thứ chim này rất to lớn, cánh nó vươn ra có thể lớn đến ba trăm do-tuần. Do-tuần là đơn vị đo lộ tŕnh của Ấn Độ, có ba thứ đại, trung và tiểu do-tuần. Tiểu do-tuần là bốn mươi dặm, trung do-tuần là sáu mươi dặm, đại do-tuần là tám mươi dặm. Ba trăm do-tuần ở đây là ba trăm đại do-tuần, tính ra là 24.000 (hai mươi bốn ngàn dặm.) Cánh nó trương ra quạt lên th́ nước biển rẽ làm hai, làm lộ ra con rồng nào nó bèn bắt con rồng đó ăn thịt. Cứ thế ăn măi, con cháu loài rồng bị bắt ăn gần hết. Long vương không c̣n cách nào hơn, đành cầu cứu với Phật. Phật đem ca-sa của ḿnh đắp cho Long vương và bảo: "Làm như vầy, như vầy...." Long vương sau khi trở về Long cung, xé y ra làm nhiều mảnh, buộc cho mỗi con rồng một miếng. Làm như thế, chim đại bàng cánh vàng không thể ăn thịt rồng được. V́ ca-sa của Phật diệu dụng vô cùng, có thể giúp rồng thoát khỏi hiểm nạn.

Bấy giờ đến phiên chim đại bàng cánh vàng đi t́m Đức Phật nói: "Ngài cứu loài rồng dĩ nhiên là tốt rồi, nhưng lại làm cho họ chim của con chết đói mất! Chúng con chỉ có ăn thịt rồng, mà bây giờ không được ăn thịt rồng nữa th́ phải làm sao đây?"

Bấy giờ Phật thuyết pháp và truyền Ngũ giới cho chim đại bàng.

Chim nói: "Con không sát sanh cũng được, nhưng không có ǵ ăn chắc chết đói mất!"

Phật nói: "Con sẽ không chết đói đâu. Từ nay trở đi mỗi ngày vào giờ Ngọ, lúc đệ tử ta ăn cơm, sẽ cho các con ăn."

V́ thế sau này hễ ăn trưa, các Phật tử xuất gia trước niệm chú cúng dường rồi mới đưa ra một ít cơm làm phép cho chim đại bàng ăn. Từ đó về sau, chim đại bàng thọ tŕ năm giới không c̣n sát sanh nữa, và lại c̣n làm một vị Hộ pháp của Phật-giáo, tức là một trong tám bộ chúng quỷ thần hay Thiên long bát bộ.

Trong Phật-giáo, giờ khắc dùng cơm khác nhau: Chư thiên ăn cơm sáng sớm, Phật ăn giữa ngọ, súc sanh ăn sau giờ ngọ, ngạ quỷ ăn vào chiều tối. Từ trước đến nay ngạ quỷ kiếm không ra thức ǵ để ăên. Khi nó nh́n thấy chúng ta ăn, nó cũng muốn ăn. Một khi thấy chúng ta ăn, khua chén đũa lách cách th́ nó đổ xô tới. Nhưng đồ ăn đưa đến cửa miệng th́ biến thành lửa nên nó ăn không được. Đó là do nghiệp báo của chúng quá nặng. Nhưng quỷ lại cho rằng đó là do người ta dùng pháp thuật làm cho thức ăn đó biến thành lửa chẳng cho nó ăn, bèn sanh ra giận dữ đánh người, hoặc làm cho người sanh bịnh. V́ thế người xuất gia không nên ăn chiều nhằm giờ ăn của quỷ. Buổi sáng là giờ của chư thiên ăn, nếu người xuất gia sáng sớm có ăn chút cháo, hoặc bánh nướng th́ để ra một ít thức ăn cho chư thiên hoặc cho quỷ Tử-mẫu.

Quỷ Tử-mẫu La-sát (rakshasa) này trước nay chuyên môn ăn thịt trẻ sơ sinh. Tại sao gọi là quỷ Tử-mẫu? V́ nó có một ngàn đứa con. Nó dẫn một ngàn đứa con đó đi các nơi ăn trộm con nít của người ta để ăn thịt. Nhà ai có con nít mới sanh liền bị bọn chúng bắt ăn thịt. Làm như thế nên có nhiều gia đ́nh không có trẻ nít. Bấy giờ có người đến cầu Phật, hỏi tại sao phần lớn con nít đều bị mất tích cả. Vậy phải làm sao? Phật biết bọn trẻ ấy đều bị bọn quỷ Tử-mẫu bắt trộm ăn thịt. Một hôm Đức Phật bắt con quỷ nhỏ nhất trong bọn một ngàn quỷ nhỏ ấy nhốt vào trong bát. Quỷ Tử-mẫu về nhà thấy mất đứa con út của ḿnh bèn chạy khắp nơi t́m kiếm, cuối cùng t́m đến chỗ Phật. Nghe tiếng con ḿnh khóc trong bát, quỷ Tử-mẫu vội chạy đến bên bát t́m cách dở nắp cứu con ḿnh. Nhưng nắp bát nặng quá dở không nổi, nó bèn chạy về dẫn 999 con quỷ nhỏ c̣n lại, ráp nhau cùng dở nắp bát lên mà dở cũng không nổi, không nhúc nhích chút nào. Bấy giờ quỷ Tử Mẫu mới phân trần với Phật:

- Sao Ngài lại bắt con tôi, nhốt nó vào trong bát mà không chịu trả cho tôi?

Phật hỏi: Ngươi có bao nhiêu đứa con?

- Có một ngàn đứa.

- A! Ngươi có một ngàn đứa con, nay chỉ mất một đứa thôi mà tại sao lại liùnh quưnh như thế?

- Dù chỉ mất một đứa, nhưng đối với tôi thiếu một cũng không được.

- Vậy ngươi bắt con người ta ăn thịt, th́ thế nào?

- Không phải tôi muốn ăn thịt con nít đâu! Nhưng không có ǵ ăn, nếu tôi không bắt trộm con nít để ăn th́ cả một ngàn đứa con tôi đều chết đói hết.

- Từ nay về sau, ngươi đừng bắt trộm con nít người ta để ăn thịt nữa. Ngươi nên quy y Tam Bảo, thọ tŕ năm giới, không nên sát sanh! Ngươi nghĩ xem, ngươi có đông con như thế, mà thiếu một đứa c̣n không chịu được. Ta chỉ bỏ nó trong bát thôi, mà ngươi c̣n khổ sở như thế! Thế mà bao nhiêu con nít trong thiên hạ ngươi đều bắt lấy ăn thịt th́ cha mẹ chúng không khổ sở sao? Ngươi không nên ích kỷ như thế!

Bấy giờ quỷ Tử-mẫu mới nghe lời Phật, chịu quy y Tam Bảo, thọ tŕ năm giới. Đức Phật liền bảo các đệ tử khi ăn cơm th́ để ra bảy hạt cơm hoặc một ít thức ăn ǵ đó cho quỷ Tử-mẫu ăn. V́ thế lúc để cơm ra mới đọc bài kệ:

Đại bàng kim sí điểu,

Khoáng dă quỷ thần chúng,

La-sát quỷ tử mẫu,

Cam-lồ đều no đủ.

Cam-lồ, là ví thức ăn ngon ngọt như nước cam-lồ, dù chúng quỷ thần đông bao nhiêu cũng đều được no đủ.

"Khẩn-na-la" (Kinnaras), là một trong tám bộ quỷ thần, vị này cũng là nhạc thần của Ngọc Đế. Trên đầu Khẩn-na-la có mọc một chiếc sừng, nên c̣n gọi là Nghi thần.

"Ma-hầu-la-gia"ụụ (Mahogaras) là con măng xà lớn, c̣n gọi là Địa long, cũng là một loại rất hung ác. Ở Quảng Đông Trung Quốc, người ta rất thích ăn thịt măng xà. Măng xà này mập giống như heo nuôi vậy, nhưng có lúc nó cũng ăn thịt người; v́ người ăn nó nên nó cũng ăn người.

Vua Lương Vơ Đế có vợ là Hy thị. Nhà vua là một tín đồ Phật-giáo, kính thờ Tam Bảo, nhưng vợ ông ngược lại, không kính trọng Phật Pháp Tăng. Do bà ta không kính tin Tam Bảo, nên sau khi chết bị đọa làm con măng xà lớn có thể nói được tiếng người. Bấy giờ bà ta trở về yêu cầu Lương Vơ Đế siêu độ cho. Bà nói:

- Ông có biết tôi là ai không? Tôi chính là Hy thị, vợ của ông đây. V́ không kính tin Tam Bảo, nên chết rồi phải bị đọa làm thân rắn.

Lương Vơ Đế nghe nói thế mới thỉnh Chí Công Thiền sư làm lễ siêu độ cho bà. Nguyên Chí Công Thiền sư là người thuở sinh tiền bà Hy thị phản đối nhất, sau khi bị đọa làm thân măng xà bà lại đến trước ngài Chí Công đảnh lễ sám hối. Lúc đó ngài Chí Công có soạn bộ Lương Hoàng Sám. "Lương Hoàng" là Lương Vơ Đế, "Sám" là sám hối, có nghĩa là v́ Lương Vơ Đế mà lạy sám này để siêu độ bà Hy thị, vợ của vua. Nhờ công đức lạy Lương Hoàng Sám này, vợ của Lương Vơ Đế được thoát khỏi thân rắn lớn, sanh lên cơi trời.

Khi Phật c̣n tại thế, Ma-hầu-la-già quy y Tam Bảo, nên cũng được coi là một Hộ pháp của Phật giáo.

"Nhân và phi nhânẨ." Nhân là nhân loại chúng ta, phi nhân là chỉ cho tất cả súc sanh. Bồ Tát Quán Thế Âm nếu thấy có chúng sanh nào đáng dùng thân Thiên long bát bộ để độ thoát, liền hiện ra thân rồng, hoặc thân Dạ-xoa, La-sát... và tất cả những súc sanh phi nhân để thuyết pháp độ họ.

Đáng dùng thân thần Chấp Kim Cang để được độ thoát, liền hiện thân thần Chấp Kim Cang nói pháp độ họ.

Thần Chấp Kim Cang này là vị thần hộ pháp của Phật-giáo. Lai lịch thần Kim Cang như thế này: Từ rất lâu xa về trước có một vị Chuyển Luân Thánh Vương. Ông ta có một ngàn người con. Tại sao một bà vợ lại có thể sanh đến một ngàn đứa con như thế? V́ bà ta sống rất lâu, sanh ra một ngàn đứa con là chuyện đâu có ǵ nhiều!

Nhưng ông ta lại cảm thấy chưa đủ, bèn cưới thêm một bà vợ, bà vợ thứ hai này lại sanh ra hai đứa con, tổng cộng ông ta có 1002 đứa con. Tất cả đều đồng ḷng phát nguyện. Một ngàn đứa con của người vợ trước phát nguyện:

- Anh em chúng tôi tu hành, trong tương lai nếu được thành tựu, nguyện sẽ tuần tự thành Phật chớ không làm Chuyển Luân Thánh Vương. Chúng tôi cùng nhau đồng ḷng rút thăm.

Đức Phật Thích-ca là người rút số 4 nên là vị Phật thứ tư, tương lai các vị Phật thứ năm, thứ sáu cho đến thứ một ngàn sẽ lần lượt ra đời trong Hiền kiếp này. Một ngàn anh em đều phát nguyện thành Phật, c̣n con của bà vợ kế cũng phát nguyện. Nguyện như thế nào? Một người phát nguyện:

- Một ngàn người anh của tôi bất luận khi ai thành Phật, tôi xin làm người đầu tiên thỉnh vị ấy thuyết pháp và cung kính cúng dường Tam Bảo.

C̣n vị kia phát nguyện:

- Tôi phát nguyện làm vị Hộ pháp, khi mỗi anh tôi thành Phật tôi sẽ bảo hộ vị ấy, Hộ pháp cho vị ấy.

V́ vậy vị ấy trở thành một vị Kim Cang Hộ pháp, trong tay thường cầm chày báu để bảo hộ Phật-giáo. Mỗi khi có Đức Phật ra đời, vị ấy liền đến ủng hộ Phật-pháp. C̣n vị kia là Đại Phạm thiên Vương, mỗi khi có Phật ra đời, vị ấy đều là người thứ nhất thỉnh Phật thuyết pháp.

Này Vô Tận Ư! Vị Bồ Tát Quán Thế Âm này thành tựu những công đức như thế, dùng các thân h́nh, dạo khắp các cơi nước để độ thoát chúng sanh. V́ thế các ông phải nên nhất tâm cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát Quán Thế Âm này hay ban bố sự vô úy trong mọi trường hợp hăi sợ, nạn gấp. Cho nên ở thế giới Ta-bà này đều gọi Ngài là vị Thí Vô Úy.

Sau khi Đức Phật giảng nói các thứ hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, Ngài lại bảo: "Này Vô Tận Ư! Bồ Tát Quán Thế Âm đă thành tựu những công đức như vừa kể trên. Ngài dùng các thứ thân h́nh đến mỗi quốc gia để độ thoát tất cả chúng sanh. Do những nhân duyên như thế, chúng sanh các ông phải nên nhất tâm cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm," chẳng nên có nhị tâm. Nếu có hai ḷng là có tâm hoài nghi rồi. "Nhất tâm" là chỉ có một ḷng tin thôi. Nếu quư vị có hai tâm th́ không có cảm ứng, không có công đức. V́ thế mới nói: "Phải nên nhất tâm cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm." Quán Thế Âm Bồ Tát Ma-ha-tát là vị đại Bồ-tát sẽ ban bố niềm vô úy nếu quư vị ở trong hoàn cảnh hăi sợ nạn gấp, khiến cho quư vị không c̣n sợ hăi nữa. V́ lẽ đó mà ở thế giới Ta Bà đều gọi Ngài là "Bồ Tát Thí Vô Úy."

Vô Tận Ư Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, con nay nên cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm." Nói rồi liền cởi xâu chuỗi anh lạc châu báu trên cổ, giá trị trăm ngàn lượng vàng để cúng dường và nói: "Thưa nhân giả, xin nhận pháp thí trân bảo anh lạc này."

Nghe qua lời Phật dạy: "Tất cả chúng sanh đều phải nên nhất tâm thành ư tŕ niệm, nhất tâm cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm," nên Bồ Tát Vô Tận Ư cũng muốn cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, mới bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Bây giờ con muốn cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Quán Thế Âm có công đức lớn như thế, sức oai thần không thể nghĩ bàn, v́ thế con dù đă thành Bồ-tát, con cũng muốn đến Bồ Tát Quán Thế Âm gieo trồng phước báo, con phải nên cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm."

Nói lời ấy rồi, Bồ Tát Vô Tận Ư tháo xâu chuỗi anh lạc quư báu đang đeo trên cổ xuống, cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm không chút nghĩ ngợi. Anh lạc là thứ trân quư rất có giá trị. Thứ trân bảo này bên trong rỗng ruột có thể nhét vật vào được, người xưa thường dùng làm đồ trang sức, xỏ thành một xâu. Xâu chuỗi ngọc này giá trị liên thành. Giá trị bao nhiêu tiền? Giá trị trăm ngàn lượng vàng, bây giờ cởi ra cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát Vô Tận Ư lại nói:

- Thưa nhân giả, xin Ngài hăy tiếp nhận xâu chuỗi anh lạc pháp thí quư báu này.

"Nhân giả" tức chỉ người nhân từ có đức độ, Bồ-tát với Bồ-tát xưng hô với nhau là Nhân giả.

Chuỗi anh lạc quư báu nguyên thuộc về tài thí, tại sao trong kinh Bồ Tát Vô Tận Ư lại gọi là pháp thí? Bố thí có ba loại: Tài thí, pháp thí và vô úy thí. Đương khi Bồ Tát Vô Tận Ư cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, trong tâm không cho chuỗi anh lạc này là một thứ rất có giá trị, mà chính là muốn đem đồ vật ḿnh ưa thích thành tâm thành ư cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm. Nhưng tại sao văn kinh lại nói "giá trị trăm ngàn lượng vàng?" Câu này là Tôn giả A-nan khi kiết tập kinh tạng thêm vào. Lúc đó Bồ Tát Vô Tận Ư không hề nói về trị giá nhiều hay ít. Bồ-tát chỉ dùng tâm chân thật của ḿnh để cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm thôi. Hai bên đều không có quan niệm "của cải," nên nó thuộc về pháp thí. Dù là tài thí nhưng cũng biến thành pháp thí. Đây là "dùng tâm ấn tâm" chớ không phải để ư đến đồ vật đánh giá bằng tiền. V́ thế Ngài yêu cầu Bồ Tát Quán Thế Âm tiếp nhận thứ pháp cúng dường này là xâu chuỗi báu anh lạc.

Lúc ấy Bồ Tát Quán Thế Âm không chịu nhận lấy. Bồ Tát Vô Tận Ư lại bạch với Bồ Tát Quán Thế Âm: "Nhân giả, xin Ngài thương xót chúng tôi mà nhận lấy chuỗi anh lạc này."

Bồ Tát Vô Tận Ư đem chuỗi anh lạc quư báu cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, song Bồ Tát Quán Thế Âm không chịu nhận. Tại sao Bồ Tát Quán Thế Âm không chịu tiếp nhận? V́ Bồ Tát Quán Thế Âm ở dưới ṭa của Phật Thích Ca, đến nghe pháp ở hội Pháp Hoa này. Bồ Tát Quán Thế Âm chưa được sự hứa khả của Phật, nên không chịu tiếp nhận sự cúng dường. Hơn nữa, Bồ-tát không có tâm tham, không giống như phàm phu lại nghĩ:

-"À, xâu chuỗi anh lạc quư giá nổi tiếng này, có người tặng ta, không nhanh tay e chậm mất! Nếu người ta đổi ư, không cúng dường nữa th́ biết làm sao?" V́ các ngài không có tâm lư đó nên không sợ người ta không cúng dường. Trong tâm các ngài thật ra không có người thí, vật được thí; cũng không có người nhận, cái được nhận. Do đó, cóù cúng dường hay không cúng dường đối với các ngài đều như nhau. Mặc nhiên Bồ Tát Vô Tận Ư cũng đă có công đức rồi. Nhưng bản thân Bồ Tát Quán Thế Âm không chịu tiếp nhận phần cúng dường đó, lúc ấy Bồ Tát Vô Tận Ư cũng hơi lo! Ngài không phải như một số người không thật sự muốn cúng dường: "Ngài không muốn nhận th́ thôi, tôi cũng không cúng dường nữa. Để tôi mang về vậy."

Cho nên Bồ Tát Vô Tận Ư lại một lần nữa thỉnh cầu Bồ Tát Quán Thế Âm: "Thưa nhân giả! Xin thương xót giùm chúng tôi mà nhận lấy chuỗi anh lạc này." Câu này có nghĩa là: "Thưa nhân giả! Bồ-tát đại từ bi! Ngài nên thương xót giùm tôi! Thương xót Vô Tận Ư tôi và hàng tứ chúng này. Tôi cúng dường Ngài xâu chuỗi anh lạc quư báu này không phải là v́ cầu phước cho chính ḿnh, mà là v́ bốn chúng đệ tử đây và hết thảy pháp giới chúng sanh. Tôi thay mặt cho chúng sanh để cúng dường Ngài, cho nên xin Ngài hăy thương xót chúng tôi mà nhận lấy xâu chuỗi anh lạc này." "Bốn chúng" tức là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. "Chúng tôi" là chỉ cho tất cả chúng sanh.

Lúc bấy giờ Phật bảo Bồ Tát Quán Thế Âm: "Ông nên thương xót Bồ Tát Vô Tận Ư này và bốn chúng trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lầu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, nhân và phi nhân... mà nhận lấy chuỗi anh lạc này."

Bồ Tát Vô Tận Ư nhất định muốn cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm mà Bồ Tát Quán Thế Âm lại quyết ư không chịu nhận, nói: "A! Lễ vật của Ngài quá quư báu tôi không dám nhận đâu. Tôi không có đạo đức ǵ để xứng đáng với ḷng tin của Ngài. Xin Ngài cứ giữ lấy là hơn!" Bồ Tát Vô Tận Ư nghe Bồ Tát Quán Thế Âm nói thế càng thêm lo lắng, thậm chí cúi đầu đảnh lễ, năn nỉ Bồ Tát Quán Thế Âm. Cứ như thế, một người không nhận cúng dường, một người lại nhất định muốn cúng dường, hai bên đều kiên tŕ ư ḿnh. Đến lúc đó Đức Phật Thích Ca bèn ḥa giải. Phật mới nh́n Bồ Tát Quán Thế Âm, mỉm cười nói: "Này, ông nên thương xót Bồ Tát Vô Tận Ư và bốn chúng đệ tử, chẳng riêng ǵ bốn chúng đệ tử này, mà c̣n có trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lầu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, nhân và phi nhân... nữa. Ông nên thương xót tất cả chúng sanh ấy mà tiếp nhận sự cúng dường này đi! Đó là thứ pháp bố thí phát xuất từ ḷng thành khẩn rất chân thật, ông không nên cự tuyệt hảo ư này!"

Tức thời Bồ Tát Quán Thế Âm thương xót bốn chúng cùng hàng trời, rồng, nhân và phi nhân... nhận lấy chuỗi anh lạc ấy rồi chia làm hai phần: Một phần dâng lên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, một phần dâng lên tháp Phật Đa Bảo.

Này Vô Tận Ư! Bồ Tát Quán Thế Âm có sức thần tự tại dạo đi khắp cơi Ta Bà như thế!

Lúc bấy giờ Bồ Tát Vô Tận Ư dùng bài kệ hỏi Phật.

Ngay lúc đó, Bồ Tát Quán Thế Âm thấy Đức Phật Thích-ca đứng ra ḥa giải, Ngài liền nghe lời Phật, thương xót bốn chúng đệ tử và bát bộ trời, rồng..., tiếp nhận chuỗi báu anh lạc. Nhưng nói tiếp nhận là tiếp nhận vậy thôi, chứ sau đó Ngài lại chuyển qua cúng dường Phật, đem chuỗi anh lạc ấy chia làm hai phần. Hăy xem Bồ Tát Quán Thế Âm, Ngài đúng là vị Bồ-tát, những đồ vật giá trị lớn như thế mà Ngài cũng không muốn giữ, lại đem một phần cúng dường Phật Thích Ca Mâu Mi, một phần dâng lên Phật Tháp Đa Bảo. Sự có mặt của Phật Tháp Đa Bảo này là do Phật Đa Bảo trong vô lượng vô lượng kiếp về quá khứ, Ngài đă thành Phật rồi, lại từng phát nguyện rằng: "Bất luận là người nào thành Phật, sau cùng nhất định phải giảng Kinh Pháp Hoa. Đợi đến lúc giảng Kinh Pháp Hoa, tôi phát nguyện từ dưới đất vọt lên một ṭa tháp Phật Đa Bảo hiện ra trong hư không để chứng minh cho chúng sanh thấy Kinh Pháp Hoa này là rất vi diệu, rất viên măn và rất tốt đẹp." Cho nên khi Đức Thích Ca thành Phật, trước hết diễn nói Tam-tạng giáo, Phương-đẳng, Đại Bát-nhă, Phật Đa Bảo cũng chưa từng hiện thân. Đến hội Pháp Hoa, đang lúc giảng Kinh này, th́ Phật Đa Bảo liền từ dưới đất vọt lên tháp Phật Đa Bảo để chứng minh Đức Thích Ca đang nói Kinh Pháp Hoa. Bấy giờ Bồ Tát Quán Thế Âm bèn đem một phần chuỗi báu anh lạc dâng cúng tháp Phật Đa Bảo.

Sau đó Đức Phật Thích Ca lại bảo: "Này Vô Tận Ư! Vị Bồ Tát Quán Thế Âm này có thần thông diệu dụng, thần lực tự tại như ta đă nói ở trước, vậy tất cả chúng sanh đều nên cúng dường, cung kính và xưng niệm danh hiệu Ngài. Vị Bồ Tát Quán Thế Âm này dạo đi khắp thế giới Ta Bà để cứu độ tất cả chúng sanh." Sau khi Đức Phật Thích Ca nói lời ấy rồi, Bồ Tát Vô Tận Ư lại dùng kệ để hỏi Phật.

V́ phần kinh văn trước là thể trường hàng (văn xuôi), có chỗ nói rất rơ ràng, lại có chỗ nói không được rơ, nên dùng kệ để nhắc lại một lần nữa. Kệ giống như các loại thi từ ca phú của Trung Quốc, đều phải có thể cách nhất định, hoặc là một câu sáu chữ, một câu bảy chữ, hoặc một câu năm chữ, một câu bốn chữ... không bắt buộc, nhưng cần phải có số chữ nhất định. Trước kia, Phẩm Phổ Môn do Ngài Cưu-ma-la-thập dịch không có đoạn văn kệ này. Về sau có vị Pháp sư khác xem thấy những câu kệ ấy ư nghĩa giống như đoạn văn trước, nên mới thêm vào sau Phẩm Phổ Môn thứ hai mươi năm của Kinh Pháp Hoa.

Thế Tôn đủ tướng tốt

Con xin nay lại hỏi

Phật tử nhân duyên ǵ

Tên là Quán Thế Âm?

Bồ Tát Vô Tận Ư nói: "Đức Thế Tôn đầy đủ tướng tốt! Bây giờ con lại hỏi về Bồ Tát Quán Thế Âm kia, vị Phật tử ấy do nhân duyên ǵ mà có tên là Quán Thế Âm?" V́ tướng mạo của Phật rất viên măn, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, cho nên gọi là Đức Thế Tôn đầy đủ tướng tốt, tức là hoàn toàn, không thiếu cũng không dư. Lại cũng có thể hiểu là phước đủ, huệ đủ, là Lưỡng túc tôn. Song, ở đây là nói về ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của Phật là những tướng hảo vi diệu không thể nghĩ bàn.

Bậc đầy đủ tướng tốt

Kệ đáp Vô Tận Ư:

Ông nghe hạnh Quán Âm

Khéo ứng các nơi chốn.

Do Bồ Tát Vô Tận Ư dùng kệ hỏi Phật, nên Phật cũng dùng kệ để đáp câu hỏi của Bồ Tát Vô Tận Ư: "Này Vô Tận Ư! Ông có biết những sự việc và nhân duyên mà Bồ Tát Quán Thế Âm đă làm chưa? Ông phải nên chú ư nghe, ta sẽ giảng nói cho ông. Vị Bồ-tát ấy dùng phương tiện khéo léo, quán cơ đậu giáo, tùy duyên nói pháp, ứng bịnh cho thuốc."

Quán cơ đậu giáo chính là quán sát căn cơ của chúng sanh ra làm sao, thích những ǵ, đáng nói những pháp ǵ; cũng giống như trước đă nói: "Đáng dùng thân Phật để được độ thoát liền hiện thân Phật nói pháp để độ họ. Đáng dùng thân Đế Thích để được độ thoát liền hiện thân Đế Thích đến nói pháp để độ họ...." Đó gọi là khéo ứng các nơi chốn. Bất luận là căn tánh nào, Ngài cũng dùng các phương pháp thiện xảo phương tiện này để độ họ. Phương pháp ấy có nhất định không? Không có nhất định! Kinh Kim Cang có nói: "Pháp này b́nh đẳng, không có cao thấp, không có nhất định." V́ thế, là một vị Pháp sư muốn giáo hóa chúng sanh, cũng phải biết rất nhiều đạo lư cùng pháp thế gian để hễ gặp hạng người nào th́ nói thứ pháp đó cho thích hợp. Ví dụ gặp một người buôn bán, th́ có thể nói: "À này! Bây giờ anh buôn bán có khá không? Gần đây măi lực của thị trường rất mạnh đấy!" Hoặc gặp một người công nhân th́ nói: "Anh vất vả dữ đa! Hôm nay chắc được rảnh nhỉ?" Phải dùng đạo lư của người công nhân mà nói với anh ta. Anh ta nghe nói liền vui vẻ nghĩ: "À, th́ ra cũng có người biết là ḿnh rất cực khổ, rất bận rộn đấy!" Sau đó mới nói Phật-pháp cho họ nghe, họ mới cảm nhận được: "À phải đó! Th́ ra Phật-pháp là như thế." Gặp người đi học, th́ hỏi: "Anh theo học ban nào? Khoa học? Hóa học hay Văn học...?" Hôm nay có một nhóm sinh viên đến chùa và được nghe giảng Phật-pháp, nghe rồi họ đều rất thích thú, đối với Phật-pháp bắt đầu có ấn tượng. Trong đầu óc các em đă có một chữ "Phật." Chữ "Phật" này sẽ in vào tâm trí các em mỗi ngày một sâu đậm thêm, tương lai các em cũng sẽ thành Phật. Đó chính là khéo ứng các nơi chốn, ứng bịnh cho thuốc, tùy duyên nói pháp. Ấy cũng gọi là:

Thiện xảo phương tiện độ chúng sanh,

Khéo lấy trần lao làm Phật sự."

Đem tất cả những việc trần lao ở thế gian chuyển biến thành Phật sự cả.

Nguyện rộng sâu như biển

Nhiều kiếp không nghĩ bàn

Hầu nhiều ngàn ức Phật

Phát nguyện lớn thanh tịnh.

Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, khi chưa thành Phật đă phát nguyện đại từ đại bi rộng lớn. Lời nguyện này rộng lớn như thế nào? Sâu như biển cả vậy. Ngài đă trải qua bất tư ngh́ đại kiếp, tạo ra bất tư ngh́ công đức, phát ra bất tư ngh́ nguyện lực như vậy, v́ thế Bồ Tát Quán Thế Âm mọi mặt đều là vi diệu không thể nghĩ bàn. Ngài đă từng thờ phụng rất nhiều ngàn ức đức Phật, chẳng những ngàn ức mà c̣n hơn vạn ức nữa, dù trên văn kinh chỉ nói có ngàn ức thôi. V́ lập những nguyện đại từ đại bi ấy, nên cảnh giới của Bồ Tát Quán Thế Âm cao sâu khó lường. Bồ Tát Quán Thế Âm đă phát những lời nguyện rất thanh tịnh. Nguyện thanh tịnh là thế nào? Thanh tịnh là không có ư tưởng ích kỷù, riêng tư cho chính ḿnh mà là đại công vô tư. Ngài v́ chúng sanh phát nguyện, hoàn toàn phát xuất từ tâm từ bi chân chánh, từ tâm từ ái chúng sanh chân chánh.

Ta v́ ông lược nói

Nghe tên và thấy thân

Tâm niệm chẳng luống quên

Năng diệt khổ các Hữu.

Đức Phật nói: "Bây giờ ta nói sơ lược về công đức của Bồ Tát Quán Thế Âm này cho ông nghe." Phải là người có căn lành mới có thể nghe được danh hiệu của Bồ-tát này. Nếu người không có căn lành th́ cả danh tự của Bồ Tát Quán Thế Âm cũng không thể nào nghe thấy, huống chi là gặp được thân Ngài. Nói về "thấy thân" th́ không nhất định là thấy được nhục thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, mà là có thể thấy được h́nh vẽ của Bồ-tát này. H́nh vẽ ấy hoặc dùng đất đắp lên, hoặc chạm khắc bằng gỗ hoặc bằng sành sứ, cho đến bằng vàng, bạc, đồng, sắt đúc nên; thấy những h́nh tượng này cũng giống như thấy nhục thân của Ngài vậy. Chúng ta chỉ cần để tâm nơi đó, niệm niệm không quên danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, không cho xen tạp vọng tưởng để thời gian quư báu đó trôi qua uổng phí đi. Niệm Bồ Tát Quán Thế Âm có được công dụng ǵ? Có thể diệt tất cả khổ của các hữu. "Các hữu" là gọi chung cho Dục-giới-hữu, Sắc-giới-hữu và Vô-sắc-giới-hữu, tất cả gồm hai mươi lăm hữu. Hữu (realms of existence) ở đây nói chính là hai mươi lăm cơi trong Tam giới. Có bài kệ về hai mươi lăm hữu ấy như sau:

"Bốn châu (4), bốn nẻo ác (4)

Phạm vương (1), Lục dục thiên (6)

Vô tưởng (1), năm Na-hàm (5)

Bốn Thiền, bốn Không thiên (4)"

 

Giả sử sanh ḷng hại

Xô rớt hầm lửa lớn

Nhờ sức niệm Quán Âm

Hầm lửa biến thành ao.

Giả sử có người muốn hăm hại, ví như buôn bán chung với quư vị, cùng lên núi với quư vị. Khi đi qua vực sâu muôn trượng, người ấy v́ muốn giựt tiền vốn của quư vị bèn sanh tâm mưu hại, xô quư vị rơi xuống vực sâu. Ngay lúc đó, quư vị chỉ cần chí thành xưng niệm: "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát" th́ sẽ được b́nh an vô sự. Người kia dù có xô quư vị rớt trong hầm lửa đi nữa, th́ hầm lửa ấy cũng biến thành ao nước. Quư vị không cần phải dùng phương pháp nào khác, cũng không cần phải niệm bất cứ chú ǵ, chỉ cần nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm th́ sẽ có cảm ứng, sẽ được một sức mạnh vô h́nh đến cứu hộ, cảm ứng này thật bất khả tư ngh́. V́ thế chúng ta ở chỗ nào nơi nào cũng đều niệm Bồ Tát Quán Thế Âm th́ tương lai sẽ được Bồ-tát bảo hộ cho. Cảnh giới cảm ứng đó thật là nói không thể hết được.

Hoặc trôi dạt biển khơi

Các nạn quỷ, rồng, cá

Nhờ sức niệm Quán Âm

Sóng ṃi không ch́m được.

Trôi là trôi nổi lênh đênh theo gịng nước. Nếu như ở chỗ cạn hoặc nước đứng th́ không có vấn đề ǵ, người ta sẽ dễ dàng lên bờ. Nhưng nếu trôi ở giữa biển khơi, nh́n ra mù mịt không biết đâu là bến bờ th́ rất nguy hiểm. Trong biển cả thường có rồng độc, cũng có quỷ La-sát, và cá mập ăn thịt người nữa nên rất nguy hiểm. Lúc quư vị gặp những tai nạn này, nếu có thể niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm th́ dù sóng to cách mấy cũng không thể nào bị d́m chết được, mà bỗng nhiên quư vị sẽ được đưa vào bờ, hoặc tự nhiên trôi tấp vào chỗ nước cạn, hoặc gặp được thuyền khác đến cứu. Những việc này là do Bồ-tát Quán Thế Âm thị hiện để cứu thủy nạn. Cũng giống như hỏa nạn ở trước, nếu quư vị không biết niệm Bồ-tát Quán Thế Âm th́ sẽ rất nguy hiểm.

Nói đến đây, nhớ lại lúc ở Hồng Kông tôi có một đệ tử quy y xấu tánh. Xấu tánh như thế nào? Anh ta tên là Trương Ngọc Giai, đă làm hại người. Nhà anh ta mở tiệm thuốc tây, lời không biết bao nhiêu mà kể. Song, số tiền kiếm được là từ việc hại người. Sau khi Nhật Bản đầu hàng, v́ đất nước vừa trải qua khói lửa chiến tranh nên bịnh truyền nhiễm lan tràn, lúc ấy ở đại lục Trung Hoa chỗ nào cũng có bịnh ôn dịch hoành hành. Bấy giờ Trương Ngọc Giai cùng với một người rất giàu có hùn vốn đi buôn. Hai người cùng ngồi thuyền ra ngoại quốc để mua thuốc tây mang về Hồng Kông bán lại. Trên đường về, thuyền ra tới biển khơi, anh ta liền xô người bạn xuống biển. Người bạn ấy v́ không biết niệm Bồ-tát Quán Thế Âm nên bị chết đuối. Thế là Trương Ngọc Giai một ḿnh chiếm trọn cả số vốn thuốc tây ấy. Khi trở về Hồng Kông, anh ta bán lại được rất nhiều tiền. Anh ta lại c̣n ngụy tạo thuốc giả để bán, v́ thế càng phát tài thêm. Sau khi phát tài rồi thế nào? Đại khái là bị oan oan tương báo, anh ta mắc phải ung thư.

Bấy giờ ở Hồng Kông có sáu vị thầy thuốc rất giỏi, đều đoan chắc anh ta nội trong một trăm ngày là chết. Thế là anh ta lật đật đăng báo t́m người cứu mạng, hứa hẹn nếu ai có thể trừ tuyệt được chứng bịnh ung thư th́ anh ta t́nh nguyện tặng hai trăm ngàn Mỹ kim để đền ơn. Hồi ấy, hai trăm ngàn Mỹ kim ở Hồng Kông rất có giá trị, nhưng cũng không có người nào đến bày cách cứu mạng cho anh ta. Bấy giờ anh ta mới đến chùa lạy Phật.

Có một hôm, anh đến Tây Lạc Viên hỏi tôi làm sao có thể trừ được bịnh? Tôi nói với anh: "Muốn trừ được bịnh này, anh phải làm nhiều việc tốt, cúng dường Tam Bảo, gieo trồng công đức. Trước tiên anh phải quy y Tam Bảo, có như thế họa may bịnh anh mới đỡ được!"

V́ thế anh ta mới quy y với tôi vào ngày 18 tháng 9 âm lịch năm đó. Sau khi anh quy y rồi, tôi khuyên anh ta nên phát tâm làm việc tốt. Bấy giờ nhằm lúc người xuất gia từ Trung Hoa tỵ nạn đến Hồng Kông có đến hơn hai, ba ngàn người, nhưng đa số các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni ấy y phục chẳng đủ dùng, cũng không có nơi chốn để nương náu. V́ thế tôi mới bảo anh ta cúng dường cho mỗi vị Tăng hoặc Ni một xấp vải (may được hai bộ đồ tu) và hai mươi đồng tiền Hồng Kông, anh ta bằng ḷng với lời yêu cầu đó. Nhưng bấy giờ ở Hồng Kông có nhiều vị Thầy, nhất là lăo Pháp sư, nghe tin Trương Ngọc Giai quy y với tôi, bèn trổ hết thần thông ra. Trổ thần thông như thế nào? Vị này t́m bạn hữu, vị kia nhờ thân thích, lân la phan duyên với Trương Ngọc Giai, bảo anh ta đến chùa họ làm việc công đức. Những vị lăo Pháp sư này đều là người rất có danh vọng, lại là người có uy quyền trong Phật giáo, nên kết thân được ngay với Trương Ngọc Giai. V́ thế, Trương Ngọc Giai lúc th́ đi làm công đức ở chùa này, lúc lại làm công đức ở chùa nọ, thế rồi hai mươi đồng mà tôi kêu gọi cúng dường cho mỗi Pháp sư ở Đại Lục sang anh ta không cúng đủ. Anh ta chỉ cúng dường năm đồng và một xấp vải hạng trung mà thôi. V́ tôi đă nói với quư Thầy quư Sư cô là sẽ cúng dường mỗi vị hai mươi đồng mà bây giờ chỉ có năm đồng thôi th́ làm sao đây? Rốt cuộc chính tôi phải lén đi mượn tiền, không để cho người khác biết. Tiền mượn được cộng thêm năm đồng của Trương Ngọc Giai cho đủ hai mươi.

Trương Ngọc Giai không giữ lời hứa là v́ bị các vị lăo Pháp sư ấy dụ dỗ phan duyên thôi. Số tiền đó trước kia dự tính cúng dường cho chư Tăng Ni, nhưng lại dùng vào việc khác; v́ thế tôi cũng không có trách anh ta, việc đó coi như đă qua đi. Lúc trước các thầy thuốc đều đoán anh ta sống không quá một trăm ngày, bây giờ quá một trăm ngày anh ta vẫn c̣n sống, đến lúc đó các vị Ḥa thượng dụ dỗ phan duyên mới nói:

-A! Đó là kết quả do chúng tôi bái sám cho anh đó!

Vị lăo Pháp sư kia lại nói: "Đó là do chúng tôi chí thành tụng kinh cho anh đấy!"

Một vị Pháp sư nọ lại nói: "À! Chúng tôi mỗi ngày cầu nguyện cho anh trước Đức Phật đấy!"

Mỗi một vị Pháp sư đều có công hết! Lúc đó tôi không có chút công lao ǵ cả, tôi cũng không nói với anh ta vấn đề ǵ hết.

Qua sáu năm, Trương Ngọc Trai vẫn chưa chết, bấy giờ tôi đương cất chùa Từ Hưng ở núi Đại Dự, Hồng Kông. Ngôi chùa này đại khái có thể chứa được trên hai trăm người. Nghe tôi cất chùa, với bổn phận là đệ tử, anh ta sai người đem một số tiền đưa cho tôi làm chùa. Tôi không thèm để mắt đến, cũng chẳng mở ra xem, cầm liệng ra ngoài cửa, nói với người ấy:

-"Số tiền này có được không chính đáng, không trong sạch, tôi không cần những thứ tiền này, anh hăy cầm về trả lại cho ông ấy!"

Người gia nhân đem tiền về lại, việc đó làm Trương Ngọc Giai sợ quá! Anh ta lại nhờ một vị lăo Pháp sư dụ dỗ phan duyên lúc trước tên là Định Tây đến năn nỉ tôi và đưa tiền.

Tôi nói: "Bây giờ công tŕnh làm chùa đă xong, tôi không cần tiền nữa. Anh ta có tiền, có thể làm những công đức phụ khác. Có biết bao nhiêu là chùa, bao nhiêu vị Pháp sư, anh ta thích làm ǵ th́ cứ làm."

Vị lăo Pháp sư ấy không tiện nói tiếp bèn trở về. Hai năm sau, vào tháng Giêng, tôi tuyên cáo với mọi người: "Trương Ngọc Giai quy y với tôi đă tám năm rồi, tôi vốn đợi anh ta thực hiện lời hứa, nhơn v́ anh ta phát tâm cúng hai trăm ngàn Mỹ kim để làm chùa mà cho đến bây giờ vẫn chưa thực hiện. Tôi không đợi được nữa, về sau Trương Ngọc Giai có xảy ra bất cứ vấn đề ǵ, tôi cũng không biết đến."

Sau khi nói mấy câu đó, chưa đầy nửa năm, bịnh ung thư của anh ta tái phát. Khi sắp chết, anh ta lại sai người đến cầu xin tôi. V́ anh ta đến chùa khác lễ bái, làm các Phật sự đều không linh nghiệm, không có cảm ứng, nên mới lại t́m đến tôi. Nhưng tôi cũng không biết đến, tôi nói là tôi đă phát biểu không c̣n biết đến bất cứ việc ǵ của anh ta kia mà. Thế rồi mấy ngày sau anh ta chết. Kỳ lạ thay, Pháp sư Định Tây, người dụ dỗ phan duyên anh ta lúc trước, cũng mắc chứng ung thư, bịnh khoảng hơn một năm cũng chết. Lại c̣n có một vị cư sĩ theo lăo Pháp sư móc nối Trương Ngọc Giai với Pháp sư Định Tây, cũng mắc bịnh ung thư mà chết. V́ thế có thể nói bọn họ ba người là nhất thể, sống th́ cùng sống, và chết v́ một chứng bịnh như nhau. Tại sao Trương Ngọc Giai lại bị chết như thế? V́ anh ta xô người bạn rớt xuống biển chết ch́m. Người ấy lúc sống không biết niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, chắc chắn là sau khi chết làm oan hồn đến báo ứng khiến cho Trương Ngọc Giai sanh bịnh ung thư. Lẽ ra, Trương Ngọc Giai đă quy y Tam Bảo, nếu anh ta có ḷng tin chân chánh th́ cũng không phải chết. Nhơn v́ ḷng tin không vững chắc, dù cho không chết sau khi quy y một trăm ngày, nhưng tám năm sau cũng phải chết.

Hoặc ở đỉnh Tu Di

Bị người xô rớt xuống

Nhờ sức niệm Quán Âm

Như mặt nhật trên không.

Tu Di là tiếng Phạn, dịch là núi Diệu Cao, là núi cao lớn nhất trong vũ trụ. Đỉnh Tu Di ở đây, không nhất định là chỉ đỉnh núi Tu Di, mà là chỉ chỗ rất cao. Nghĩa là giả sử quư vị đang ở trên đỉnh cao chót vót, cao như núi Tu Di vậy, mà bị người xô té xuống, ngay lúc ấy, nếu quư vị có thể niệm Bồ Tát Quán Thế Âm th́ sẽ như mặt nhật trên không, tức như là mặt trời đang ở giữa hư không, không thể bị tổn hoại. Chẳng phải chỉ nói ở trên núi cao xô quư vị té chết, mà cũng có thể là có người bảo quư vị leo đến đầu thang, chờ lúc quư vị đến chỗ cao nhất, họ mới chặt phía dưới thang. Bây giờ quư vị muốn lên cũng không được mà muốn xuống cũng không xong; đó gọi là lên không lên, xuống không xuống, t́nh trạng rất là nguy hiểm.

Cũng như thế, giả sử mọi người đều cung kính quư vị, khen ngợi quư vị đến cực điểm, rồi sau lại không cung kính nữa, làm quư vị chới với như thể từ trên chót núi Tu Di té ngă xuống. Lúc bấy giờ nếu quư vị có thể niệm Bồ Tát Quán Thế Âm th́ sẽ không có phiền năo ǵ cả, giống như mặt trời ở giữa hư không chiếu sáng muôn dặm, không c̣n có chút phiền năo ǵ, mà trái lại, rất thư thái, rất có định lực, khen chê đều không động tâm. Đây cũng là một ư nghĩa khác của câu "Như mặt nhật trên không."

Hoặc bị người ác đuổi

Rớt xuống núi kim cương

Nhờ sức niệm Quán Âm

Chẳng tổn đến mảy lông.

Thế nào là người ác? Đó là người không biết đạo lư, chuyên làm việc giết người, đốt nhà. Lư lẽ của họ là: "Của anh là của tôi, của tôi cũng là của tôi. Tiền của anh là của tôi, tiền của tôi lại là của tôi." Quư vị xem việc đó có đúng đạo lư không? Những người ác đó có cường quyền mà không có công lư. Họ chỉ dùng thế lực để hiếp đáp người khác mà không kể đến công lư là ǵ. "Rượt đuổi" là quư vị chạy đi đâu, họ cũng theo quư vị đến đó, luôn luôn canh chừng quư vị. Giả sử quư vị bị những người ác như thế rượt đuổi, nhơn một lúc sơ hở không cẩn thận, không chú ư, quư vị bị rơi vào vực sâu muôn trượng của núi kim cương. Nếu quư vị không niệm Bồ-tát Quán Thế Âm th́ sẽ rớt vào trong khe núi, chắc chắn sẽ mất mạng, thậm chí xương thịt tan nát, toàn bộ da thịt gân xương đều nát nhừ như cám, không t́m thấy tử thi đâu cả. Nhưng nếu quư vị có thể niệm Bồ Tát Quán Thế Âm th́ ngay đến một sợĩ lông cũng không bị hao tổn. Quư vị thấy có kỳ lạ không chứ! Núi kim cương biểu thị cho vách cao muôn trượng, cứng rắn phi thường, rắn chắc như là kim cương vậy. Khi gặp những sự nguy hiểm như thế mà quư vị có thể niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, th́ nhất định có đại cảm ứng - Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ đến cứu độ quư vị, khiến cho việc rủi hóa may, gặp hung hóa cát, nguy mà không nguy, hiểm mà chẳng hiểm.

Hoặc gặp oán tặc vây

Cầm dao muốn gia hại

Nhờ sức niệm Quán Âm

Đều liền khởi từ tâm.

Phía trước đềụ cập đến người ác là những người c̣n có chút kiêng dè, không phải là hại người công khai. Oán tặc nói ở đây chính là kẻ ngang nhiên đánh cướp của cải, giết người đốt nhà, không việc ác nào chẳng làm. Những ǵ chúng ta gặp phải đều có quan hệ nhân quả đời trước. "Oán tặc" chính là những người có oán hận với ta, hoặc là đời trước ta từng trộm cắp đồ vật của họ, hoặc giết hại họ, hoặc có điều không phải với họ, cho nên đời này mới gặp nhau liền biến thành oán tặc. Ấy gọi là: "Giết người phải thường mạng, thiếu nợ phải trả tiền." Quư vị giết người ta, người ta cũng sẽ giết lại quư vị; quư vị cướp của người, th́ phải trả tiền lại cho họ. Tất cả mọi thứ đều có sự quan hệ liên đới.

Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi từng nêu lên một công án.

-Ngài nói: "Tôi đời đời kiếp kiếp giữ giới không trộm cắp, chưa từng trộm cắp đồ vật của ai, lấy ǵ để chứng minh? Tôi có thể lấy một hạt châu rất đắt tiền để ngay nơi cửa thành, không cần phải canh, mà ba ngày sau vẫn c̣n nguyên vẹn, không bị người lượm mất. Do đó có thể chứng minh rằng lời nói của tôi là thành thật."

Nhưng vẫn có người không tin, nên Ngài thí nghiệm thử. Ngài lấy một hạt châu quư đem ra cửa thành thả ở chỗ đông người, dễ thấy nhất. Quả nhiên ba ngày sau, hạt châu vẫn ở chỗ cũ, không bị người nhặt lấy. Đó là do Ngài đời đời kiếp kiếp giữ giới trộm cắp rất thanh tịnh, cho nên mới có quả báo ấy.

V́ thế, chúng ta hiện đời nếu gặp oán tặc th́ đành phải cam chịu; cho dù bị mất những thứ ǵ hoặc bị tổn thất ǵ, đều không cần phải quá buồn bă, mà phải vui vẻ đón nhận, không nên oán trời trách người.

Nhớ lại hồi ở chùa Nam Hoa tôi đă từng gặp phải nạn oán tặc. Năm nọ, trước vía Quán Âm - ngày 19 tháng 9 - một ngày, có rất nhiều thổ phỉ muốn đánh cướp chùa Nam Hoa. Bọn họ đập cửa ầm ầm, nhưng tôi không mở. Một lát cửa sau bị bọn thổ phỉ phá tung.

Lúc đó, trước sau và hai bên đều có thổ phỉ cầm súng chĩa về phía tôi, nói: "Muốn chết cho chết luôn." Có tên hét lên dọa đánh tôi. Nhưng lúc đó tôi không cảm thấy sợ hăi ǵ cả, nói chuyện với họ rất tự nhiên.

Tôi hỏi họ: "Tại sao các anh muốn đánh tôi?"

Họ hỏi vặn lại: "Tại sao ông không mở cửa?"

Tôi trả lời: "Giả sử anh là tôi, và tôi là anh, hẳn các anh cũng không muốn mở cửa! Tại sao thế? V́ các anh đến đây là để lấy đồ vật của tôi chớ không phải là tặng quà."

Nghe tôi nói thế, họ lại bảo: "Đưa chi phiếu ra đây!"

Lúc đó tôi đương mặc một chiếc áo tràng vá nát, tôi nói: "Các chú xem chiếc áo tôi đang mặc đây này, th́ cũng biết tôi là người có chi phiếu không?"

Chúng nh́n qua một lượt, lại hỏi: "Vậy ở đây ai có tiền hả?"

Tôi nói: "Tôi là Giáo thọ của Phật học viện này, các vị kia đều là học sinh cả. Tôi làm Giáo thọ mà không có tiền, th́ học sinh làm ǵ có tiền? Nếu mấy chú không tin th́ cứ vào pḥng tôi xem thử. Nếu thấy có vật ǵ đáng giá hoặc có bảo bối ǵ th́ cứ cầm lấy!"

Lúc ấy trong pḥng tôi thậảt ra có hai món bửu bối, mà lại là hai bửu bối "sống." Ấy là một chú Sa-di và một vị Pháp sư. Hai người này khi nghe thổ phỉ đến kêu cửa, th́ tay chân bủn rủn, sợ đến nỗi đi không được, ḅ đến chỗ tôi nói:

-"Pháp sư ơi, làm sao bây giờ? Tôi sợ quá đi mất!"

Tôi nói: "Không sao đâu! Quư vị cứ vào pḥng tôi, chui đại xuống gầm giường trốn là được!"

Bấy giờ tôi lại bảo bọn thổ phỉ đi vào pḥng xem cái ǵ lấy được th́ lấy, cả hai người sợ đến phát run lẩy bẩy, răng đánh vào nhau cầm cập! Rốt cuộc bọn thổ phỉ lại không vào pḥng tôi. Ngay lúc đó, có vị Pháp sư thấy tôi nói chuyện với bọn thổ phỉ có vẻ thân thiện, cũng từ trong pḥng bước ra định góp chuyện.

Thầy vừa bước ra, bọn thổ phỉ thật lạ lùng, vội bước lên chĩa súng vào người, vây quanh đ̣i đánh, làm Thầy sợ hăi đến phát khóc. Lúc đó trong ḷng tôi rất khó chịu, tôi nói:

-"Ông ấy cũng không có tiền đâu, các ông muốn tiền th́ cứ đ̣i ở tôi đây nè!"

Nhưng bọn thổ phỉ không để ư ǵ đến tôi, cứ theo ông ta đ̣i tiền. Ông ta nói:

-"Hăy vào pḥng tôi mà lấy!"

Nói rồi dẫn bọn thổ phỉ đi lấy hơn hai trăm đồng. Có lẽ là tiền dành dụm được trong bao nhiêu năm, cuối cùng rơi vào tay thổ phỉ.

Qua ngày hôm sau, vị Pháp sư ấy nói với các Tăng sinh rằng:

-"Ở chùa Nam Hoa có hơn hai trăm người mà chỉ có vị Pháp sư này là không biết sợ thôi."

Tôi mới nói với các vị ấy: "Không phải chỉ ḿnh tôi đâu, trong chùa có đến bốn vị không biết sợ đấy."

Vị thứ nhất là ai?

-"Là Lục Tổ Đại sư, Lăo tăng nhập định ngồi ở đó như như bất động. Thổ phỉ đến là việc của họ, họ cướp cái ǵ th́ cướp, Ngài không để ư đến.

-"Người thứ hai là Hám Sơn Đại sư, Ngài cũng ngồi như lăo tăng nhập định, yên lặng không lay động.

-"Người thứ ba là Đan Điền Tổ sư, Ngài không có đại định lực như Lục Tổ và Hám Sơn Đại sư, c̣n ngước đầu lên (v́ nhục thân của Ngài lưng hơi c̣ng) nh́n bọn thổ phỉ.

-"Người thứ tư mới đến lượt tôi."

"Hoặc gặp oán tặc vây; Cầm dao muốn gia hại; Nhờ sức niệm Quán Âm; Đều liền khởi từ tâm." Khi gặp bọn oán tặc tôi không sanh tâm lo sợ, mà rốt cuộc bọn thổ phỉ ấy không đánh cũng không bắn tôi ǵ cả. Tại sao thế? V́ lúc đó tôi đă niệm Bồ Tát Quán Thế Âm; ban đầu họ đối với tôi rất hung dữ, nhưng thấy tôi là một ông thầy tu rách rưới, mới nghĩ: "Ông thầy tu này thiệt đáng thương!" nên phát khởi ḷng từ bi mà không gây phiền phức cho tôi.

Hoặc bị khổ phép vua

Sắp bị đem hành h́nh

Nhờ sức niệm Quán Âm

Dao găy vụn từng đoạn.

Phép vua th́ không vị nể nhân t́nh. Nếu phạm phải phép vua th́ bị chém đầu. Nhưng cũng có người không phạm mà bị bắt chém đầu là do bị vu cáo; do đó, luật pháp của quốc gia có lợi ích cho người mà cũng có khi làm hại người. Lợi ích là bởi có thể trừng phạt những người phạm tội, c̣n có hại là đối với những người không phạm pháp mà bị người vu khống. Ví như có người làm chứng giả, nói:

"Anh ta làm những việc xấu xa như thế, chính mắt tôi thấy đây!"

Thế rồi các quan ṭa cũng không kể là "ba bảy hăm mốt," phán quyết ngay là người ấy có tội, bắt đem chém đầu, nhưng thực ra đương sự không có làm những việc phạm pháp ấy. Luật sư không chánh nghĩa, người phạm pháp rơ ràng có thể biện hộ cho họ thành vô tội, c̣n người rơ ràng không có tội, lại chứng minh là có tội. Quư vị xem trên thế giới này, muốn t́m được chân lưụ th́ t́m ở đâu chư? Trên thế gian này thực ra không có chân lư mà chỉ có cường quyền thôi. Muốn t́m chân lư th́ phải t́m ở trong Phật giáo. Cho nên, quư vị hoặc có tội, hoặc không tội, mà vướng phải luật pháp, lúc sắp bị hành h́nh, trong thời gian ngắn ngủi ấy (chỉ e rằng quư vị sợ quá đến nhũn người đi rồi quên tất cả thôi) nếu quư vị không quá sợ hăi, vẫn nhớ niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, th́ ngọn dao sắp chém đầu quư vị sẽ tự nhiên găy vụn thành từng đoạn, chứng tỏ rằng cổ của quư vị cứng hơn kim cương cho nên dao mới găy nát như vậy. Nhưng nếu quư vị có ḷng hoài nghi, cố ư phạm tội, th́ đầu quư vị nhất định bị rơi rụng. Đó là v́ đối với Bồ Tát Quán Thế Âm, quư vị không có ḷng tin, chỉ muốn thử nghiệm, th́ đương nhiên không thể có cảm ứng được. Nếu có ḷng tin chân chánh th́ tất cả mọi việc đều có cảm ứng.

Hoặc tù cấm già tỏa

Tay chân bị xiềng xích

Nhờ sức niệm Quán Âm

Bỗng nhiên được giải thoát.

Thế nào gọi là tù? Theo chữ Hán, tù (囚) tức là người (人) bị nhốt trong bốn bức tường (口). Cấm là ngăn cấm không được tự do. Già nghĩa là cái gông. Phạm nhân chẳng những bị nhốt vào trong ngục mà c̣n phải mang gông nữa. Cái gông là gồm hai miếng gỗ kháp lại, ở giữa có khoét một lỗ hổng vừa đủ rộng để mang vào cổ và có thể khóa lại để tội nhân không thể nào trốn được. Tỏa tức là xiềng cùm chân, xích khóa tay.

Như tôi từng nói, phàm người có gia đ́nh phải nên sớm giác ngộ, chớ để cho ba việc lớn giam hăm. Ba việc ấy là ǵ? Cha mẹ ví như cái gông mang trên cổ, con cái th́ như cái c̣ng tay. Đừng cho rằng có con cháu là thích ư, loại c̣ng này một khi mang vào th́ cởi không ra. Có vợ th́ không khác nào bị xiềng chân lại, cũng không được tự do.

Hôm nay, có một người đệ tử, nói thế này:

-"Tôi mượn của chánh phủ hơn hai ngàn đồng, nếu bây giờ muốn xuất gia th́ hai ngàn đồng này không thể trả được, cho nên trước hết phải đi làm để trả xong hết nợ rồi mới quyết định xuất gia được."

Anh ta nói thiệt hay giả tôi không cần biết, tôi chỉ xin nói trước với mọi người là có thể khi anh ta trả hết nợ rồi th́ chân lại bị mắc vào một thứ cùm nào đó, nhưng tôi hy vọng là anh ta sẽ không mang cùm để có thể làm một vị nhân thiên sư biểu của nước Mỹ. Tôi đem việc này nói với mọi người đểạ ai nấy cùng cầu nguyện, chúc anh ta được thành công sớm làm lănh tụ Phậât giáo nước Mỹ.

Hiện tại nước Mỹ rất cần người xuất gia, hễ có ai muốn xuất gia, bất luận trước kia họ là người như thế nào, tôi đều nhiệt liệt tán thán, chỉ cần sau khi xuất gia họ có thể tuân giữ quy củ là được. Tôi tận lực đào tạo hàng Trưởng lăo cho nước Mỹ, nhưng tự họ không theo kịp v́ không có căn bản, rễ chưa bám sâu. Tuy nhiên, tôi mong muốn vun bồi để trong giới Phật giáo nước Mỹ, mỗi người xuất gia đều là một vị Trưởng lăo, thậm chí là một Tổ sư của đạo Phật ở nước Mỹ.

Tay chân một khi bị h́nh cụ trói buộc, mất hết tự do th́ phải làm sao? Chỉ cần niệm Bồ-tát Quán Thế Âm th́ tự nhiên được giải thoát.

Trước đây ở Trung Hoa có một vị Ḥa thượng bị dân tộc miền núi (người Dao) bắt được, trói lại nhốt trong pḥng. Dân ở đây tánh t́nh rất dă man, chuyên môn bắt người Hán giết để ăn thịt. Vị Ḥa thượng này lúc b́nh thường rất tin tưởng Bồ Tát Quán Thế Âm, cho nên lúc đó ngài không hề sợ hăi, chỉ nhất tâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Ông cứ niệm, niệm măi, kết quả có một con hổ đến pḥng giam của ngài phá tung cửa để ngài tự do trốn thoát. Găẽp cảnh nguy hiểm như thế mà lại có thể hóa nguy thành an, cho nên niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm được sự ứng nghiệm không thể nói hết được.

Chú trớ, các thuốc độc

Muốn hại đến thân đó,

Nhờ sức niệm Quán Âm

Người gây lại gánh chịu.

Chú là niệm chú; Trớ cũng giống như chú. Chú có rất nhiều thứ, Mật tông có nhiều chú nhất. Các vị Lạt-ma ở Tây Tạng có một loại chú, chỉ cần niệm trong bảy ngày là có thể khiến người khác chết được. Có thứ chú giết người, có thứ chú làm lợi ích cho người. Chú nói ở đây là thứ chú hại người. Các thuốc độc là chỉ chung cho tất cả các loại thuốc độc. Khi quư vị gặp phải những loại chú trớ, thuốc độc làm phương hại đến cơ thể, trong t́nh cảnh đó, nếu quư vị nhất tâm niệm: "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát," th́ những chú trớ cùng thuốc độc này chẳng những không thể làm hại được quư vị mà c̣n trở lại làm hại chính hung thủ.

Xưa kia ở Trung Hoa có một người chuyên môn đoán quẻ và đoán rất đúng. Do đâu mà người ấy đoán được linh diệu như thế? V́ trong thân người ấy có yêu quái ma quỷ giúp đỡ. Thứ ma quỷ này mỗi năm ăn một đứa đồng nam và một đứa đồng nữ, do đó ông thầy bói toán này mỗi năm đều phải bắt cóc một đứa bé trai và một đứa bé gái để cúng tế ma quỷ ấy. Năm đó, ông ta bắt được một đứa bé gái mà ở nhà thường được dạy niệm Quán Thế Âm Bồ-tát. Đương lúc bị nhốt trong pḥng để chờ ma quỷ đến ăn thịt, đứa bé ấy liền niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm. Một lát sau, ma quỷ đến và đứng ngoài cửa sổ nh́n vào. Từ mắt của quỷ phóng ra hai luồng ánh sáng chiếu thẳng vào người đứa bé. Đứa bé ấy nhơn miệng niệm Bồ-tát Quán Thế Âm nên từ trong miệng nó cũng phóng ra một luồng ánh sáng. Bỗng nhiên đứa bé cảm thấy có một cái ǵ thật lớn từ trên nóc nhà rớt xuống. Ngỡ là yêu quái đến sắp ăn thịt ḿnh, đứa bé sợ quá kêu toáng lên. Đúng lúc ấy, bên ngoài có vị quan đi tuần đêm vừa tới, nghe thấy trong nhà có tiếng con nít kêu khóc cầu cứu bèn phá cửa xông vào, và phát hiện xác một con đại măng xà. Con đại măng xà này chính là loại Ma-hầu-la-già (Maharaga).

Kết quả là người bói toán ấy bị quan phủ bắt, và thẩm vấn: "Tại sao ông bắt bé gái ấy nhốt trong đó?"

Ông ta đáp: "Tôi được một vị tiên giúp tôi bói toán, vị tiên ấy mỗi năm phải ăn một bé trai và một bé gái. Mấy năm nay tôi đều cúng tế như vậy, nhờ thế vị tiên ấy giúp tôi bói toán rất linh nghiệm, kiếm được rất nhiều tiền."

Thế rồi ông ta bị bắt giam vào ngục, xử phạt theo pháp luật. Vị thầy bói ấy bói toán rất linh nghiệm, nhưng không tính được kết cuộc của chính ḿnh là bị luật pháp trừng phạt và chém đầu răn chúng.

Đó là một thí dụ về: "Chú trớ, các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, nhờ sức niệm Quán Âm, người gây lại gánh chịu." Cho nên, hại người rốt cuộc là hại chính ḿnh vậy!

Câu "Người gây lại gánh chịu," ngày xưa Tô Đông Pha đă từng sửa là "Hai bên đều vô sự." Ông ta cho là Phật giáo rất trọng ḷng từ bi, nếu nói "Người gây lại gánh chịu" tức là làm hại chính người ấy th́ há chẳng phải là thiếu từ bi sao? Câu sửa của ông ta có ư nói: Người niệm chú trớ và người bị trù ếm thảy đều b́nh an vô sự. Kỳ thật, ư đó là sai lầm. Tại sao thế? Phật giáo tuy dạy giới sát, phóng sanh, nhưng mà "trừ bạo để được an lành." Trừụ ác chính là một mặt của thiện. Giả như không trừ người ác, họ sẽ làm hại đến người lương thiện.

Nếu họ trù ếm, hay dùng thuốc độc hại người mà kết cuộc họ không bị hề hấn chi, há không phải là khuyến khích cho họ sao? Họ không hại được người, nhưng trước sau vẫn có ư muốn hại người. Họ hại không được người này th́ lại có ư muốn hại người khác, mà người khác ấy nếu không biết niệm Bồ Tát Quán Thế Âm th́ có thể bị chết v́ họ! Nếu biết niệm, dĩ nhiên họ hại không được rồi; nhưng người không biết niệm Bồ Tát Quán Thế Âm lại rất nhiều, nên nói "Hai bên đều vô sự" th́ không đúng, phải là "Người gây lại gánh chịu" mới không lầm lẫn. Phải khiến cho người ác tự họ chịu đựng một ít khổ, họ nhận lấy quả báo ấy cũng là xứng đáng, để về sau họ tự nhiên không dám hại người nữa.

Hoặc gặp ác La-sát

Rồng độc các quỷ dữ

Nhờ sức niệm Quán Âm

Thảy đều không dám hại.

Hoặc là quư vị đến nơi núi hoang rừng vắng, chỗ không có bóng người, và gặp phải quỷ La-sát, rồng độc, hay các loài quỷ khác. Quỷ La sát hung dữ phi thường, giống như người Dao ở Trung Hoa chuyên môn ăn thịt người vậy. Rồng độc cũng có thể hại người. Chúng thường chiếm cứ một vùng, hoặc trong ao hồ, hoặc ở sông lớn, hễ có người đi qua chỗ ở của chúng th́ bị chúng phun nọc độc, trúng vào phải chết. Có thứ rồng độc lớn, thậm chí hớp một hơi có thể khiến cả thuyền và người đều chạy tuốt vào bụng, thật là lợi hại! C̣n quỷ, th́ chẳng phải chỉ có một thứ mà có rất nhiều, như Đa tài quỷ, Thiểu tài quỷ, Vô tài quỷ v.v... "Đa tài quỷ" như là các vị Thổ địa, Thành hoàng. Họ tuy đều là quỷ, nhưng là thủ lănh của quỷ, cũng như Quỷ vương vậy. "Thiểu tài quỷ" là quỷ nghèo, dù cho có tiền cũng có rất ít. "Vô tài quỷ" th́ thực sự là không có tiền của chi cả. Vậy th́, quỷ mà c̣n dùng tiền sao? Thật ra quỷ không cần dùng tiền, nhưng do tập quán xấu cho nên bọn Đa tài quỷ khi cai quản những quỷ khác cũng tham ô. Thiểu tài quỷ, Vô tài quỷ cũng giống như người ta vậy, suốt ngày từ sáng tới tối đều mong muốn có thêm được tí tiền. Tuy không cần dùng tiền, nhưng v́ bọn họ chấp trước thành thói quen, thành một thứ mê muội, cho nên mới ưa thích tiền. Tiền họ dùng là tiền giấy, ở Trung Hoa người ta thường đốt giấy tiền cho quỷ chính là muốn mua chuộc, lấy ḷng bọn quỷ.

Nếu quư vị gặp những quỷ La-sát, rồng độc hoặc các thứ quỷ thần ấy, quư vị có thể niệm Bồ-tát Quán Thế Âm th́ những ác quỷ ấy tự nhiên trốn mất. Tại sao thế? Tại v́ khi quư vị niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, trong miệng có phát ra ánh sáng, tất cả những loài quỷ đều sợ ánh sáng nên không thể làm hại quư vị được.

Hoặc ác thú vây quanh

Nanh vuốt nhọn đáng sợ

Nhờ sức niệm Quán Âm

Đều vội vàng bỏ chạy.

Ác thú tức là lang sói, hổ, beo, những dă thú này chuyên môn ăn thịt người. Ở các núi của nước Mỹ không có hổ, nhưng ở Trung Hoa và Ấn Độ th́ hổ rất nhiều. Lúc nhỏ, có lần tôi đi vào trong núi, đi 5, 6 ngày trời vào chỗ không có người ở, có gặp những ác thú ấy. Nhưng tôi rất lấy làm lạ là không biết tại sao chúng không ăn thịt tôi. Răng của ác thú bén nhọn như dao, móng vuốt cứng chắc như móc sắt. Đương khi quư vị gặp những ác thú vây quanh như thế mà biết niệm ngay Bồ-tát Quán Thế Âm, th́ bọn chúng chẳng những không dám làm hại quư vị mà c̣n bỏ chạy tức khắc. Tại sao lại bỏ chạy? V́ Bồ-tát Quán Thế Âm có sức cảm ứng linh thiêng (linh cảm) khiến cho bọn chúng một khi nh́n thấy quư vị, tự nhiên sanh ḷng sợ hăi, lật đật trốn chạy xa.

Ngoan xà và phúc yết

Khí độc xông mịt mù

Nhờ sức niệm Quán Âm

Theo tiếng tự bỏ đi.

Ngoan xà là một thứ rắn độc, phần lớn màu đen. Phúc, ở Trung Hoa gọi là Diên xà (rắn mối), thường thấy ở trên diềm mái nhà. Thứ rắn này rất nhiều ở Thái Lan, thường xuất hiện vào buổi tối và ré lên, cũng không sợ người. Nó có bốn chân nhỏ, thường chạy tới chạy lui ở trên mái nhà.

Phúc xà là loại rắn rất độc. Yết tức là ḅ cạp, nếu ai bị nó đốt th́ có thể trúng độc lập tức chết ngay. Bọn chúng đều có khí độc xông mịt mù, thật là độc dữ vô cùng! Thậm chí làm cho người mất mạng như chơi. Dù gặp phải những loại rắn độc như thế, nếu bọn chúng nghe tiếng quư vị niệm "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát" th́ sẽ đều tự động chạy trốn mất, không dám tác oai, tác quái nữa.

Mây sấm điện chớp giăng

Tuôn mưa đổ như trút

Nhờ sức niệm Quán Âm

Tức thời được tạnh yên.

Trên trời thường có các thứ tai hại như mây sấm chớp nháng hoặc mưa đá xối xả. Có những lúc mưa đá lớn bằng nắm tay, có khi lớn bằng trứng gà, có khi hạt mưa nặng đến mấy mươi cân, thậm chí mưa rơi trúng ḿnh trâu, trâu té chết ngay. Nếu rơi trúng thân người, chẳng cần phải nói, hậu quả cũng có thể đoán được. Hoặc lúc mưa gió to ấy, nếu quư vị có thể niệm Bồ-tát Quán Thế Âm th́ không lâu sau, những hiện tượng ấy sẽ nhanh chóng ngưng bặt, không c̣n nữa.

Chúng sanh bị khổn ách

Vô lượng khổ bức thân

Quán Âm sức trí diệu

Hay cứu khổ thế gian.

Chúng sanh tức là do các duyên ḥa hợp mà sanh ra. Lại nữa, chúng sanh có ngàn trăm vạn loại khác nhau, cho nên gọi là chúng sanh. Cũng có thể giải thích: "Chúng sanh," chính là sanh ra rất nhiều. Quư vị thấy chữ "chúng" (眾) của Trung Hoa, ở trên là chữ "tứ" (四), ở dưới là ba chữ "nhân" (人), ba người hợp lại một chỗ gọi là "chúng." Loài rắc rối nhất trong chúng sanh là loài nào? Chính là "nhân" (loài người). Con người cần phải mặc áo, phải ăn cơm, phải làm việc, biết bao nhiêu là phiền phức, không kể hết! Nhưng loài có đầy đủ trí tuệ cũng lại là loài người. Những loài súc sanh tuy chẳng có biết bao phiền phức đó, nhưng chúng lại quá ngu si, không có trí tuệ như con người, nên phải bị con người sai khiến và chi phối.

Ở Trung Hoa có câu: Nhân vi vạn vật chi linh.

Người là vật thông minh nhất trong vạn vật. Nhưng thông minh nhất có lúc cũng lại làm việc ngu si nhất, lại tự gây phiền phức cho ḿnh, chính ḿnh đánh nhau với ḿnh. Thế nghĩa là sao? Tức là lúc "bị khổn ách." Chữ "khổn" này hàm ư:

Thiên hạ bổn vô sự, dung nhơn tự nhiễu chi

(Thiên hạ vốn b́nh yên, kẻ khờ tự khuấy động)

v́ thế mới có vô lượng nỗi khổ. Không có cơm ăn là khổ, không có áo mặc cũng khổ, không có nhà ở cũng khổ, biết bao nhiêu là khổ, kể măi không hết! Suốt ngày v́ áo, cơm, nhà ở; cả đời vội vội vàng vàng v́ t́m kiếm sự ăn mặc, thậm chí cướp cái này giựt cái nọ chỉ để duy tŕ sinh mạng cho chính ḿnh. Tại sao phải duy tŕ sinh mạng cho chính ḿnh? Cũng nhân v́ bị "khổ" bức bách, kết quả phải chiêu lấy vô lượng khổ bức thân!

Bồ-tát Quán Thế Âm có sức trí tuệ vi diệu bất tư ngh́, có thể cứu giúp mọi khổ nạn của thế gian; v́ thế chúng ta làm người, gặp bất cứ sự việc không vừa ư nào, chẳng cần phải lo rầu khổ năo, chỉ cần niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, th́ mọi vấn đề đều có thể từ từ giải quyết. Chỉ cần quư vị có ḷng thành đối với Ngài th́ Bồ-tát Quán Thế Âm chắc chắn sẽ đến giúp đỡ quư vị ngay.

Đầy đủ sức thần thông

Rộng tu trí phương tiện

Các cơi nước mười phương

Không chỗ nào chẳng hiện.

Sức thần thông là ǵ? Thần thông gồm có sáu loại.

-Thứ nhất là Thiên nhăn thông. Với Thiên nhăn, quư vị có thể thấy được những động tác của các thiên nhân ở cơi trời Tam thập tam (Đao Lợi).

-Thứ hai là Thiên nhĩ thông. Với Thiên nhĩ, quư vị có thể nghe thấy tất cả âm thanh của mười phương thế gian trong loài người cũng như ở cơi trời.

-Thứ ba là Tha tâm thông, khả năng biết được ư nghĩ của người khác.

-Thứ tư là Túc mạng thông, khả năng biết rơ nhân quả các đời trước.

-Thứ năm là Thần túc thông, cũng gọi là Thần cảnh thông, tức là khả năng bay đi, biến hóa một cách tự tại.

-Thứ sáu là Lậu tận thông.

Thứ thần thông này không dễ ǵ đạt được. Tất cả quỷ thần đều có năm thứ thần thông đầu, chỉ riêng Lậu tận thông này là họ không có được. Bồ Tát Quán Thế Âm có đầy đủ trọn vẹn sáu thứ thần thông này, nên gọi nói là "Đầy đủ sức thần thông."

Rộng tu trí phương tiện, do chữ "rộng" này mà biết Ngài không phải chỉ tu một pháp môn, mà c̣n tu các pháp môn khác nữa. Giống như chúng ta bây giờ không chỉ nghe kinh, mà cũng học Phật pháp, học Hán văn, lại học chú Lăng Nghiêm, chú Đại Bi; chú Lăng Nghiêm, chú Đại Bi học xong rồi lại đến Đại Bi sám. Đại Bi sám mà chưa hiểu rơ, lại phải học nữa! Ấy gọi là "học không chỗ dừng, chỉ siêng đến bến." Chúng ta phải nên học tập theo tinh thần "rộng tu trí phương tiện" khi tu nhơn của Bồ Tát Quán Thế Âm mới được. Ở các quốc gia trong mười phương, không có một nước nào mà Bồ Tát Quán Thế Âm không hiện đến. Bất cứ chỗ nào cũng đều hiện đến, nên Bồ Tát Quán Thế Âm đối với tất cả chúng ta đều có duyên. Chỉ cần ai chịu niệm danh hiệu của Ngài th́ Ngài sẽ bảo hộ người ấy. Nếu không niệm Bồ Tát Quán Thế Âm th́ sao? Đương nhiên là Ngài đành sẽ bỏ mặc quư vị thôi! Tại sao thế? V́ quư vị và Ngài không có chút quan hệ nào cả! Ngay cả danh hiệu của Ngài quư vị cũng không muốn biết, cũng không muốn niệm, Ngài bèn nói:

-"À, nó không muốn làm bạn với ta, ta cũng không nên để ư tới những việc không đâu của nó."

Nếu muốn làm bạn với Bồ Tát Quán Thế Âm, th́ phải niệm cho nhiều "Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát." Một khi quư vị niệm danh hiệu Ngài, th́ Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ nói:

-"À, ta lại có thêm một người bạn nữa. Được! Người bạn mới này của ta nếu có việc ǵ, ta sẽ đến giúp đỡ."

Có người muốn biết Thiên nhăn thông làm sao chứng được. Có rất nhiều phương pháp. Quư vị chuyên tâm tụng chú Lăng Nghiêm cũng có thể được Thiên nhăn thông; hoặc quư vị tụng chú Đại Bi và tập theo bốn mươi hai Thủ Nhăn của Đại Bi Pháp, cũng có thể được Thiên nhăn. Quư vị cố thức để học tập Phật pháp, cũng có thể được Thiên nhăn thông, nhưng phương pháp ấy rất nguy hiểm, tôi hy vọng là mọi người sẽ không áp dụng. Tại sao thế? Quư vị có lẽ c̣n nhớ là khi tôi giảng Kinh Lăng Nghiêm, có đề cập đến Tôn giả A-na-luật, vị đại đệ tử mà chuyên môn ngủ gật. Về sau Ngài bị Phật quở là:

-"Ái chà ngủ nghỉ hoài, như ốc sên ṣ hến, ngủ suốt cả ngàn năm, không nghe được tên Phật."

Nghe Phật trắch như thế, Ngài nức ḷng ra sức dụng công, không ngủ nữa. Liên tục không ngủ suốt bảy ngày đêm, cặp mắt Ngài bị mù. Đức Phật thương t́nh mới dạy Ngài tu Kim Cang Chiếu Minh Tam Muội, kết quả Ngài được tôn là Thiên nhăn bậc nhất.

A-na-luật là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Vô Bần (không nghèo). Tại sao Ngài có tên này? Vô lượng kiếp quá khứ về trước Ngài là một người mới phát tâm Bồ-đề, dù chưa làm đệ tử của Phật nhưng đă biết ư nghĩa của bố thí. Bấy giờ, Ngài là một người nông phu rất nghèo khổ. Gần nhà Ngài, ởụ trên sườn núi có một vị Tỳ-kheo đă chứng quả Bích-chi Phật cư ngụ. Vị Tỳ-kheo già này cứ cách bảy ngày mới xuống núi hóa trai một lần, mỗi lần chỉ hóa trai ở bảy nhà thôi, tuyệt đối không hơn nữa; nếu bảy nhà đều bố thí cả th́ mới đủ ăn trong bảy ngày; nếu như có một nhà không bố thí th́ ngày ấy nhịn đói. Dù hóa duyên không được ǵ cả th́ vẫn qua bảy ngày sau mới xuống núi lần nữa.

Có một hôm anh nông phu ấy ra ruộng, và mang theo phần cơm chuẩn bị cho bữa ăn sau khi cày xong, th́ thấy vị Tỳ kheo nghèo ấy xuống núi hóa duyên mà không xin được thứ ǵ cả, bèn nảy sinh ḷng bố thí. Anh ta suy nghĩ rằng:

-"Hôm nay ḿnh đừng ăn cơm, để đem cơm này cho vị Tỳ kheo nghèo ấy đỡ ḷng!"

Anh nông phu ấy hoàn toàn không biết vị Tỳ-kheo già kia là bậc Thánh nhơn chứng quả Bích-chi Phật, nhưng vị Tỳ-kheo già lại có Tha tâm thông, sau khi quan sát nhân duyên mới nghĩ:

-"À, ta đă biết tại sao anh ta đem cho ta thứ cơm hẩm này rồi? (Đó là một thứ cơm nấu bằng một thứ gạo xấu và rẻ tiền nhất mà người nghèo khổ mới ăn). Th́ ra anh ta không có tiền, mỗi ngày phải ăn thứ cơm này đây. Hôm nay biết ta hóa trai không được ǵ cả, mới đem bố thí cho ta, công đức này thật không thể nghĩ bàn."

Vị Bích-chi Phật rất hoan hỷ, khen ngợi người nông phu:

-"Như thị, như thị! Anh đă cúng dường bằng tấm ḷng rất chân thật."

Nói xong, vị Tỳ-kheo đi trở về núi.

Sau đó một thời gian, anh nông phu thấy có một con thỏ chạy về phía ḿnh, đột nhiên nhảy lên vai anh ta và đeo dính cứng, gỡ không ra. Sợ quá, anh ta lật đật chạy về nhà t́m cách gỡ thỏ xuống. Khi gỡ ra được, anh ta nh́n kỹ lại th́ là con thỏ bằng vàng. Anh ta mới cắt một khúc chân của thỏ đem bán đổi lấy tiền. Về sau coi lại, thấy chân của thỏ đă mọc lại như cũ. Nhờ thế anh ta phát tài, từ đó về sau, đời đời kiếp kiếp đều có của tiền dư dả, không hề thiếu thốn nữa. Đó là do anh ta cúng dường vị Bích-chi Phật với tâm chơn thật, cho nên mới được quả báo to lớn như thế; đời đời kiếp kiếp đều được "Vô Bần," không c̣n nghèo túng nữa. Đó là lư do v́ sao Tôn giả A-Na-Luật được gọi là "Vô Bần."

Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói:

"Cúng dường một trăm người làm ác, không bằng cúng dường một người làm lành.

"Cúng dường một ngàn người làm lành, không bằng cúng dường một vị cư sĩ thọ tŕ ngũ giới.

"Cúng dường mười ngàn cư sĩ thọ tŕ ngũ giới, không bằng cúng dường một vị Sa-di thọ tŕ mười giới.

"Cúng dường một trăm ngàn vị Sa-di không bằng cúng dường một vị Tỳ-kheo.

"Cúng dường một triệu vị Tỳ-kheo cũng không bằng cúng dường một vị chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn.

"Cúng dường mười triệu vị Tu-đà-hoàn không bằng cúng dường một vị chứng Nhị quả Tư-đà-hàm.

"Cúng dường một trăm triệu vị Tư-đà-hàm không bằng cúng dường một vị chứng Tam quả A-na-hàm.

"Cúng dường một trăm tỷ vị A-na-hàm không bằng cúng dường một vị chứng Tứ quả A-la-hán."

Nhưng, quư vị cúng dường vô số không đếm được vị A-la-hán cũng không bằng cúng dường một vị vô tu vô chứng.

Bậc vô tu vô chứng là ai? Đó là Phật. Thế mà quư vị cúng dường hằng hà sa số đức Phật vẫn không bằng cúng dường một vị vô tâm Đạo nhân.

Tôn giả A-na-luật cúng dường một vị Bích-chi Phật mà được đời đời kiếp kiếp không nghèo khổ, lại giàu có phi thường - chẳng làm Thái tử con vua th́ cũng làm con của một nhà giàu sang trên toàn thế giới. Cho nên chúng ta muốn đời đời kiếp kiếp khỏi phải nghèo khổ th́ hăy cúng dường Tam Bảo, tương lai sẽ có cơ hội được giàu sang. Nhưng khi quư vị giàu sang th́ lại có vấn đề khác.

Đó là:

"Bần cùng bố thí nan, phú quư học đạo nan"

(Nghèo hèn bố thí khó, giàu sang học đạo khó)

Ngài A-na-luật tại sao lại được giàu có? Bởi v́ Ngài đang nghèo khổ mà lại có thể bố thí, hy sinh phần cơm trưa của cá nhân ḿnh để cúng dường Tam Bảo - nhờ một niệm chân thật mà được vô lượng phước báo. Thông thường người nghèo chính ḿnh c̣n ăn không đủ no, nếu đem bóá thí th́ không có ǵ để ăn nữa, cho nên nói "bố thí khó."

C̣n giàu sang th́ sao? Th́ "học đạo khó." Những người giàu sang có tiền, quư vị kêu họ đi học Phật pháp họ không đời nào chịu đâu! Đó là hai trong hai mươi thứ khó [xin xem Kinh Tứ Thập Nhị Chương] chúng ta cần nên chú ư.

Các loài trong đường dữ

Địa ngục, quỷ, súc sanh

Khổ sanh già bịnh chết

Lần đều khiến dứt sạch.

Đường dữ (evil destinies) hay ác đạo chính là những nơi bất thiện, và chẳng phải chỉ có một mà có rất nhiều.

Tổng quát th́ có bốn loài là:

-A-tu-la,

-ngạ quỷ,

-súc sanh,

-địa ngục.

A-tu-la th́ như trước đă giải thích rồi, họ chính là đấu tranh kiên cố; những loại chúng sanh thích đấu tranh đều thuộc vào A-tu-la. Địa ngục do đâu mà có? Ấy là do nghiệp chướng của mỗi cá nhân chúng ta mà h́nh thành. Quư vị tạo tội ác ǵ th́ sẽ có địa ngục tương ứng với tội ác đó hiện ra. Địa ngục lại chia ra rất nhiều thứ.

Kinh Địa Tạng nói:

"Ngục lớn có mười tám, kế đó có năm trăm ngục nhỏ, lại có hàng ngàn trăm vô lượng vô biên địa ngục."

Địa ngục có phải giống như nhà tù ở thế gian không? Do người ta làm ra cái nhà rất chắc chắn, chờ khi có người phạm tội th́ đem nhốt vào đó chăng? Không phải thế! Địa ngục là do tội ác của mỗi cá nhân mà hiện ra. Quư vị tạo ác nghiệp sát nhân th́ sẽ có địa ngục sát nhân hiện ra; tạo tội ác đốt nhà th́ sẽ có địa ngục đốt nhà hiện ra. Bởi tạo ác nghiệp ǵ th́ sẽ có địa ngục đó hiển hiện, v́ thế chủng loại địa ngục không có nhất định. Đến khi trả nghiệp xong rồi th́ địa ngục ấy sẽ tự biến mất. Nghiệp chưa hết th́ địa ngục vẫn c̣n.

Tại Măn Châu nơi sinh quán của tôi, ở huyện Du Thọ có vị "Lưu tiên sinh tay heo," ông ta có thể nhớ được việc trong ba đời trước của ḿnh.

Đầu tiên, ông ta là một người con có hiếu đối với cha mẹ, sau đó được đầu thai làm con nhà giàu. Cha ông ta hơn bốn mươi tuổi mới sanh được đứa con trai là ông. Đến năm ông ta mười ba tuổi, cha mẹ cưới cho ông một cô vợ lớn hơn ông một hay hai tuổi. Cha ông ta tuy đă trên năm mươi nhưng vẫn c̣n cường tráng lại cưới thêm một cô vợ lẽ, cô vợ này suưt soát tuổi con dâu. Lưu tiên sinh có vợ không đầy hai năm, sanh được một đứa con trai. Đợi cho con ḿnh mười ba tuổi, ông ta lại cưới vợ cho con, cô con dâu lại lớn hơn con ông mấy tuổi. Chẳng bao lâu, cha mẹ ông ta lần lượt qua đời, chỉ c̣n lại người vợ lẽ của cha ông thôi. Ông ta thấy bà vợ lẽ của cha quá đẹp bèn chiếm luôn làm vợ ḿnh. Sau đó không lâu, con ông ta lại chết, ông ta lại thấy cô con dâu dung mạo cũng mỹ miều bèn lấy dâu làm vợ nốt. Thế là, bà má nhỏ cũng là vợ, nàng dâu cũng là vợ tuốt; đó gọi là "trên th́ giựt mẹ, dưới th́ giành dâu." Lúc đó ông ta chừng hai mươi tám hay hai mươi chín tuổi thôi.

Đến chừng quá bốn mươi tuổi, ông ta mới bắt đầu tỉnh ngộ, tự nghĩ: "Ôi, cả đời ḿnh gây ra tội ác quá nhiều! Lấy mẹ kế làm vợ, bắt con dâu làm vợ, thiệt là tội không phải nhỏ!"

Bấy giờ ông ta mới tu tập, tin Phật, tụng kinh, chuyên tŕ Kinh Kim Cang Bát-nhă Ba-la-mật. Tụng được mười mấy năm, đến lúc ông năm mươi mấy tuổi th́ chết. Chết rồi thần thức ông đến trước vua Diêm La. (Vua Diêm La là ông vua quản lư tất cả quỷ ở địa ngục, rất là dữ tợn, mặt đen ś ś không vị nể ai hết). Vua Diêm La hỏi:

- Tại sao cả đời ngươi toàn làm ác cả vậy? Bây giờ phải thả ngươi vào ngục dầu sôi, dùng vạc dầu để chiên ngươi mới được!

Nói rồi kêu hai con quỷ kéo ông vào ngục vạc dầu, bấy giờ có vị phán quan ở kế bên nói: "Không thể được!"

- Tại sao? Vua Diêm La hỏi,

- Tại v́ ông ta có tụng Kinh Kim Cang. Bây giờ bụng nó đầy Kim Cang trong đó. Phải cho ông ta mửa hết kinh ra rồi hăy đem đi nấu dầu.

Thế là vua Diêm La cho ông ta đầu thai làm người. Ông đầu thai vào một gia đ́nh rất nghèo, cha mẹ chuyên bán đồ điểm tâm. Đứa bé sinh ra đặc biệt từ nhỏ rất thích ăn uống, ăn uống đến nỗi bụng tích lại càng lúc càng to. Đến chừng đứa bé năm tuổi, v́ bụng trướng quá lớn mà chết. Sau khi đứa bé chết, cha mẹ nó cùng bàn với nhau: "Bụng thằng bé này tại sao lại lớn quá vậy? Chắc là có cái ǵ trong đó. Chúng ta mổ ra xem thử!" Họ bèn mổ bụng đứa bé ra, thấy trong đó có một vật cứng như đá kim cương. Con quỷ ở kế bên nói: "À, bây giờ th́ bắt nó đem nấu dầu được rồi đấy!" Nó bèn dẫn ông ta về gặp vua Diêm La, vua nói:

- Bây giờ, bắt nó đầu thai làm heo trước đă!

Ông ta lại đầu thai làm heo, được người ta vỗ béo rồi đưa đi làm thịt. Sau đó, ông ta lại trở về địa ngục để chờ đem đi nấu dầu. Ông ta nói với vua Diêm La:

- Ngài không cần nấu tôi nữa, cho tôi về nhân gian đầu thai làm người đi! Và xin Ngài lưu lại cho tôi một bàn tay heo làm bằng chứng để tôi khuyên người đời không nên tạo nghiệp ác.

Vua Diêm La nói: Thế cũng được!

Thế là ông ta đầu thai vào nhà họ Lưu. Người ta v́ thấy ông có một bàn tay h́nh thù y hệt cái móng heo nên gọi ông là "Lưu tiên sinh tay heo." Vị này chính tôi có gặp và nói chuyện rất nhiều với ông ta, nên biết ông ta nhớ được việc đời trước của ḿnh rất rơ ràng. Đó là nhân duyên ác thú (ác đạo) được tạo thành. Địa ngục là nơi rất nguy hiểm, hy vọng mọi người đừng nên tạo ác nghiệp, nếu không th́ khổ báo khó tránh.

Lại ở Hợp Nhĩ Tân (Harbin), Măn Châu, có một vị sư, có lần Thầy bị bịnh nặng, cảm thấy ḿnh chết. Sau khi chết, thần thức theo đường cái chạy đi, chạy đến nơi cách chùa không xa để đầu thai. Đầu thai làm ǵ? Làm con heo. Khi thấy ḿnh bị làm heo, bèn chẳng chịu bú để chết đói. Sau khi chết đói, thần thức trở về lại nơi thân Thầy. Vừa tỉnh lại, vị Pháp sư nói:

- A, ḿnh mới đầu thai làm heo đây mà!

Người kế bên hỏi: Ngài đến nơi nào đầu thai làm heo thế?

- Bây giờ tôi cảm thấy bớt bịnh nhiều! Để tôi đưa ông và quư Thầy cùng đến đó xem. Ở đó vừa chào đời bảy chú heo con, tôi là một trong số bảy chú heo con đó. Tôi cố ư không bú nên mới chết đây.

Tiếp đến vị sư ấy cùng với các Thầy khác đồng đến nơi đó, quả nhiên có một gia đ́nh kia vừa có bảy con heo nhỏ ra đời, trong đó có một con heo con vừa mới chết.

Đó là vị sư ấy tự nhớ được lai lịch của ḿnh, vị này tôi cũng đă có gặp. Do đây có thể thấy, được sanh làm người thật không phải dễ, thân người của chúng ta thật rất khó được.

Cho nên có câu:

"Thân người khó được, Phật pháp khó nghe."

Quư vị tính thử xem, tại nước Mỹ trong hàng ngàn vạn người có mấy ai được nghe Phật pháp? "Thiện tri thức khó gặp." Quư vị muốn gặp một vị Thiện tri thức chân chánh hiểu rơ Phật pháp cũng không dễ đâu. Có những vị tự xưng là Thầy mà ngay cả chính ḿnh cũng không biết đạo lư, họ có giảng đạo lư cho quư vị th́ cũng chỉ là nói nhăng nói cuội mà thôi.

Ngạ quỷ, cũng là do nghiệp lực của chúng chiêu cảm nên mới mắc phải quả báo làm ngạ quỷ như thế. Về ngạ quỷ tôi đă giải thích rất nhiều lần - bụng chúng lớn như trống, cổ lại nhỏ như kim. Những đồ ăn của chúng ta một khi đến miệng của ngạ quỷ th́ biến thành lửa ngay. Tại sao lại biến thành lửa? V́ nghiệp chướng của chúng quá nặng cho nên hễ thức ăn ǵ tới miệng đều biến thành lửa cả.

Nói đến vấn đề nghiệp chướng, th́ chúng sanh ở cơi trời thấy nước là pha lê; loài người thấy nước là nước; cá thấy nước là nhà, lấy nước làm cung điện của chúng; quỷ thấy nước là lửa. Mỗi loài đều có cảnh giới không giống nhau. Đó đều là do nghiệp lực chiêu cảm nên, cho nên cái thấy cũng không giống nhau.

Vừa rồi tôi có nói đến vị sư đầu thai làm heo. Lại cũng có người đầu thai làm gà, làm ḅ, làm ngựa v.vẨ Những người lúc sống không hiếu thảo cha mẹ, không cung kính sư trưởng th́ tương lai sẽ có quan hệ liên đới với loài súc sanh. C̣n những người thích ăn thịt, tức là đang có sự dây dưa với "súc sanh," th́ tương lai cũng rất là nguy hiểm. "Các loài trong đường dữ" là bao gồm cả bốn ác đạo nói trên.

Ngoài cái khổ của sanh, lăo, bịnh, tử, con người c̣n có ba thứ khổ nữa là:

-Khổ khổ,

-hành khổ và

-hoại khổ.

Khổ khổ chính là khổ trong khổ, giống như người nghèo nàn khốn khó đă không có tiền, không có cơm ăn, lại không có nhà ở, kiếm việc làm không được, thật là khổ càng thêm khổ. Nỗi khổ trong khổ ấy người ta không thể chịu nổi. Thế th́ người giàu có không khổ sao? Người có tiền càng khổ sở hơn! Có người nói: "Thầy nói đạo lư ấy tôi không tin đâu." Quư vị không tin tôi cũng nói như thế, mà tin tôi cũng nói như thế. Tại sao? Quư vị thấy có tiền nhiều, từ sáng đến tối cứ nghĩ: "Ta có nên đem cọc tiền này gởi ngân hàng không? Đem số tiền này đi buôn bán. Đem số tiền này làm..." Tóm lại, khi có tiền đếm không hết th́ phiền phức như thế đấy! Đếm tới đếm lui, đếm đến tóc bạc, răng long, mắt mờ, tai điếc, cũng chưa rồi! Đếm măi không rồi, quư vị nói thế nào đây? Sẽ có vấn đề đấy. Nhân v́ có quá nhiều tiền, suốt ngày cứ đếm tiền măi, đếm tới đếm lui, rủi ro bị bọn thổ phỉ biết được, tối lại chúng phá cửa xông vào, bao nhiêu của cải để dành bấy lâu bị cướp sạch sành sanh. Đó gọi là Hoại khổ đấy. Thứ hoại khổ này so với khổ nghèo túng lại càng tệ hại hơn. Bởi v́ người nghèo túng khổ quen rồi, không cảm thấy khổ bao nhiêu. Nhưng giàu sang mà bỗng nhiên bị tiêu tan hết th́ cái khổ ấy thật là quá mức. Nhất là với người già, tiền bạc không có, tất cả đều không như ư. Đó cũng gọi là Hoại khổ.

Thế th́, người không giàu cũng không nghèo, chắc là không có khổ ǵ? Cũng vẫn khổ. C̣n khổ ǵ nữa? Đó là Hành khổ: Người ta từ nhỏ rồi lớn, lớn rồi già, già rồi chết, niệm niệm đổi dời không dừng nghỉ. Cho dù không có nghèo cùng khốn khổ, không có hoại khổ của giàu sang th́ cũng có hành khổ. Ba thứ khổ này không một ai tránh khỏi được.

Lại c̣n có Tám khổ. Ba khổ đă không ít rồi lại c̣n chồng chất thêm tám khổ nữa! Sự thật th́ "khổ" không chỉ có tám mà thôi, thực ra có đến hàng ngàn, hàng vạn, ngàn ngàn vạn vạn khổ, đếm không hết.

Khổ nhất chính là làm người; làm súc sanh sung sướng hơn làm người nhiều. Vậy chớ làm ǵ mới không khổ? Chỉ có làm Phật mới không khổ thôi!

Tại sao làm súc sanh sướng hơn làm người? Loài súc sanh chẳng phải lo cái ăn, cũng chẳng phải lo cái mặc, lo chỗ ở. Chúng có điều kiện sinh hoạt thiên nhiên, không phải lo lắng ǵ, quư vị thấy có phải không? Chỉ có loài người là khổ đủ thứ, chẳng phải chỉ tám mươi bốn ngàn mà cả ngàn ngàn vạn vạn khổ nữa. Bây giờ chúng chỉ nói về tám khổ là: Sanh, lăo, bịnh, tử, ân ái xa ĺa, oán thù gặp gỡ, cầu mà không được, năm ấm xí thạnh. Trong tám khổ này, quư vị xem thứ nào khổ nhất? Đó là sanh khổ đấy! Nếu không có sanh th́ các thứ khổ kia làm ǵ có.

Hỏi: Sanh khổ là khổ như thế nào?

- À, tôi biết là quư vị đă quên thứ khổ ấy rồi. Bây giờ tôi xin nói cho quư vị rơ: Sanh này là do tinh cha huyết mẹ kết thành, lại do thân trung ấm đến đầu thai mà có. Khi c̣n ở trong bụng mẹ, 4 tuần lễ đầu chưa có cảm giác chi, đến tuần lễ thứ 7 mới có hiểu biết. Lúc đó nếu mẹ ăn cái ǵ lạnh, quư vị như ở giữa núi băng, khó chịu vô vàn; nếu mẹ ăn thức ǵ nóng, quư vị như trong vạc lửa, nóng bức không chịu nổi. Đó là những nỗi bức bách v́ lạnh nóng trong thai mẹ. Lại có lúc mẹ vặn lưng khom ḿnh, quư vị cảm thấy như bị Thái sơn đè xuống, c̣n mẹ thẳng lưng lên th́ cảm thấy rất là thoải mái. Đến chừng sanh ra th́ c̣n khổ hơn nữa. Ngay lúc ấy, quư vị khổ sở như bị ép giữa hai trái núi chẳng khác nào cái khổ bị núi ép ở địa ngục, nên quư vị mỗi khi chào đời đều khóc ré lên: "Khổ a! Khổ a! Khổ a!"

Lúc sanh ra th́ đau đớn như con rùa sống bị lột mai, nhưng khi lớn lên lại quên hết nỗi thống khổ ấy đi. Rồi tuổi già lật bật đến, cái khổ của già nua cũng không kém phần tệ hại. Lúc tuổi già, tai điếc đặc, người ta mắng cũng không hay; mắt bị mờ đi, nh́n vật ǵ cũng không rơ. Đó là tai và mắt bắt đầu "đ́nh công" rồi đó. Lưỡi tuy c̣n đó mà răng đă rụng rồi. Trước đây tôi có gặp mấy cụ tám, chín mươi tuổi và hỏi:

- Cụ có thấy ai rụng lưỡi chưa? Tại sao răng của cụ rụng hết vậy?

Ông ta nói: "Chưa! Ông có thấy chưa?"

- Tôi lại càng không thấy. Cụ từng ấy tuổi mà chưa thấy ai rụng lưỡi th́ nhỏ tuổi như tôi đây làm sao thấy việc lạ ấy được!

Tôi lại hỏi ông ta: "Cụ có biết tại sao lưỡi cụ không rụng không? Tại sao trên đời này không có lưỡi rụng mà chỉ có răng rụng? "

- "Tại sao thế? " Ông ta hỏi.

- V́ răng quá cứng nên phải găy rụng. Lưỡi sở dĩ không rụng là nhờ lưỡi mềm. Cụ tuổi tác đă cao cũng không nên cứng rắn quá. Nếu cứng rắn quá th́ sẽ giống như răng có thể rụng đấy, nên học mềm một tí.

Thế th́ răng rụng có khổ ǵ? Đương nhiên là ăn mất ngon, nhai thức ăn không có thấy mùi vị. Thức ăn đó vào miệng người khác nhai rau ráu bắt thèm, c̣n vào miệng ḿnh nhai không nổi, muốn cắn th́ cắn không đứt, trệu trạo nuốt vào bụng lại trở thành khó tiêu. Quư vị nghĩ có khổ không chứ?

C̣n trên mặt th́ da nhăn hết, ấy là "tóc bạc da mồi," da thịt trên mặt giống như da gà, sần sùi nhăn nhúm khó coi. C̣n tóc th́ bạc trắng. "Tóc bạc" đối với người Mỹ th́ không phải ngụ ư tuổi già. V́ người Âu Tây, trẻ con mới sanh tóc đă có màu trắng rồi. Đó không phải là tóc bạc của tuổi già mà là tóc trắng của thời son trẻ. Tuy nhiên, đó chỉ là trường hợp đặc biệt thôi. Tóc trắng của người già là từ tóc đen đổi màu. Tóc đen có thể đổi thành trắng, mà tóc trắng không thể đổi thành đen, nhưng có lúc cũng có thể đổi được.

Hồi ở Hồng Kông, tóc của tôi đều bạc cả. Tại sao thế? V́ tôi cất chùa, sửa ba ngôi chùa. Ôi, sửa đến hao tổn biết bao tâm thần, làm cho tóc đổi thành bạc cả. Về sau tôi tự ḿnh xét lại: "A! Thế là đủ rồi! Không cần phải hao phí tâm lực nữa!" Từ đó cái ǵ cũng buông bỏ hết. Sau đó, từ từ tóc trở lại màu đen. Cho nên bất cứ việc ǵ cũng không cố định. Bây giờ quư vị nh́n lên đầu tôi xem, chỉ có một ít tóc bạc, không nhiều lắm!

Khổ về sự già không dễ ǵ chịu được. Quư vị nếu không tin th́ cứ thử xem. Đợi đến lúc quư vị già mới biết mùi vị của nó. Quư vị không ngại sống đến bảy, tám mươi tuổi, hoặc tám, chín mươi tuổi, thậm chí đến một trăm tuổi; bấy giờ, quư vị ăn thứ ǵ cũng không biết mùi. Chừng đó quư vị mới biết: "À, hồi trước có vị Thầy nói già rất khổ, ḿnh không tin, bây giờ ḿnh mới biết, quả đúng không sai."

Lúc đó quư vị lại muốn tu hành, th́ quá muộn không kịp nữa.

Sự b́nh đẳng nhất chính là bịnh khổ. Bất cứ ai cũng đều có bịnh khổ cả, không bịnh nhiều th́ cũng bịnh ít. Nhức đầu th́ đầu khó chịu, đau chân th́ chân bứt rứt, thân đau th́ thân không an. Bịnh lại có quá nhiều thứ, như có bịnh đau bao tử th́ ăn vào khó chịu, nếu có bịnh phổi th́ ho hen không ngớt. Tóm lại, ngũ tạng: tim, gan, tỳ, phổi, thận, hễ có bịnh th́ đều khổ cả.

Cái khổ nhất chính là khổ "chết." Có người nói: "Chết khổ à? Tôi không biết mùi vị nó như thế nào? Tôi muốn biết trước." Vậy th́ quư vị cứ thử chết trước một lần xem, nhưng không có ai dám bảo đảm là quư vị sống lại được, cho nên một lần thử đó cũng không thử được. Chết th́ dễ, nhưng chết rồi đi về đâu? Đó là một vấn đề trọng đại. Sau khi chết rồi đọa địa ngục ư? Hay làm súc sanh? Hay làm người? Đâu có ai dám bảo đảm điều đó!

Sanh, già, bịnh, chết đều là khổ. V́ sao Đức Phật Thích-ca Mâu-ni muốn xuất gia? Cũng chính v́ Ngài biết được sanh, già, bịnh, chết là những mối khổ không dễ ǵ chịu đựng. Lúc Ngài mười chín tuổi, có một hôm đi du ngoạn đến cửa thành phía Đông, nh́n thấy một người phụ nữ đang chuyển bụng, bèn hỏi người tùy tùng: "Đó là cái ǵ vậy?"

- Đó là sanh đứa bé! Người tùy tùng đáp.

Thấy đứa bé lọt ḷng khóc thét lên mà thiếu phụ cũng đau đớn quá mức, Thái tử thấy ḷng không vui, bèn trở về hoàng cung.

Ngày thứ hai Thái tử đến cửa Nam, thấy một cụ già, tóc đều bạc trắng, mắt mờ đi, lưng c̣ng xuống không thể đứng thẳng được, chân run lẩy bẩy, không thể bước vững, khổ sở trăm bề, bèn hỏi người tùy tùng:

-"Người bị ǵ vậy? Tại sao lại như thế?"

Người tùy tùng thưa: "Người ấy đă già rồi, tuổi tác quá cao nên mới ra nông nỗi."

Thái tử cảm thấy không vui, lập tức trở về cung.

Ngày thứ ba, Thái tử lại đến cửa Tây, gặp người đang quằn quại v́ cơn bịnh, bèn không vui trở về.

Ngày thứ tư, Thái tử lại đi tham quan ở cửa Bắc. Gặp một người chết, Ngài hỏi kẻ tùy tùng: "Người ấy làm sao thế?"

- Người ấy chết rồi!

Ngài lại cảm thấy buồn bă phi thường, mắt thấy sanh, già, bịnh, chết là con đường mà nhân loại phải đi qua, rất là khổ sở, thật không có ư nghĩa ǵ cả. Nghĩ thế Thái tử định quay trở về cung. Ngay lúc đó bỗng xuất hiện một vị Sa-môn, tức là người xuất gia. Thái tử lại hỏi: "Người ấy là ai thế?"

Kẻ tùy tùng đến hỏi vị Sa-môn ấy: "Ông là ai thế?"

Vị Sa-môn đáp: Tôi là người xuất gia, tu học theo Phật đạo để có thể ĺa cái khổ của sanh, già, bịnh, chết.

Thái tử nghe nói tu hành có thể liễu sanh thoát tử th́ rất vui vẻ, lại hỏi vị Sa-môn: "Tôi cũng có thể tu hành giống như Ngài được không?"

- Ai cũng có thể tu được. Vị Sa môn đáp: Bất cứ ai cũng đều có thể xa ĺa khổ sanh, già, bịnh, chết cả.

Sau khi trở về cung, tối lại Thái tử cùng với người giữ ngựa là Xa-nặc lén vượt thành ra khỏi cung điện, để xuất gia tu hành. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhân v́ biết được sanh, già, bịnh, chết không có ư nghĩa ǵ. Cũng không biết sanh từ đâu đến? Chết rồi lại đi về đâu? Cho nên Ngài phát tâm xuất gia, đến Tuyết sơn ngồi tu sáu năm, nhân đó mà tránh được khổ sanh già bịnh chết.

C̣n con người ư? Ai cũng có thể sanh ra nhưng không ai tránh khỏi cái chết. Mọi người tương lai đều phải chết, có người chết lành có người chết dữ, mỗi người đều có một cách chết, không ai giống ai. Có người chết v́ bịnh, có người chết v́ đói, có người làm công việc quá sức mà chết, có người bị xe cán chết, có người bị đá núi lăn đè chết, hoặc theo người đi đánh lộn bị người đánh chết, hoặc đi tác chiến bị chết ở mặt trận, hoặc ngộ độc mà chết, hoặc là tự sát mà chết. Có người không muốn chết mà chết, có khi muốn chết lại không chết. Cho nên, đồng là một tiếng "chết" mà cách chết không giống nhau. Tuy cách chết không đồng mà quả báo trong tương lai sau khi chết th́ sao? Cũng không giống nhau! Ví như có người chết đột ngột, như bị xe tông, bị nước cuốn, bị lửa thiêu - tức là bất đắc kỳ tử - th́ hồn phách của họ Diêm Vương không biết đến, quỷ cũng không biết đến, vậy họ được tự do sao? Nói là tự do nhưng là tự do của quỷ chớ không phải là tự do của người. Người được tự do có lúc c̣n không theo quy củ huống là quỷ? Quỷ được tự do cũng có thể không theo quy củ; người chết đột ngột (bất đắc kỳ tử) lại bắt kẻ khác thế chỗ cho ḿnh.

Ví dụ, tại một đoạn nào đó trên xa lộ từng xảy ra tai nạn đụng xe chết người th́ trong ṿng ba năm thế nào cũng có người bị tông chết ở đó. Tại sao thế? Tại v́ hồn quỷ chết bất đắc kỳ tử kia đang chực sẵn ở đó, nó nhất định phải làm cho người khác bị tông chết để nó được đi đầu thai, nếu không như thế nó phải ở măi chỗ đó, không được thác sanh. Nếu là người tự sát hay uống thuốc độc mà chết th́ phải vào địa ngục chịu những h́nh phạt cực kỳ đau đớn. Chịu những h́nh phạt nào? Khi c̣n sống nếu uống thuốc độc mà chết, th́ xuống địa ngục phải uống thứ nước sắt nấu chảy. Thứ nước đó rót vào bụng, tới đâu ruột gan cháy tới đó. Sau khi bị cháy chết rồi, gặp luồng gió mát thổi qua lại được hồi sinh. Sống lại rồi lại phải uống thứ nước sắt ấy cháy ruột gan chết đi, rồi gặp gió sống lại. Cứ thế, chết đi sống lại để tiếp tục thọ khổ, lại chết đi, liên miên không ngớt. Nếu quư vị có thể niệm Bồ Tát Quán Thế Âm th́ các khổ năo về sanh, già, bịnh, chết sẽ dần dần tiêu tan.

Ngoài bốn khổ trên, lại c̣n có khổ v́ "ân ái xa ĺa." Thứ "ái" này mọi người đều biết. Có người yêu sắc đẹp, có người yêu tiếng tăm. Người yêu tiền cũng chính là yêu lợi. Ví như có người rất giàu, dự tính buôn bán lớn để kiếm lời, nhưng buôn bán thất bại cụt cả vốn, tiền cũng hết sạch. Người ấy chia ĺa với lợi, y đâu muốn ĺa tiền, nhưng tiền đă không c̣n nữa, cũng là một loại khổ thương mến phải xa ĺa. "Sắc" là vấn đề của trai gái, trai yêu sắc đẹp của gái, gái yêu sắc đẹp của trai, hai đàng yêu mến nhau nhưng v́ đời trước gieo trồng nhân quả không tốt nên t́nh yêu này không thể kéo dài lâu được. Trong t́nh trạng đó, nửa chừng phải găy đổ thôi. Trong thời gian xa nhau ấy, nếu không có t́nh yêu chân chính th́ chia tay cũng không sao; nếu có một thứ t́nh yêu chân chính mà chấp trước th́ sẽ đau khổ vô cùng. Đó là thứ ái biệt ly khổ của yêu sắc đẹp.

Lại c̣n có ái biệt ly khổ của yêu tiếng tăm. Thứ tiếng tăm này tại sao lại có biệt ly được? Có người nói như thế này: "Danh là sinh mạng thứ hai của con người." Họ cho rằng danh tiếng là sinh mạng thứ hai của ḿnh, nếu sinh mạng thứ hai ấy một mai bị phá vỡ th́ trở thành danh tiếng bị mất hết. Xưa nay không muốn bị mất danh, nhưng v́ nhất thời làm bậy, danh dự bị tiêu tan. Đó cũng là một thứ ái biệt ly khổ v́ danh.

Thứ ái biệt ly khổ này rất nhiều. Ví dụ vợ chồng dù không có chia cách, nhưng đứa con sinh ra tướng mạo đẹp đẽ lại thông minh, nên họ yêu quư cưng chiều coi như báu vật. Bỗng nhiên báu vật ấy chết đi, bấy giờ mới khóc lóc vật vă đau đớn vô cùng. Đây cũng là một thứ ái biệt ly khổ. Hoặc có người rất có hiếu với cha mẹ, rất cung kính mến yêu, không bao giờ muốn rời xa cha mẹ, nhưng rồi cha mẹ lại qua đời. Đó cũng là ái biệt ly khổ.

Hoặc có người gặp hoàn cảnh thuận lợi vô cùng, cha mẹ vợ con tất cả đều tốt đẹp, nhưng chính bản thân ḿnh lại phải chết. Ngay cả giữa anh em bè bạn cũng có sự việc bất như ư này, xưa nay không muốn rời xa mà rồi phải chia ĺa; đó cũng là ái biệt ly khổ.

Đă biết rằng ái biệt ly là khổ th́ không nên chấp trước vào thứ ái đó nữa, chẳng nên đem thứ ái đó nhắm vào một người nào, mà nên nhắm vào toàn thể chúng sanh, thực hành Bồ-tát đạo để cứu độ tất cả chúng sanh, chẳng nên cho riêng ḿnh mà hăy nghĩ tưởng đến tất cả mọi người, th́ sẽ không có ái biệt ly khổ nữa.

C̣n có thứ ái biệt ly này nữa: Có người chấp trước t́nh ái, không có khổ lại tự t́m cái khổ để khổ. Như có những cặp vợ chồng, suốt ngày cứ lo rầu không thôi. Lo rầu những ǵ? Lo sợ bà xă họ có bạn trai khác. Thế chẳng phải là không có cái khổ lại đi t́m khổ sao? Cũng có nhiều cô sau khi có chồng rồi, có lẽ là anh chồng quá đẹp trai, nên suốt ngày chẳng lo nghĩ ǵ khác hơn là chỉ đau đáu lo rầu chồng ḿnh có thêm người đẹp mới, thậm chí lo đến cơm chẳng buồn ăn. Quư vị nghĩ xem như vậy có quá ngu si không? Lại c̣n có người không yêu thương ai cả, lại yêu chó như mạng sống của ḿnh; có người lại yêu mèo, coi mèo như mạng sống của ḿnh; cho đến đối với tất cả súc sanh hoặc vật chất ǵ đều nảy sanh ḷng yêu thích. Ḷng yêu này khi đă phát sanh th́ thế nào? Cũng rất là ngộ nghĩnh. Người yêu chó khi chó ấy chết, người yêu mèo đến khi mèo ấy chết, th́ lúc đó giống như mạng ḿnh cũng chết theo vậy. Họ khóc con chó con mèo từng cơn. Đó cũng là một thứ ái biệt ly khổ.

Tóm lại, quư vị đối với bất cứ sự vật ǵ, nh́n không thấu, bỏ không được, cho đến có cái ǵ đó đặc biệt mà phải chia cách khiến cho quư vị cảm thấy đau khổ vô cùng, đó gọi là "Ái biệt ly khổ."

Có người nói: "Chỉ yêu thôi mà khổ đến thế ư? À, thế th́ tôi không yêu nữa, tôi sẽ ghét tất cả!"

"Ghét" tức là không yêu. Có một thứ tâm chán ghét, oán hận, căm thù; đối với bất cứ sự vật ǵ cũng đều không yêu cả. Điều đó lại càng sai lầm. Vậy th́, nói yêu là có khổ, c̣n không yêu th́ sao? Cũng khổ như thường! Đó gọi là "Oán tắng hội khổ." Trong trường hợp này, quư vị cảm thấy chán ghét, ghét cay ghét đắng người khác, không có duyên với ai cả, cảm thấy ai cũng không tốt với ḿnh, cho nên quư vị không thích ai cả. Quư vị không yêu người, cũng không yêu chó, mèo lại càng không ưa nữa. Cái ǵ cũng không vừa mắt, thấy cái ǵ cũng dễ giận. Thế rồi dời nhà đến một nơi khác, nào ngờ sau khi dời đi, lại gặp người, vật c̣n đáng ghét, tệ hại hơn trước! Những việc quư vị không muốn thấy, thấy nó càng ghét thêm mà quư vị lại hay gặp. A, kỳ lạ, thật kỳ lạ! Quư vị sợ mèo th́ suốt ngày mèo cứ chạy đến với quư vị, đuổi nó vẫn không đi. C̣n ghét chó à! Quư vị càng ghét nó lại càng quấn quưt quư vị. Quư vị ghét phái nữ ư? Phái nữ suốt ngày đến gơ cửa t́m quư vị. Quư vị không thích lại phải dời nhà, nhưng đến chỗ nào rồi cũng gặp cùng hoàn cảnh như thế, so với lúc trước càng tệ hại hơn! Nói chung không có ngày nào được an ổn, vui vẻ cả. Quư vị nói có khổ không?

Khổ này từ đâu mà có?

Thực sự là do tự tánh quư vị chiêu cảm nên, v́ bởi tự tánh quư vị thiếu định lực. Quư vị ở tại chỗ này thấy ḿnh với hàng xóm không ḥa thuậĩn nhau, song dời đến một nơi khác cũng lại không ḥa thuận nốt. Đây không phải là người ta không tốt với quư vị mà là quư vị không tốt với người ta đấy. Bởi tự ḿnh cảm thấy không có duyên với người ta nên người ta cũng thấy không có duyên với ḿnh. Thế th́ cảm thấy tốt cũng là khổ mà cảm thấy không tốt cũng là khổ. Vậy th́ phải làm sao đây? Phải hợp với Trung đạo. Tóm lại, bất cứ việc ǵ cũng không nên thái quá, v́ thái quá th́ cũng như bất cập. Oán tắng hội khổ này th́ rất lạ kỳĩ! Việc ǵ quư vị càng không muốn th́ càng đối đầu với nó. Người không muốn uống rượu, con quỷ rượu lại suốt ngày kề cận bên ḿnh. Người không muốn hút thuốc, con quỷ hút xách lại chạy đến nhà. Người không thích đánh bạc, con quỷ cờ bạc ngày ngày đến rủ rê. Tại sao thế? Chính v́ quư vị có oán tắng (ganh ghét), cho nên chúng mới cùng kéo tới làm khổ đấy. Có oán tắng hội khổ cùng ái biệt ly khổ đều bởi không rơ thấu Trung đạo chân chính, v́ nghiêng ngả về một bên, rớt ở một bên nên mới khổ. Nếu có thể giữ được Trung đạo th́ sẽ không bao giờ có khổ.

Tôi tin rằng không có ai chán ghét "tiền" cả, nhưng mà "tiền" này, quư vị càng không ghét, càng yêu thích nó càng không đến. Việc lạ được yêu mà không đến chính là "Cầu bất đắc khổ."

Yêu cũng khổ, ghét cũng khổ. Hễ yêu th́ có mong cầu, song thường là cầu không được. Có người cả đời mong muốn được phát tài, nên cần cù làm lụng, chịu đủ điều cay đắng. Từ khi lọt ḷng đă mong được phát tài, nhưng măi cho đến lúc chết mà tài vẫn chưa phát, lại làm con ma nghèo. Đó là cầu bất đắc khổ đấy! Có người cảm thấy làm quan rất thú, bèn t́m đủ mọi cách để được làm quan, nhưng t́m đến hết đời rốt cuộc cũng không làm được, đó cũng lại là cầu bất đắc khổ.

Có người suốt đời cầu danh mà cả đời cầu không được. Có người không có con cái muốn sanh một bé trai thông minh, một bé gái kháu khỉnh, nhưng cầu măi cầu hoài vẫn không được toại ư, đó cũng là cầu bất đắc khổ. Nhiều người suốt đời, nếu không cầu cái này th́ cầu cái kia, mà cái nào cũng cầu không được cả. Có người đi học th́ muốn làm Bác sĩ, nhưng v́ đời trước không vun trồng căn lành học hành, nên học đến già mắt mờ, tai điếc, đọc hàng tá sách mà học vị Bác sĩ cũng không rớ tới được. Ở Trung Hoa xưa có một vị tên là Lương Hạo, đi học đến 82 tuổi mới đỗ Trạng nguyên, nhưng đỗ Trạng không bao lâu th́ chết. Dù cho cầu được, nhưng chưa hưởng thụ được đă chết rồi. Đó cũng là khổ. Cầu Đông không được Đông, cầu Tây không được Tây; nói tóm lại, quư vị mong cầu mà không được toại nguyện. Đó là khổ!

Lại c̣n có "Ngũ ấm xí thạnh khổ." Ngũ ấm là ǵ? Tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Tâm Kinh nói: "Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc."

Nếu quư vị xem chúng là không th́ sẽ không có khổ. Năm thứ sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm này khi bốc dậy mạnh mẽ phi thường th́ rất là khổ, nhưng người ta không rời xa nó được. Bảy thứ khổ trước thuộc về cấu khổ (khổ nhơ bẩn), c̣n sắc thọ tưởng hành thức này vốn có sẵn bên trong tự tánh, luôn luôn gắn liền với quư vị, muốn ĺa cũng không ĺa được. Đó gọi là Ngũ ấm xí thạnh khổ.

Chơn quán thanh tịnh quán

Trí huệ quán rộng lớn

Bi quán và Từ quán

Thường nguyện thường chiêm ngưỡng.

Chơn quán thanh tịnh quán: Thế nào là "chơn quán?" Tức là quán Chơn không. Chơn không tức là không tướng nhân, ngă, chúng sanh, và thọ giả. Tuy không ngă tướng, không nhân tướng, không chúng sanh tướng, không thọ giả tướng, mà cũng không rời nhân tướng, ngă tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng. Cho nên "vô tướng" không có nghĩa là phải ĺa ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả, mà là ở ngay tướng ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả ấy không thấy có tướng ngă, nhân, chúng sanh, thọ giả. Đó gọi là ngay nơi tướng mà ĺa tướng. Cũng như ở trước tôi đă nói:

Mắt xem h́nh sắc, trong không có;

Tai nghe thanh sự, tâm như không.

Rơ ràng có h́nh có sắc, tại sao lại "trong không có?" Đó là v́ không có chấp trước. "Không quán" này cũng giống như Đại viên kính trí. Ở Đại viên kính trí tuy có vật th́ hiện, có tướng th́ ứng, có cảnh giới ǵ th́ hiện cảnh giới đó, nhưng nó không lưu lại dấu vết. Chơn không quán của Bồ Tát Quán Thế Âm cũng như thế.

Thế nào là "thanh tịnh quán?" V́ đối với nhiễm ô mà nói là thanh tịnh. Sao gọi là nhiễm ô? Hễ có chấp trước tức là nhiễm ô, có ái trước cũng là nhiễm ô, có tham trước cũng là nhiễm ô. Sức thanh tịnh th́ không có tất cả tham, sân, si; néáu có tham sân si th́ không thanh tịnh. Ví dụ như việc bố thí. Thông thường người ta bố thí hay có những tư tưởng này: "Người ấy có quan hệ với ta, người ấy là bạn bè thân thích với ta, hoặc ở cùng xóm với ta. Ta phải bố thí cho họ, giúp đỡ họ." Đa số bố thí cho những người gần gũi ḿnh, có quan hệ với ḿnh, rồi sau mới bố thí cho những người xa hơn. Đă có tâm phân biệt thân sơ xa gần là có tâm trước tướng, th́ không thể nào bố thí một cách b́nh đẳng vô tư được. Đó gọi là "bất thanh tịnh quán."

Bồ Tát Quán Thế Âm không phân biệt nhân ngă, thân sơ, xa gần, Ngài chỉ v́ bố thí mà bố thí. Bố thí có chia làm tài thí, pháp thí và vô úy thí. Tài thí lại có nội tài thí và ngoại tài thí. Ngoại tài là tài sản ở ngoài thân, nội tài là tài sản ở trong thân. Tài thí là đem những thứ ḿnh có bố thí cho người khác - như đem quốc gia thành tŕ bố thí cho người, đem vợ con bố thí cho chúng sanh. Quư vị xem thế mới là chân thí chân xả! Cho đến tất cả mọi thứ ruộng vườn, nhà cửa, tài sản đều đem bố thí cho cơ sở từ thiện, hoặc bố thí cho người có đạo đức. Đó gọi là bố thí ngoại tài. Nội tài thí là đem thân, tâm, tánh mạng, đầu, mắt, năo, tủy cho đến tứ chi xương cốt đều đem bố thí cả.

"Nếu có thể đem thân này để cứu vớt tất cả chúng sanh trên đời, th́ tôi xin đem thân thể này bố thí, cống hiến cho thế giới, cho đến tim tôi cũng xin bố thí cho người, sanh mạng tôi cũng xin bố thí cho người. Giả như có người nào cần đầu tôi, tôi sẽ chặt đầu đem đưa cho họ."

Cũng như Ngài Xá-lợi-phất khi tu hạnh Bồ-tát, có người đến xin một con mắt, Ngài bèn móc ngay một con mắt cho người đó. Nào ngờ người ấy nói: "Ngài lộn rồi! Không phải tôi xin con mắt này, con mắt kia ḱa!"

Bấy giờ ngài Xá-lợi-phất thối tâm Bồ-đề, nghĩ thầm: "A, Bồ-tát đạo khó tu thiệt!" Ngài Xá-lợi-phất chỉ xả được một nửa nội tài, c̣n một nửa xả không được. Nhưng Bồ-tát th́ nghĩ như vầy: "Nếu có thể đem óc tôi, xương tôi làm thuốc cứu người, th́ tôi xin nguyện bố thí hết." Đó là nội tài thí. Phàm những thứ ǵ thuộc về trí huệ, tinh thần của bản thân ḿnh đều gọi là Nội tài.

Lại c̣n có Pháp thí, là nói pháp giáo hóa chúng sanh. Thứ bố thí này là bố thí lớn nhất. Ấy là: "Trong các bố thí, pháp thí là hơn hết." Pháp bố thí là trọng yếu nhất, v́ thế chúng ta hiện nay (1969) ở Phật Giáo Giảng Đường, Giảng Đường tuy không rộng lắm, nhưng pháp lực cũng không phải nhỏ. Thứ năm th́ có Quả Địa giảng, thứ sáu th́ Quả Phổ giảng, thứ bảy th́ Quả Toàn giảng, và chủ nhật th́ giảng phẩm Phổ Môn. Phật Giáo Giảng Đường này mỗi ngày đều bận rộn túi bụi như thế, tất cả v́ pháp quên ḿnh. V́ Phật pháp, quên cả thân tâm tánh mạng, ngay đến sức khỏe của chính ḿnh cũng không để ư tới.

Mỗi cá nhân suốt ngày đều phải làm việc, tôi là Sư phụ giảng kinh cho quư vị, nhưng cũng phải làm việc như mọi người. V́ quá nhiều công việc phải làm nên mấy hôm nay gân cốt trên thân đều đau nhức cả. Tối hôm qua tôi hơi mệt một chút, không đến nghe giảng được, tại v́ làm việc nhiều quá nên mỏi mệt. Nhưng tôi làm Sư phụ có mỏi mệt, lười biếng một chút cũng không sao, v́ tôi học tập quá nhiều năm rồi, lười biếng một chút cũng có thể tha thứ, c̣n quư vị là học tṛ th́ không thể lười biếng được. Bất luận là ai giảng kinh đều phải đến dự nghe. Đến nghe pháp là biểu hiện hộ tŕ đạo tràng. Người đến nghe càng đông, không khí giảng kinh càng phấn khởi hơn. Nếu ai cũng không đến nghe th́ không c̣n phấn khởi nữa. Cho nên muốn hộ tŕ Phật Giáo Giảng Đường th́ phải đến nghe thuyết pháp, không phải bỏ ra rất nhiều tiền mới là hộ pháp ủng hộ đạo tràng.

Trong quư vị có Hộ giáo sứ, Bố giáo sĩ, Tuyên giáo sư. Tuyên giáo sư th́ giảng kinh thuyết pháp. Bố giáo sĩ phải đến khắp nơi bố cáo, quảng bá. Hộ giáo sứ th́ phải hết ḷng ủng hộ đạo tràng khiến cho đạo tràng ngày càng phát triển tốt đẹp hơn. Hộ pháp đạo tràng chính là hộ tŕ Phật giáo; hộ tŕ Phật giáo chính là hộ tŕ Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Đó là trách nhiệm của mỗi cá nhân quư vị. Người phương Tây, đối với Phật pháp, trước kia và cho tới bây giờ, có thể nói là hiểu biết quá ấu trĩ, thực sự không hiểu Phật pháp. Như có một vài vị ở Mỹ, tự xưng là Trưởng lăo, Pháp sư mà hiện nay chúng ta đều biết! Một khi hỏi đến kiến thức Phật pháp của họ th́ sao? Ngay cả chính họ cũng không hiểu thế nào là Phật giáo! Hiện nay quư vị đă nghe giảng Kinh Lăng Nghiêm, có thể nói quư vị đă hiểu khá nhiều về Phật giáo. Hiện đang giảng về pháp bố thí, quư vị hăy đem chỗ hiểu biết về Phật giáo của ḿnh giới thiệu cho tất cả chúng sanh và truyền bá cho từng cá nhân một. V́ truyền bá Phật pháp mà quên cả ăn ngủ cũng không sao. Tôi ngày xưa v́ quảng bá Phật pháp mà có t́nh trạng như thế: Có ai muốn học Phật pháp th́ tôi giảng giải cho họ quên cả ăn ngủ. Phải giải bày rơ ràng cho họ nghe mới hết trách nhiệm của ḿnh.

Tôi hy vọng các vị cũng làm giống như tôi vậy, làm hóa thân của tôi để hoằng dương Phật pháp, làm bố thí pháp. Bố thí pháp có giá trị hơn là quư vị bỏ nhiều tiền của ra bố thí. Hiện nay quư vị tích cực học tập Phật pháp, có mấy vị muốn xuất gia, đó là việc làm ít có, có thể nói là phá kỷ lục ở nước Mỹ. Có nhiều người như thế muốn xuất gia, muốn làm Tỳ-kheo, làm Tỳ-kheo-ni, đó thật là việc không thể nghĩ bàn. Quư vị phải xây dựng cơ sở và quy củ và đối với tiền đồ của Phật giáo nước Mỹ, mỗi một cá nhân đều nên gánh lấy trách nhiệm.

Phải nghĩ rằng: " Nếu ta c̣n một hơi thở, th́ công việc hoằng dương Phật giáo này c̣n là trách nhiệm của ta!"

Nếu có người nói họ cũng muốn gánh vác một chút trách nhiệm, th́ nên tùy hỷ; không nên nói là tôi gánh lấy trách nhiệm, anh không thể gánh lấy được.

Cho nên nói: Trách nhiệm hoằng dương Phật giáo là bổn phận của mọi người. Không nên thoái thác, quư vị hăy đứng lên, lấy việc hoằng dương Phật pháp làm nhiệm vụ của ḿnh, đó là điều kiện cơ bản của pháp thí.

Ngoài ra, lại c̣n có Vô úy thí. Như Bồ Tát Quán Thế Âm cứu bảy nạn, giải ba độc, ứng hai cầu, đều là Vô úy thí. Vô úy thí tức là lúc người khác có sự kinh hoàng sợ hăi, sắp phải thiệt mạng mà quư vị có thể hiện thân vô úy, thực hành hạnh vô úy để an ủi họ. Thế nào gọi là hiện thân vô úy? Ví như có người đang kẹt trong nạn lửa, suưt bị chết cháy, nhân bị khói mù vây hăm không biết đông tây nam bắc là đâu, không biết theo con đường nào để có thể thoát ra khỏi đám lửa. Ngay lúc đó quư vị không kể ǵ đến thân mạng, ra sức nhảy vào đám lửa kéo người ấy ra. Việc này có thể nói là chẳng dễ ǵ làm được. Đó gọi là xả thân mạng cứu chúng sanh, cũng tức là Vô úy thí.

Hoặc giả có người bị rớt xuống biển, sắp bị chết ch́m. Quư vị thấy thế, cũng không kể ǵ đến tánh mạng ḿnh, liền hăng hái quyết tâm nhảy xuống nước kéo người ấy lên bờ. Chẳng phải chỉ có nước lửa, cho đến trong nạn đao binh, súng đạn, có người bị bắn hoặc bị thương nơi trận địa, tánh mạng như ngàn cân treo sợi tóc. Trong lúc đó, quư vị hăng hái không nghĩ ǵ đến thân ḿnh, không quản ǵ đến sanh mạng chính ḿnh, nhảy vào chỗ nguy hiểm như thế để cứu người ra. Đó đều gọi là Vô úy thí.

Lại nữa, nếu có người gặp phải các tai ách nguy hiểm như tù tội, giặc cướp..., sinh mạng sắp đến hồi nguy kịch, hoặc đă mê man bất tĩnh, quư vị có thể dùng các phương tiện khéo léo cứu họ thoát khỏi hiểm nguy, đó cũng là Vô úy thí. Tóm lại, ngay khi người ta đang ở hoàn cảnh lo sợ khốn cùng, quư vị dùng tâm từ bi, ḷng dũng cảm, phát huy tinh thần đại vô úy, tinh thần không sợ bất cứ thứ ǵ để cứu giúp tất cả chúng sanh.

Quư vị cũng có thể thực hành Vô úy thí một cách gián tiếp. Cũng giống như Tŕ Địa Bồ Tát, ngài tuy không phải trực tiếp tu Vô úy thí mà là tu gián tiếp. Ngài tu như thế nào? Ngài biết phàm muốn qua sông th́ phải cần có cầu, không có cầu th́ qua sông không được, nếu qua liều th́ sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Bấy giờ ngài dùng sức ḿnh, bắt chước người xưa, dùng một ít ván hoặc cây gỗ bắc thành một chiếc cầu, khiến người qua sông không bị nguy hiểm.

Tuy có cầu không bị nguy hiểm, nhưng nếu gặp nước lũ, th́ thế nào cũng có nguy hiểm đến tánh mạng. Giống như Hư Vân lăo ḥa thượng khi xuống núi Cửu Hoa để đến chùa Cao Mân dự thiền thất, ngài nhớ ở Định Cảng có bắc một cây cầu gỗ, bèn ḍ theo lối cũ đi đến đó định qua sông, nào ngờ chiếc cầu ấy vừa mới bị nước lũ cuốn đi rồi. Kết quả là ngài bị rớt xuống sông, ở dưới sông đến một ngày một đêm, sau 24 tiếng đồng hồ mới được ngư ông vớt lên bờ. Lúc bấy giờ ngư ông nghĩ bụng:

-"A, phen này phát tài rồi đa! Kéo được một con cá to nặng ơi là nặng."

Nhưng khi kéo lưới lên xem lại, té ra là con cá ḥa thượng! Lúc xem kỹ lại, th́ không phải là cá ḥa thượng mà là Ḥa thượng thiệt, có choàng tăng y hẳn ḥi nhưng đă hết thở rồi. Gần đó có một ngôi chùa nhỏ, vị ngư ông ấy liền chạy đến báo với vị thầy trong chùa:

-"Này Ḥa thượng! Ḥa thượng! Hôm nay tôi đi lưới cá, lưới được một vị Ḥa thượng, xin cùng tôi đến đó xem sao." Vị thầy trong chùa nghĩ: "Thiệt là lạ! Tại sao lưới cá lại lưới được vị Ḥa thượng kia chứ?" Vị ấy cùng ngư ông đến xem th́ ra đó là Lăo ḥa thượng Đức Thanh! Tiếp đó họ làm cho nước trong bụng ngài ọc hết ra, Lăo ḥa thượng mới sống lại được. Thật như là sinh mạng có được lần thứ hai.

Sau khi Hư Vân lăo ḥa thượng bị nước cuốn suưt chết, ngài đi đến chùa Cao Mân dự thiền thất, rồi lâm bịnh nặng. Nhưng Nguyệt Lăng phương trượng không hay biết nên bảo ngài làm đại diện Phương trượng. Hư Lăo tự nghĩ: "Ta bịnh như thế này, làm sao có thể thay mặt cho Phương trượng được?" V́ thế ngài không vâng lời. Gia phong của chùa Cao Mân rất nghiêm nhặt - nếu được đề cử mà khước từ th́ bị tội khinh mạn tăng chúng. Kết quả ngài bị Nguyệt Lăng ḥa thượng phạt đánh bằng hương bảng, từ sáng đến tối phải nhịn đói. Quư vị xem Hư Lăo có thể nói là vị đại Thiện tri thức bậc nhất của Trung Hoa mà c̣n bị khổ sở không biết bao nhiêu, ở chùa Cao Mân, đi đâu cũng bị người ta coi thường, đối xử rất lạnh nhạt.

Ngài Tŕ Địa Bồ-tát chuyên môn sửa cầu đắp lộ. Khi ngài Hư Vân sắp tới Vân Nam, trên đường đi gặp một vị Ḥa thượng mỗi ngày từ sáng đến tối cầm cuốc sửa đường, không nói một lời nào. Đó cũng là hóa thân của Tŕ Địa Bồ-tát. Hễ thấy trên đường có miếng ngói hay miểng chai ngài đều nhặt để sang một bên, làm cho con đường được sạch sẽ. Ngài làm cực nhọc suốt ngày như thế mà có ai trả tiền công cho đâu! Không ai trả công mà cứ làm, quư vị có thấy là ngu si không? Nhưng chính v́ làm công không như thế ngài mới tu thành Tŕ Địa Bồ-tát, chứng được cảnh giới Vị bất thối, Niệm bất thối và Hạnh bất thối. Đó cũng là tu Vô úy thí. Pháp môn vô úy thật là rất rộnglớn. Tóm lại, lúc người đang sợ hăi, quư vị nên bố thí sự vô úy.

Một ví dụ gần nhất, như có người đă mấy ngày không có ǵ để ăn, sắp phải chết đói, trong ḷng rất hoang mang sợ sệt! Nghĩ rằng:

-"Chắc là phải chết đói mất! Không tiền mua thức ăn, đi ăn trộm chăng? Để tù tội à!"

Đang lúc họ ở trong t́nh trạng tiến thoái lưỡng nan ấy, quư vị gặp họ, thấy họ mặt vàng gầy ốm, hai chân mềm nhũn, bước đi không nổi. Lúc đó quư vị hỏi họ:

-"Anh sao thế? Bị bịnh phải không?"

Nhất định họ sẽ trả lời: "Bốn, năm ngày nay tôi không có hột cơm nào trong bụng cả."

Quư vị nói: "Được, hăy đến nhà tôi ăn cơm nhé!"

Đừng như người Thiên Tân, hễ sáng sớm thức dậy gặp ai đều hỏi: "Anh ăn cơm chưa?"

Người ta đáp: "Chưa!"

Bèn hỏi tiếp: "Chưa à? Vậy về nhà ăn cơm đi!"

Câu "về nhà" của họ không rơ ràng, không biết là về nhà họ? Hay là về nhà ḿnh? Tóm lại, chỗ nào cũng được. Đến nhà tôi ăn cũng được, đến nhà anh ăn cũng được. V́ vậy người chưa ăn cơm cũng không dám chắc là người ta mời ḿnh, bèn nói:

-"Ờ phải, tôi sẽ về nhà ăn cơm."

Người không có y phục để mặc, chịu khổ lạnh lẽo, quư vị cho họ một ít quần áo; người không có nhà để ở, quư vị cho họ nơi ăn chốn ở, đó cũng gọi là Vô úy thí. Nhưng một ngày, hai ngày c̣n có thể được, chớ không thể ở măi được. Trung Hoa có câu:

"Có thể cho một lần đỡ đói, không thể cho trăm bữa ăn no."

Cho một bữa cơm th́ có thể được, chớ đ̣i mỗi ngày phải nuôi cơm th́ không ai gánh vác nổi. V́ trên thế giới này ai ai cũng phải làm việc, chẳng thể sanh tâm ỷ lại được. Nếu quư vị có ư nghĩ này:

"Tôi hy vọng có người tu Bồ-tát đạo để tôi khỏi phải làm việc, tới bữa cơm chỉ cần đến nhà một vị Phật tử nào đó kể khổ: Tôi nay không có cơm ăn, xin quư vị cho tôi một ít 'vô úy thí ' khiến tôi không c̣n lo sợ v́ đói ăn, không bị đau khổ v́ đói khát nữa!"

Thế là không hợp quy củ rồi. Người ta ngẫu nhiên bị rơi vào hoàn cảnh bất đắc dĩ mới cầu sự trợ giúp nơi người khác th́ được, nhưng quư vị c̣n hơi sức, th́ phải cố gắng tự cường, mưu cầu hạnh phúc cho thế giới, chớ không nên tiêu hao vật chất trên thế giới này. Mọi người đều nên giúp đỡ thế giới này, chớ nên ỷ lại vào nó. Giúp đỡ thế giới này là thế nào? Chính là làm tốt cho mọi người, chớ không đ̣i mọi người làm tốt cho cá nhân ḿnh. Tức là tôi muốn làm lợi ích người khác mà không muốn người khác làm lợi ích cho cá nhân tôi. Quư vị có ư tưởng hy vọng người khác làm lợi ích cho chính ḿnh, đó chính là tâm ỷ lại mà không có tâm tự cường.

Mọi người phải nên cố làm việc, cố gắng tự cường, và không nên ỷ lại vào người khác. Đây là tông chỉ của tôi.

"Thanh tịnh quán" chính là sức quán thanh tịnh, cũng tức là ở tất cả mọi mặt bố thí, không trụ trước tướng bố thí. Đó chính là thanh tịnh quán mà không có pháp nhiễm ô. Bồ Tát Quán Thế Âm bố thí mà không chấp lấy tướng, tất cả ĺa tướng, cho nên thanh tịnh. Nếu c̣n trước tướng th́ không thanh tịnh.

Trí huệ quán rộng lớn: Rộng là to rộng, lớn là không có thứ ǵ so sánh bằng. Bồ Tát Quán Thế Âm có sức quán trí huệ rộng lớn, độ khắp tất cả, giáo hóa chúng sanh.

Bi quán và Từ quán: Ngài lại c̣n Bi quán. Có người hiểu lầm nghĩa kinh, bèn nói: "Quán Thế Âm Bồ Tát cũng thường hay khóc, không vui, v́ ngài Bi quán."

Câu nói này quá lầm lạc! Bi ở đây không phải là bi ai sầu thảm, mà có nghĩa là thương xót. Bồ-tát đối với tất cả chúng sanh có ḷng thương xót chân chánh. Tâm thương xót là thế nào? Ngài thường nghĩ như thế này:

-"Những người này thật là đáng thương xót! Ta dùng mọi cách để giáo hóa họ, mà họ vẫn không giác ngộ, vẫn mê muội, nên vẫn điên đảo măi."

Ngài thương xót chúng sanh như thế, gọi là Bi quán. V́ Ngài thương xót chúng sanh nên luôn luôn muốn cứu độ họ. Giống như quư vị thấy một đứa bé rất là kháu khỉnh lanh lợi, ai thấy cũng thương. Tại sao nó được người ta thích? V́ đứa bé đáng được thương. Thứ t́nh thương đó gọi là Bi quán. Chớ chẳng phải Bồ Tát Quán Thế Âm không vui, thậm chí suốt ngày khóc lóc buồn bă. Quư vị nếu muốn học theo Bồ Tát Quán Thế Âm th́ không nên cả ngày khóc lóc, buồn bă năo nuột, mà phải "Luôn sanh hoan hỷ chẳng lo rầu" mới được. Bi quán của Ngài chẳng phải là thứ khóc lóc bi quan ếm thế, v́ thế không nên nhầm lẫn.

Từ hay ban vui, Bi hay cứu khổ. "Bi quán" chính là dứt trừ đau khổ cho chúng sanh. "Từ quán" là cho chúng sanh sự vui thích. Thứ vui ban cho này chẳng phải là thứ vui tạm thời mà là thứ vui vĩnh viễn; nó là thứ vui chân chánh, không phải là thứ vui của thế gian. Thứ vui ấy như thế nào? Tức là ban cho tất cả pháp, khiến cho chúng sanh thực sự hiểu rơ Phật pháp mà không c̣n làm những việc điên đảo, gây khổ nữa. Đó gọi là ban vui. Thế nào là việc điên đảo? Như người thích uống rượu, uống đến say mèm, cảm thấy như ḿnh biến thành thần tiên. Hiển lộ cái "thần" của ḿnh, đi đứng loạng choạng, ngả xiêu ngả nghiêng, lại cho như thế là hay lắm! Trí óc bị lụt đi, thậm chí không biết ǵ cả. Quư vị thấy như thế có điên đảo không? Một người khá thông minh, nếu bị sâu rượu chi phối, th́ việc ǵ cũng có thể làm được - giết người, đốt nhà đều dám làm cả.

Có một hôm ở trạm xe bus, có một gă nghiện rượu đến xin tôi tiền để mua rượu uống. Tôi lại nhớ ra một việc cũng xảy ra ở một trạm xe bus. Bấy giờ, có một người da đen đi qua, tôi và anh ta không quen biết nhau. Không biết thế nào mà anh ta chạy đến đảnh lễ tôi, không nói một lời nào, lễ xong anh ta đứng dậy bước đi. Người này không phải lạy tôi để xin tiền, mà chỉ quỳ lại tôi trước mặt bao nhiêu người, lạy xong rồi đi. Cũng không biết anh ta là quỷ hay là thần? Thật là kỳ lạ! Tôi xem anh ta không phải là say rượu, không biết có phải là do một thứ linh cảm mà anh ta đến đảnh lễ tôi hay không? Đa số các quỷ thần thấy tôi đều cúi lạy. Mà anh ta, một người da đen lại cung kính quỳ lạy tôi, lạy xong liền đi, không dám nh́n thẳng tôi. Tôi nghĩ chắc có quỷ nhập vào người anh ta.

Uống rượu là như thế, hút thuốc lại càng điên đảo hơn. Tại sao? Lâu nay trong bụng quư vị vốn sạch sẽ, nhưng quư vị lại làm cho nó dơ bẩn đi. Có người nói:

-"Thưa Pháp sư, ngài nói sai rồi. Trong bụng tôi toàn là phân và nước tiểu, không sạch sẽ đâu."

Phải rồi, trong bụng quư vị không sạch sẽ. Song, sự không sạch sẽ đó cũng không hề chi. Một khi quư vị hút thuốc, bên trong cơ thể sẽ có chất nhựa thuốc giống như chất bợn đen x́ bám trong ống khói vậy. Quư vị hút vào bụng rồi nhả khói ra, nhưng trong bụng vẫn c̣n thứ đó, chỉ v́ quư vị không thấy nên không biết đấy thôi. Nếu thấy được, quư vị sẽ biết rằng hễ hút vào một hơi thuốc, th́ như phun một lớp khói mờ trên mặt gương; hút thêm một hơi, lại dày thêm một lớp. Xưa nay trong bụng đang sạch trơn nhưng quư vị lại rắc lên một lớp khói bụi. Đó không phải là điên đảo sao? Lại c̣n hút thuốc phiện nữa, khi hút cảm thấy tinh thần phấn chấn, thậm chí một bước có thể lên trời, như là đằng vân vậy. Đến khi tác dụng của khói thuốc qua rồi, toàn thân cảm thấy uể oải, khắp người khó chịu, không biết phải để cái thân này ở đâu mới thấy dễ chịu! Nhưng lại để đâu cho được? Một nỗi khó chịu khiến họ muốn ḅ xuống địa ngục cho xong, bởi họ nghĩ ở địa ngục cũng chưa khó chịu bằng như thế. Cho nên quư vị xem, mắc bịnh ghiền rồi, ngay đến địa ngục cũng muốn đâm đầu vào, khổ sở đến thế là cùng. Ngoài ra, vấn đề điên đảo c̣n rất nhiều. Tôi hy vọng người hút thuốc hăy mau chóng cai đi, người uống rượu mau mau chừa rượu đi; người biếng lười nên siêng năng một tí, chẳng nên biếng lười nữa; những người chăm chỉ cần kiệm không nên học thói lười biếng, mà nên làm nhiều việc tốt, nhiều việc thiện hơn nữa. Quư vị nếu không làm việc thiện, th́ rốt cuộc không có công đức. Quư vị phải làm mới có. Đức là do thiện mà có. Bất cứ làm việc thiện ǵ, tự nhiên sẽ có đức, tự nhiên không điên đảo. Quư vị chẳng làm việc thiện, lại c̣n đem tiền đi chơi bời hoang phí, hoặc mua sắm đồ vật không cần thiết, đó là điên đảo. Quư vị đem đồng tiền hữu dụng dùng vào chỗ hữu dụng, gọi là không điên đảo; quư vị đem tiền hữu dụng dùng vào chỗ vô dụng, đó là điên đảo. V́ thế, điên đảo có rất nhiều thứ.

Bồ Tát Quán Thế Âm có thể chỉ cho chúng ta rơ các hành vi điên đảo để chúng ta không c̣n điên đảo nữa, khiến cho chúng ta đạt được niềm vui chân chính, vĩnh hằng. Đó gọi là "Từ." Bi là hay cứu khổ, không những là cứu quư vị thoát cái khổ tạm thời mà c̣n cứu thoát cái khổ từ đời đời kiếp kiếp. Chỉ cần quư vị sanh khởi ḷng tin. Khi quư vị có ḷng tin th́ Bồ Tát Quán Thế Âm mới có từ quán, bi quán quư vị. Nếu quư vị không có ḷng tin, th́ Từ quán và Bi quán của Bồ Tát Quán Thế Âm đối với quư vị chẳng khác nào như nước với lửa, không thể ḥa hợp được. Bồ Tát Quán Thế Âm dùng ḷng từ bi bao la đối đăi với quư vị mà quư vị lại lạnh lùng, thờ ơ th́ không thể cùng Ngài ḥa hợĩp. Thờ ơ, lănh đạm tức là không có ḷng tin. Nếu quư vị có ḷng tin th́ sẽ được tương hợp với Từ quán và Bi quán của Bồ Tát Quán Thế Âm. Khi đă hợp th́ quư vị ĺa khổ được vui.

Thế nào là chân khổ (cái khổ thực sự)? Có phiền năo là chân khổ. Nếu quư vị không có phiền năo th́ được an lạc. Tại sao quư vị không an lạc? Tại v́ quư vị có phiền năo. Bồ Tát Quán Thế Âm có thể tiêu trừ phiền năo của quư vị, khiến cho quư vị đạt được sự an lạc chân chính.

Thường nguyện thường chiêm ngưỡng: Chúng ta đều muốn thường xuyên được chiêm ngưỡng dung mạo và đức tướng từ bi của Bồ Tát Quán Thế Âm. Chiêm ngưỡng là thường xuyên "quan chiêm ngưỡng vọng" lặng lẽ nghắm nh́n với ḷng cung kính, càng nh́n càng ưa thích; đối trước tượng Bồ-tát, năm vóc gieo sát đất, nhất tâm cung kính đảnh lễ. Lạy Đại Bi Sám chính là một hạnh biểu lộ sự cung kính Bồ Tát Quán Thế Âm. Nếu quư vị không lạy Đại Bi Sám, th́ cũng giống như người Mỹ không thích cúi đầu lạy vậy. Ngay đến đầu c̣n không chịu cúi th́ làm sao gọi là tin Phật? Quư vị tin Phật là tin Phật nào? Có người nói: "Tôi tin Phật của chính tôi." Nếu quư vị tin ông Phật của chính ḿnh th́ không thể có "chính ḿnh" được. V́ quư vị không t́m thấy ông Phật của chính ḿnh, cho nên ông Phật ở bên ngoài quư vị cũng không nhận ra được. Nếu tin vào ông Phật của chính ḿnh th́ không thể không cúi đầu lạy. Cúi đầu lạy là biểu thị ḷng cung kính thành khẩn nhất. Ngũ thể đầu địa cũng là một hạnh lễ phép. Quư vị ngay cả một phép tắc lễ độ c̣n không có, th́ nói ǵ đến tin Phật ư? Trước đây có một ông bác sĩ, có nhiều tin tưởng ông ta, xem ông ta như Phật vậy. Ông ta lại bảo mọi người không nên lạy Phật. Người ta th́ lễ Phật, c̣n ông th́ đứng yên như khúc gỗ vậy, nhưng chính ông ta cũng không biết. Tại sao? V́ "ngă tướng chưa không." Người không lạy Phật, thứ nhất là do ngă mạn, cảm thấy ḿnh rất vĩ đại, vĩ đại hơn cả Phật nữa, nên không cần phải lạy Phật. V́ ông ta cống cao ngă mạn nên thấy Phật cũng không lạy. Như vậy th́ làm sao học Phật, tin Phật? Thực sự ông ta vốn không hiểu ǵ về Phật giáo, nhưng đi đến đâu ông ta cũng nói Phật pháp, thật là tai hại quá mức!

Sáng trong sạch không nhơ

Trời huệ phá tối tăm

Hay phục tai phong hỏa

Chiếu sáng khắp thế gian.

Bốn câu kệ này thật là kỳ diệu không thể nói! Kỳ diệu như thế nào? Bốn câu kệ này có thể trị được bịnh về mắt. Người nào mắt có bịnh, nếu có thể thường xuyên đọc bốn câu kệ tụng này, th́ mắt có thể khá hơn. Nhưng bịnh mắt dù khá, mà quư vị cần phải chính ḿnh phát sanh trí huệ mới có thể trị lành triệt để được. Nếu như chưa phát sanh trí huệ, th́ dù cho tạm thời khỏi bịnh, tương lai có thể sẽ tái phát. Trong quyển "Quán Âm Dị Kư" có ghi chép việc trị lành bịnh mắt. Làm sao có thể trị bịnh mắt được? Đó là cảnh giới không thể nghĩ bàn, do nhờ sức oai thần của Bồ-tát Quán Thế Âm gia hộ. Tóm lại, quư vị tin vào lời kinh th́ ứng dụng vào bất cứ việc ǵ cũng đều có linh nghiệm, hiệu dụng phi thường. Nếu quư vị không tin th́ sẽ không có công hiệu. V́ thế trong biển lớn Phật pháp, chỉ có ḷng tin mới vào được. Đại pháp của Phật giống như biển cả vô lượng vô biên, mênh mông không biết sâu rộng bao nhiêu? Nếu quư vị có ḷng tin th́ Phật có thể tiếp dẫn quư vị bước vào.

Sáng trong sạch không nhơ: Thế nào gọi là "không nhơ?" Nhơ là bụi nhơ, cũng là thứ không thanh tịnh. Quư vị không có thứ bụi nhơ không thanh tịnh ấy th́ tự nhiên tỏa ra ánh sáng thanh tịnh. Thứ ánh sáng thanh tịnh này là đối với bụi nhơ mà nói. Không có bụi nhơ th́ có ánh sáng thanh tịnh; ngược lại, có bụi nhơ th́ không có ánh sáng thanh tịnh. Thế nào là không có bụi nhơ? Tức là không có vọng tưởng. Quư vị không có vọng tưởng tức là không có bụi nhơ. Nếu quư vị khởi một vọng tưởng th́ có một lớp bụi nhơ, khởi hai vọng tưởng th́ có hai lớp bụi nhơ, ba vọng tưởng th́ có ba lớp bụi nhơ. Vọng tưởng càng nhiều th́ bụi nhơ càng dày.

Người tham thiền thường nói "Minh tâm kiến tánh," minh tâm chính là không có bụi nhơ, kiến tánh chính là thấy được ánh sáng thanh tịnh. Phải không có bụi nhơ mới có thể thấy được ánh sáng thanh tịnh. Nếu có bụi nhơ th́ không thể thấy được ánh sáng thanh tịnh. Cho nên "minh tâm kiến tánh" chính là minh bản tâm ḿnh, kiến bản tánh của ḿnh (minh tự bản tâm, kiến tự bản tánh). Tánh của bản tâm như trong Kinh Lăng Nghiêm nói:

"Chân tâm thường trụ, tánh tịnh minh thể."

Chân tâm thường trụ chính là minh tâm; tánh tịnh minh thể tức là thanh tịnh minh thể, cũng là tánh Như Lai Tạng. Minh tâm kiến tánh cũng là rơ biết tánh Như Lai Tạng sẵn có của chính ḿnh. Đó cũng gọi là "không nhơ."

Trời huệ phá tối tăm: Mặt trời huệ tức là trí huệ giống như mặt trời, chiếu tan tất cả hắc ám. Thế nào là hắc ám? Hắc ám rất nhiều, ví dụ: Quư vị không có ḷng tin, là hắc ám; không có trí huệ, là hắc ám; không có nguyện tâm, là hắc ám; không có thật hành tâm, là hắc ám. Lại nữa, quư vị không giữ giới luật, chính là hắc ám; quư vị không tu Định lực, Huệ lực chính là hắc ám; quư vị tu hành không y chiếu theo Giới Định Huệ cũng chính là đi trên con đường hắc ám. Trái lại, quư vị tu hành theo Giới Định Huệ, chính là quang minh. Cho nên "Trời huệ phá tối tăm," mặt trời trí huệ phá tan tất cả mọi tối tăm. Quư vị muốn đi nghe Phật pháp, là quang minh. Quư vị nghĩ: "Ḿnh nghe pháp đă mấy ngày rồi, cũng không thấy có ǵ hay. Vị Pháp sư này ngồi trên pháp ṭa, giảng tới giảng lui chỉ có bao nhiêu đó. Ḿnh nghe không biết mấy lần rồi, chỉ là dạy người ta dứt trừ tham sân si, tu giới định huệ mà thôi. Ḿnh nghe chán cả tai."

Quư vị chán không muốn nghe chính là hắc ám hiện tiền đấy! Trái lại nghe không thấy chán: "Vị Pháp sư này giảng pháp, càng nghe càng có nghĩa lư, càng có ư vị. Thậm chí tiếng nói giọng cười của vị Pháp sư này, ḿnh nghe kinh xong, vẫn c̣n đọng lại những lời thuyết pháp ở bên tai ḿnh. Suốt ngày từ sáng đến tối, tiếng thuyết pháp của vị Pháp sư như c̣n vang bên tai." Đó chính là quang minh đấy! Trái lại không muốn nghe pháp chính là hắc ám.

Giảng đến đây, tôi lại nhớ một chuyện. Lúc c̣n ở Hồng Kông, có một vị nữ cư sĩ đến gặp tôi. Sau khi gặp tôi, quư vị biết bà ta thế nào không? Bà ta đi đứng nằm ngồi đều thấy tôi đang thuyết pháp cả. Nhưng vị cư sĩ ấy nói thế nào? Bà ta nói: "Vị Pháp sư Độ Luân này chắc là ma quá! Tại sao tôi cứ luôn thấy ông ta thế?" Bà ta thường thấy Pháp sư nói pháp, lại cho là ma; thế th́ nếu thấy ma hẳn bà lại cho là Phật! Vị cư sĩ ấy thường thấy tôi lại nói là thấy ma, c̣n mắng chửi, và đ̣i đánh tôi nữa. Không đầy mấy tháng sau, bà ta mắc bịnh ung thư mà chết. Thực ra tôi cũng muốn cứu bà ta, nhưng bà lại cứ cho tôi là ma, nên tôi cũng đành bó tay. Hôm nay tôi sực nhớ lại chuyện này nên kể cho quư vị nghe. Quư vị thử nghĩ xem, bà ta gặp Pháp sư lại cho là ma; nếu như gặp ma, bà ta sẽ nói như thế nào? V́ thế, ở đời có rất nhiều người nhận giả làm thật. C̣n thật lại cho là giả. Khi gặp giả cứ bảo là thật. Thường thường là bị lầm lạc như thế!

Trí huệ của Bồ Tát Quán Thế Âm cũng giống như mặt trời, phá tan tất cả mọi hắc ám. Chiếu phá những hắc ám ǵ? Bồ Tát Quán Thế Âm tu "Chân không quán," chiếu phá những hắc ám của Kiến hoặc, Tư hoặc, chứng được đức Bát-nhă. Kiến hoặc là ǵ? Là đối cảnh khởi tham ái. Tư hoặc là ǵ? Là mê lư khởi phân biệt. Bồ Tát Quán Thế Âm tu "Thanh tịnh quán," phá trừ hắc ám Trần sa hoặc, chứng được đức Giải thoát. Bồ Tát Quán Thế Âm tu "Trí huệ quán," phá trừ hắc ám Vô minh hoặc, chứng được đức Pháp thân. Đó gọi là chứa đủủ ba đức (Tam Đức Bí Tạng) - Bát nhă đức, Giải thoát đức và Pháp thân đức. Bồ Tát Quán Thế Âm do tu ba quán (Chân không quán, Thanh tịnh quán, Trí huệ quán) mà chứng được ba đức, đoạn trừ hắc ám Kiến Tư, Trần sa và Vô minh, cho nên nói là "Trời huệ phá tối tăm." Huệ đây chính là quán, và quán chính là Huệ.

Hay phục tai phong hỏa: Bồ Tát Quán Thế Âm có thể dập tắt tam tai. Tam tai là ba thứ tai họa - thủy tai, hỏa tai và phong tai. Nước ngập Sơ thiền thiên, lửa thiêu Nhị thiền thiên, gió quét Tam thiền thiên.

Khi có tam tai, thủy tai xảy ra trước nhất. Bấy giờ, nước không biết từ đâu tràn đến - chẳng rơ là từ tinh cầu, mặt trăng, hay là từ các thiên hà - mà cuồn cuộn dâng cao, sóng bủa ngập trời; chẳng những d́m chết nhân loại ở thế gian mà c̣n tràn ngập cả trời Sơ thiền. Trời Sơ thiền v́ sao lại bị nước nhận ch́m? Đó là v́ thiên nhân của Sơ thiền thiên có nước phiền năo, nên mới khơi động nước ở thế gian. Đây là tai họa thứ nhất.

Sau trận thủy tai trên, thế giới này, không rơ là nơi nào, chỉ c̣n ít người sống sót; nhưng về sau dân số gia tăng và thế giới gặp phải nạn nhân măn. Nhân loại đông đúc quá th́ càng phức tạp, số người tạo nghiệp cũng nhiều thêm. Bấy giờ, tai họa thứ nh́ là hỏa tai xảy ra. Cơn hỏa tai này ngùn ngụt thiêu đốt đến tận trời Nhị thiền; thiên nhân ở trời Nhị thiền cũng không chịu đựng nổi ngọn lửa này.

Tại sao xảy ra trận hỏa tai này? V́ thiên nhân ở Nhị thiền thiên có lửa phiền năo, cho nên lửa trong tự tánh của họ dẫn khởi lửa thế gian bên ngoài. Lúc đó, trên không trung bỗng xuất hiện bảy mặt trời. Một mặt trời mà người ta đă chịu không nổi; thế mà khi ấy bảy mặt trời xuất hiện cùng một lúc, khiến cả sơn hà đại địa đều bị nung đốt thành than, không có một nơi nào được mát mẻ, cho nên loài người đều bị chết cháy. Biển bị khô cạn, biến thành lục địa; lục địa biến thành núi cao; núi cao biến thành biển cả. Giữa trời và đất có những sự việc kỳ diệu như thế đấy! Đó là "lửa thiêu Nhị thiền."

Sau trận hỏa tai, trải qua một thời gian rất lâu dài, dân số ở thế gian dần dần gia tăng, loài người đông đúc trở lại và đưa đến nạn nhân măn. Bấy giờ, tai họa thứ ba là phong tai xảy ra. Không chỉ nhà cửa thành quách, sơn hà đại địa, cây cối thảo mộc ở nhân gian bị gió ào ạt càn quét, thổi cho tan tành, mà ngay cả trời Tam thiền cũng chẳng thoát được thứ tai họa này. Tam thiền thiên sở dĩ có phong tai là v́ thiên nhân ở trời Tam thiền có gió phiền năo. Do gió trong tự tánh của họ tiếp xúc với gió băo của thế gian, nên phát khởi phong tai. Sơ thiền thiên có thủy tai, Nhị thiền thiên có hỏa tai, Tam thiền thiên có phong tai - ngay cả thiên nhân cũng không thể tránh khỏi những tai họa này, do đó có bài kệ rằng:

Lục dục chư thiên đủ ngũ suy

Tam thiền cơi ấy vẫn phong tai

Dù tu đến trời Phi phi tưởng

Nào sánh Tây phương quy khứ lai.

Sao gọi là ngũ suy? Tướng suy thứ nhất là hoa trên đầu héo tàn. Hoa đây là đóa hoa đính trên mũ của hàng thiên chúng. Hoa này không phải là thứ do người ta trồng, mà là hoa tự nhiên dùng để trang sức trên mũ. Khi tướng ngũ suy chưa hiện th́ hoa trang sức này tươi tốt măi; khi tướng ngũ suy hiện ra th́ hoa này héo úa, báo hiệu vị thiên nhân ấy sắp mạng chung.

Tướng suy thứ hai là quần áo dơ bẩn. Y phục của trời không giống như y phục ở thế gian, một tuần giặt một lần hoặc hai tuần giặt một lần. Nếu không giặt th́ không sạch sẽ. Y phục của trời không cần phải giặt ǵ cả v́ nó không bị lấm dơ. Khi tướng ngũ suy hiện ra, y phục vị trời ấy tự nhiên bị lấm bụi dơ, báo hiệu vị ấy sắp mạng chung. Cũng giống như chúng ta khi sắp chết, hơi thở chưa dứt mà trên thân có chỗ lại sanh ḍi. B́nh thời không thể sanh ḍi được, tới chừng sắp chết, trên thân có rất nhiều chỗ sanh ḍi. Người trên trời áo bị lấm bụi cũng là do nghiệp báo cảm vời ra. Thế giới chúng ta tại sao có quá nhiều bụi bặm như thế? Kinh Lăng Nghiêm nói, "nhân v́ tâm chúng ta quá nhiều vọng tưởng nên bụi bặm của thế giới cũng biến ra nhiều." Vọng tưởng của chúng ta không khác nào bụi bặm, nên táát cả bụi bặm đều do tâm vọng tưởng của chúng ta tạo thành. Khi tướng ngũ suy của người trời hiện ra, y phục có bụi bặm là thế.

Tướng suy thứ ba là hai nách đổ mồ hôi. Người trên trời không giống như chúng ta thân thể thường tiết ra mồ hôi đâu. Họ không bao giờ có mồ hôi cả, nhưng khi tướng ngũ suy hiện ra th́ hai nách lại tiết ra mồ hôi.

Tướng suy thứ tư là thân thể hôi hám. Người trên trời suốt ngày thân thể đều toát hương thơm. Họ không cần xức dầu thơm hay thoa phấn thơm mà vẫn có một mùi hương nơi thân tỏa ra. Khi tướng ngũ suy hiện ra, trên thân không c̣n mùi hương nữa mà tiết ra mùi hôi.

Tướng suy thứ năm là không thích chỗ ngồi của ḿnh. Thiên nhân rất là tự tại, suốt ngày ngồi tham thiền và không có sự việc ǵ khác lạ xảy ra. Khi tướng ngũ suy hiện ra th́ họ ngồi không yên nữa. Hễ vừa ngồi th́ lại đứng lên, đứng lên lại ngồi xuống, cứ đứng đứng ngồi ngồi như vậy măi, một niệm mất đi tri giác th́ vị ấy mạng chung.

Sáu cơi trời Dục này có tướng ngũ suy hiện, nhưng ở trời Sơ thiền có hỏa tai, Nhị thiền có thủy tai, Tam thiền có phong tai. V́ thiên nhân Tam thiền có gió phiền năo nên tiếp xúc với gió thế gian tạo thành phong tai. V́ thế mà nói:

Lục dục chư thiên đủ ngũ suy

Tam thiền cơi ấy vẫn phong tai

Dù tu đến trời Phi phi tưởng

Nào sánh Tây phương quy khứ lai.

Dù cho quư vị sanh lên trời Phi phi tưởng, hưởng thọ phước trời lâu đến tám vạn đại kiếp, nhưng khi phước trời hết lại bị đọa lạc xuống nhân gian, hoặc đọa vào địa ngục đạo, ngạ quỷ đạo hay súc sanh đạo. Điều đó không nhất định, nên rất nguy hiểm. Chẳng bằng tu văng sanh về thế giới Cực Lạc, rồi quay thuyền Từ lại, giống như Bồ-tát Quán Thế Âm, để hóa độ chúng sanh, như vậy là ổn thỏa nhất.

Chiếu sáng khắp thế gian: Trí huệ sáng suốt của Bồ Tát Quán Thế Âm rực rỡ chiếu khắp cả thế giới Phàm thánh đồng cư. Cơi mà chúng ta hiện đang sống đây gọi là cơi Phàm thánh đồng cư, c̣n gọi là "Thế gian Phàm thánh đồng cư," tức là nơi mà phàm phu và thánh nhân cùng ở chung. Đại trí đại huệ mà Bồ Tát Quán Thế Âm đă tu, lại chiếu khắp đến thế giới Phương tiện hữu dư, cảnh giới mà hàng Nhị thừa an trụ. Phương tiện là phương tiện khéo léo. Hữu dư, là chỉ cho những phiền năo của thế giới này c̣n dư thừa chưa dứt hết. Bồ Tát Quán Thế Âm đầy đủ đại trí đại bi, lại chiếu khắp thế giới Thật báo trang nghiêm, tức là thế giới mà Bồ-tát ở. Thế giới của Phật ở gọi là thế giới Thường tịch quang, c̣n gọi là Thường tịch quang tịnh độ. Đại trí đại huệ của Bồ Tát Quán Thế Âm chiếu khắp cả tịnh độ Thường tịch quang, cơi Thật báo trang nghiêm, cơi Phương tiện hữu dư, cơi Phàm thánh đồng cư. Cho nên nói là: "Chiếu sáng khắp thế gian."

Thể Bi: giới sấm rền

Ḷng Từ như mây lớn

Pháp cam lồ mưa xuống

Lửa phiền năo diệt tan.

Bốn câu kệ này là khen ngợi đức từ bi của Bồ-tát Quán Thế Âm. Bồ Tát Quán Thế Âm dùng từ bi làm Pháp thể. Pháp thể từ bi này từ đâu mà có? Từ "giới" mà phát sanh. Ban sơ Bồ Tát Quán Thế Âm tu hành, do chuyên tu giới luật mà sanh ra Pháp thể Từ bi, Vô duyên đại từ. Thứ Pháp thể này cũng giống như tiếng sấm rền vang, tất cả chúng sanh đều được Ngài cứu tỉnh, gọi là "phát tiếng vang rền," người điếc cũng nghe được, người ngu cũng nghe biết. V́ thế câu "Thể Bi: giới sấm rền" là khen ngợi thân nghiệp Bồ Tát Quán Thế Âm không thể nghĩ bàn.

Ḷng Từ như mây lớn: Bồ-tát Quán Thế Âm dùng ḷng Từ bi b́nh đẳng, mắt Từ nh́n chúng sanh. Trong phẩm này cũng có nói:

Mắt Từ nh́n chúng sanh

Biển phước chứa vô cùng.

Bồ-tát Quán Thế Âm đă tu phước đức rộng lớn vô biên như biển cả. Với ư niệm Từ bi, Ngài b́nh đẳng ban vui cho chúng sanh, cảnh giới bất tư ngh́ này giống như vầng mây lớn giữa hư không.

Pháp cam lồ mưa xuống: Mưa xuống nước pháp cam lồ. Sao gọi là cam lồ? Cam lồ là thứ thuốc trường sanh bất lăo trên trời. Mạng sống của người cơi trời dài như thế, là nhờ uống thứ nước trường sanh bất lăo này. Có người nói:

-"À, người trời cũng dùng thuốc, hèn chi bây giờ người ta muốn khai ngộ cũng dùng drugs."

Nhưng thuốc trên trời là thuốc tự nhiên, sẵn có, không cần phải qua giai đoạn bào chế. Uống thứ thuốc bất lăo th́ không già. Vầng mây mầu to lớn của Bồ Tát Quán Thế Âm mưa xuống pháp cam lồ, mưa xuống thuốc trường sanh bất lăo, khiến cho mọi người ĺa khổ sanh già bịnh chết.

Lửa phiền năo diệt tan: Bồ Tát Quán Thế Âm diệt tan lửa dữ phiền năo của mỗi cá nhân trên thế giới. Tại sao chẳng thành Phật? Tại v́ có phiền năo. V́ sao không khai ngộ? Tại v́ có phiền năo. Tại sao quư vị không được giải thoát, không được tự do chân chánh? Cũng tại quư vị có phiền năo. Phiền năo cũng chính là chấp trước. Chấp trước chính là tên khác của phiền năo. Quư vị có chấp trước th́ không được giải thoát, v́ c̣n phiền năo. Vậy chấp trước là từ đâu sanh ra? Chính là do ḷng ích kỷ, tự tư tự lợi sanh ra. Quư vị nếu là người không có ḷng tự tư tự lợi mà đại công vô tư, th́ quư vị có ǵ để chấp trước? Nếu quư vị không có ḷng ích kỷ th́ cũng không có chấp trước. Không có chấp trước th́ không có phiền năo; không có phiền năo th́ giải thoát. Được giải thoát tức là khai ngộ, cũng chính là thành Phật. Cho nên phiền năo của chúng ta là một thứ xấu xa, tệ hại nhất. Nhưng mọi người đều không rời bỏ được thứ xấu xa ấy, mà thường gắn bó với phiền năo, đi đứng nằm ngồi luôn có nhau! Có người nói:

-"Tôi thường thường vui, không có phiền năo." Nếu quư vị được niềm vui chân chánh, th́ đương nhiên không có phiền năo. Nếu không đạt được niềm vui chân chánh, lại miễn cưỡng dụng tâm tạo tác để làm nên sự vui vẻ ấy, th́ đó không phải là niềm vui chân chánh, v́ vẫn có phiền năo tiềm ẩn bên trong, một ngày nào đó nó sẽ bộc phát, giống như dùng một tảng đá lớn đè lên cỏ, cỏ tuy không lớn được, nhưng đến khi dời tảng đá đi th́ cỏ lại mọc lên c̣n tươi tốt hơn trước nữa!

Trong bốn hoằng thệ nguyện, nguyện thứ nhất là:

-"Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ."

Bồ Tát Quán Thế Âm tại sao lại muốn đến thế giới này? Đó là v́ "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ" đấy.

-"Phiền năo vô tận thệ nguyện đoạn."

Bồ Tát Quán Thế Âm có phiền năo hay không? Phiền năo của Ngài th́ đă dứt hết rồi, nhưng Ngài lại coi phiền năo của chúng sanh như là của Ngài. Ngài thấy phiền năo của chúng sanh chưa dứt, bèn dùng mọi phương pháp để giáo hóa chúng sanh, khiến họ dứt trừ được phiền năo. Phiền năo th́ vô cùng tận giống như sóng biển vậy, niệm trước diệt niệm sau lại sanh, niệm sau diệt, niệm sau nữa lại sanh, nối tiếp nhau không dứt.

-"Pháp môn vô lượng thệ nguyện học."

Phật pháp thật vô lượng vô biên. Có người mới đọc qua một hoặc hai bộ kinh đă tự măn, cho rằng ḿnh đă hiểu Phật pháp. Phật pháp mà họ hiểu đó không bằng một giọt nước biển, thế mà đă tưởng là quá đủ rồi! Chẳng khác nào con kiến vào biển uống nước đầy bụng rồi nói: "Tôi uống sạch cả nước biển." Nó cho rằng đă uống sạch cả nước biển, chớ đâu biết rằng nó chỉ mới uống no bụng nó mà thôi. C̣n nước trong biển lớn kia, ngay đến một giọt nó uống cũng không hết!

-"Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành."

Không có ǵ cao quư hơn Phật đạo, v́ thế mỗi cá nhân đều nên phát nguyện quyết định thành Phật, không nên tự xem ḿnh là quá thấp kém, mà phải xem ḿnh bản lai là Phật. Nhưng bản lai là Phật chớ không phải hiện đang là Phật. Thực ra chúng ta lúc đầu vốn đầy đủ Phật tánh, cùng Phật không hai không khác. Nhưng hiện tại v́ chúng ta không biết tu hành nên không có bản lănh Tam thân, Tứ trí, Ngũ nhăn, Lục thông như Phật đấy thôi. V́ thế phải phát bốn hoằng thệ nguyện. Bồ Tát Quán Thế Âm vốn y chiếu theo bốn hoằng thệ nguyện để giáo hóa chúng sanh, nên Ngài rưới mưa pháp cam lồ, khiến các chúng sanh đều được mát mẻ, không c̣n phiền năo. Đó gọi là "lửa phiền năo diệt tan."

Tranh tụng đến cửa quan

Trong quân trận sợ hăi

Nhờ sức niệm Quán Âm

Các oán lùi tan ngay.

Tranh tụng đến cửa quan: "Tranh" là đấùu tranh. Thời Mạt pháp là đấu tranh kiên cố. Lúc Phật c̣n trụ thế là thời Chánh pháp. Sau khi Phật diệt độ, là thời Tượng pháp. Hai ngàn năm sau khi Phật diệt độ là thời Mạt pháp. Ở thời Chánh pháp là Thiền định kiên cố, mọi người đều ưa thích tham thiền, tập định, tu định lực. Thời đại Chánh pháp kéo dài một ngàn năm. Từ lúc Phật ra đời cho đến một ngàn năm sau khi Phật diệt độ là thời Chánh pháp. Qua thời kỳ Chánh pháp là thời kỳ Tượng pháp. Đây là thời đại Tự miếu kiên cố. Người ta ưa thích xây dựng chùa chiền, làm Phật tượng, v́ thế trên thế giới một số nước có rất nhiều chùa miếu. Thời Tượng pháp kéo dài một ngàn năm. Sau một ngàn năm này th́ đến thời kỳ Mạt pháp, pháp đă đến hồi cuối rốt. Thời kỳ Mạt pháp là mười ngàn năm. Thời kỳ này không phải là Thiền định kiên cố, cũng không phải là Tự miếu kiên cố, mà là Đấu tranh kiên cố. Nước này đấu tranh với nước kia, nhà này đấu tranh với nhà kia, người này đấu tranh với người kia, súc sanh đấu tranh với súc sanh, quỷ đấu tranh với quỷ, nơi nào cũng đều đấu tranh cả.

Tại sao lại đấu tranh? V́ đó là thời Mạt pháp, người ta chỉ biết đến đấu tranh. Nhưng trong thời kỳ Mạt pháp cũng có thời kỳ Chánh pháp, trong thời Tượng pháp cũng có thời kỳ Chánh pháp. Tại sao nói như thế? V́ mặc dù trong thời kỳ Mạt pháp, cũng không thể nói là không có ai tham thiền tĩnh tọa cả. Như chúng ta hiện nay tuy trong trăm ngàn bận rộn, song vẫn có thể thu xếp th́ giờ, lúc sáng sớm, khi chiều tối, hoặc lúc giữa trưa để dụng công tu hành, tham thiền tĩnh tọa; đó chính là biểu hiện của thời kỳ Chánh pháp vậy. Chẳng qua là ở thời kỳ Mạt pháp, Chánh pháp chỉ là một thành phần nhỏ, ít lại càng ít. Cho nên, chúng ta vào thời Mạt pháp c̣n có thể giảng kinh thuyết pháp, c̣n có người thu xếp th́ giờ trong bận rộn, trong trăm thứ rộn ràng, thậm chí bỏ ngủ quên ăn để nghe kinh, đó cũng gọi là Chánh pháp trong thời Mạt pháp. Hiện nay mọi người đều đề xướng việc cất chùa, xây dựng đạo tràng, đó cũng là công tác của thời Tượng pháp. V́ thế trong thời Mạt pháp cũng có thời kỳ Tượng pháp, cũng có thời kỳ Chánh pháp. Trong thời kỳ Tượng pháp cũng có thời kỳ Mạt pháp, cũng có thời kỳ Chánh pháp. V́ trong thời Tượng pháp có chỗ không lập chùa, có người không tin Phật pháp, như vậy có khác ǵ Mạt pháp đâu. Vậy th́ trong thời kỳ Tượng pháp tại sao phải cất chùa? Cất chùa có thể khiến mọi người nhóm họp lại một chỗ để dụng công tu hành, nên đó cũng là thời kỳ Chánh pháp. Thế th́ trong thời kỳ Chánh pháp cũng có thời kỳ Tượng pháp và Mạt pháp. Người ở thời đại Chánh pháp tham thiền tập định, cố nhiên là thời kỳ Chánh pháp rồi. Nhưng cũng có khi cất chùa lại giống như thời kỳ Tượng pháp. Ở thời kỳ Chánh pháp cũng không phải ai ai cũng học Phật pháp. Có người học chút ít Phật pháp rồi không chịu học nữa, lại cũng không để tâm nghiên cứu, đây chính là Mạt pháp trong thời Chánh pháp. Cho nên, trong mỗi thời kỳ đều đủ cả Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp.

Bây giờ là thời Mạt pháp đấu tranh kiên cố, mà chúng ta có thể tu tŕ Phật pháp, làm cho Phật pháp c̣n măi ở đời, hành tŕ sự nghiệp của Chánh pháp, mỗi ngày tụng tŕ chú Lăng Nghiêm, như thế là chúng ta giúp đỡ cho toàụn thế giới này vậy! Tại sao thế? Bởi v́ nếu thế giới này không c̣n một ai tụng chú Lăng Nghiêm cả, th́ thế giới sẽ sớm đi đến chỗ hủy diệt. Bấy giờ tất cả yêu ma quỷ quái, ly mị vọng lượng, đều xuất hiện. Hiện tại v́ sao chúng không dám xuất hiện? V́ ở thế giới này vẫn c̣n có người tŕ tụng chú Lăng Nghiêm, tu 42 Thủ Nhăn của chú Đại Bi, tu pháp môn ngàn tay ngàn mắt, nên yêu ma quỷ quái kiêng sợ, không dám xuất hiện, hoành hành.

"Tụng" là tố tụng, thưa kiện. Tranh tụng tức là đưa nhau đến ṭa án để tranh căi cho ra lẽ. Tranh căi th́ cần phải mời luật sư. Có một số luật sư có thể đem việc có lư nói thành vô lư, việc vô lư nói thành có lư. Ấy gọi là thị phi điên đảo.

Mấy tháng trước đây, báo chí đăng tin có một người đàn bà mưu sát chồng, nhưng bà ta có quá nhiều tiền, mới hứa hẹn với vị luật sư rằng, nếu căi cho bà được trắng án th́ bà sẽ trả cho một khoản tiền rất hậu hỉ. Vị luật sư ấy biết rơ bà ta là người giết chồng, nhưng trước pháp đ́nh dùng mọi lư lẽ biện hộ, bẻ cong sự thật khiến cho bà ta được miễn tội. Ôi! Quư vị nói như thế có công lư hay không? Chỉ có tiền thôi, dù giết người cũng không có tội! Đó chính là tranh tụng đấy. Đă không có tội, th́ khỏi phải đền mạng. Như vậy há chẳng phải là trên thế giới không c̣n chân lư nữa hay sao? Xưa nay đến pháp đ́nh là cốt t́m ra lẽ phải, nhưng đến đó có luật sư biện hộ cho, rồi có đạo lư cũng biến thành không đạo lư, không đạo lư cũng biến thành có đạo lư. Quư vị xem thế giới này phải chăng là thế giới tối tăm hắc ám?

"Đến chỗ quan": Đến chỗ quan chính là ra ṭa, đến pháp đ́nh t́m lẽ phải, xem lư do của ai đầy đủ, ai là người không có tội. Nhưng khi đến đó rồi, lư do của quư vị dù đầy đủ nhất, mà quư vị không tiền th́ thành có tội. C̣n lư do của quư vị không đầy đủ, quư vị không có đạo lư, mà quư vị có tiền th́ là người vô tội. Cho nên thế giới này bị tiền bạc chi phối, vùi lấp lương tâm con người đi.

Trong quân trận sợ hăi: Sợ sệt và kinh hăi ở trước quân trận, như t́nh h́nh hiện giờ ở Việt Nam (1968). Tại nơi đó, tuy đầy dẫy hăi hùng, nhưng nhờ sức niệm Quán Âm, nếu quư vị tụng niệm "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát," th́ các oán đều lui tan, tất cả oán hận đều không c̣n nữa. Đấu tranh chốn cửa quan và trong quân trận, đều là nhân v́ đời đời kiếp kiếp kết oán rất nhiều, nên mới tụ hội lại một chỗ để đền trả quả báo cho nhau; nhưng quư vị nếu hay tŕ niệm Bồ Tát Quán Thế Âm th́ những quả báo như thế đều có thể giảm bớt, nặng biến thành nhẹ, c̣n nhẹ trở thành không có. Nếu không niệm Bồ Tát Quán Thế Âm th́ những vấn đề ấy sẽ trở thành nghiêm trọng, nếu niệm Bồ Tát Quán Thế Âm th́ sẽ giảm nhẹ đi. Cho nên cảnh giới của Bồ Tát Quán Thế Âm không thể nghĩ bàn, không phải người thường có thể biết được.

Hồi đại chiến thế giới thứ hai, tại Thượng Hải có một vị cư sĩ tên là Phí Phàm Cảnh thường ngày niệm Bồ Tát Quán Thế Âm. Vào thời chiến tranh Trung Nhật, Thượng Hải thường bị phi cơ Nhật oanh tạc. Vị cư sĩ này thường hay dời nhà, một khi cảm thấy chỗ ḿnh ở có nguy cơ bị oanh tạc bèn dời đi chỗ khác. Ông ta vừa dời đi th́ nơi đó quả nhiên bị phi cơ Nhật dội bom. Ở chỗ thứ hai được bốn, năm hôm, ông ta lại cảm thấy bất an bèn dời vào Tô giới. Ở Thượng Hải có một khu vực của người Tây phương thuê của Trung Quốc, cho nên người Nhật không dám quấy phá Tô giới. Sau khi dời đến Tô giới, ông ta lại cảm thấy bất an bèn muốn dời đi nữa. Nhưng ngoại vi Tô giới có lưới điện bao quanh, ông ta không có cách nào dời ra khỏi được. Đang lúc tiến thoái lưỡng nan, không thể quyết định được, bỗng có một đứa nhỏ nói với ông ta:

-Mau chạy đi, đàng sau có quân Nhật kéo đến đấy!

Bấy giờ ông ta thấy trên lưới điện có một lỗ hổng rộng độ hai thước vừa vặn một người chui qua lọt. Thấy đứa bé chui qua lỗ hổng đó, cả nhà ông ta: bà mẹ, vợ, con cái đều theo lỗ hổng đó thoát ra ngoài. Khi thấy họ, các binh lính Tây phương pḥng thủ ở đó, cảm thấy rất lạ kỳ, không biết bọn họ tại sao lại chui ra được! Đến chừng họ t́m lại đứa bé th́ không thấy đâu nữa. Xem lại lưới điện vẫn nguyên vẹn, không có lỗ hổng hai thước vuông nào cả. Họ cảm thấy rất lạ kỳ! Từ đó họ đi một mạch đến Tô Châu, lánh khỏi tai nạn chiến tranh. Việc này chứng minh rằng cảnh giới của Bồ Tát Quán Thế Âm thật cao sâu khó nghĩ bàn, người đời không thể nào hiểu nổi. Trong mọi t́nh huống, Bồ Tát Quán Thế Âm luôn bảo hộ người niệm danh hiệu Ngài. V́ thế mỗi người chúng ta phải nên có ḷng tin vững chắc, tha thiết niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm.

"Các oán," như tôi đă nói ở trên, là quốc gia đấu tranh với quốc gia, gia đ́nh đấu tranh với gia đ́nh, cá nhân đấu tranh với cá nhân, quỷ đấu tranh với quỷ. Đây là do nghiệp lực của chúng sanh chiêu cảm ra cục diện như thế. Hiện nay có nhiều quốc gia, nhưng quư vị đừng cho rằng dân chúng trong các quốc gia ấy vốn là người cả. Có nơi là chuột thành bầy kết đội thác sanh làm người mà thành ra một quốc gia. Có rất nhiều ễnh ương cũng thác sanh làm người, thành một quốc gia.

Mùa xuân năm nay (1968) có báo đăng tin rằng ở quốc gia nọ có mấy vạn con ễnh ương tự sát tập thể. Tại sao thế? V́ ở nước đó ễnh ương quá nhiều, chúng tự sát để có thể thác sanh làm người. Sự kiện này chứng tỏ rằng đa số dân chúng trong quốc gia này đều là ễnh ương chuyển sanh. Nh́n kỹ, quư vị sẽ thấy tướng mạo dánh dấp của họ có phần nào tương tự ễnh ương. Quư vị không chú ư nên không biết đó thôi! Dân chúng của mỗi quốc gia thường là đồng một chủng loại. Chủng loại ấy đa số đời trước là súc sanh, nay cùng nhau đầu thai làm dân trong một quốc gia. Mùa xuân năm nay tôi giảng về đạo lư này, th́ có người hỏi:

-"Người Mỹ đa số là loài ǵ thác sanh? Là do chủng loại nào h́nh thành quốc gia này?"

Tôi đáp: "Người và súc sanh đều có cả, v́ dân nước Mỹ là do người của các quốc gia di dân tới, nên là một tập hợp gồm người cùng súc sanh."

Thật đấy, không phải đùa đâu. Nếu chúng ta khai được Ngũ nhăn (Phật nhăn, Pháp nhăn, Huệ nhăn, Thiên nhăn và Nhục nhăn) th́ biết rơ người trên thế giới này không hẳn đều là người, mà loài nào cũng có. Làm sao nh́n ra được? Quư vị nếu có Phật nhăn, khai mở được mắt trí huệ, mà muốn biết người ấy đời trước là ǵ hoặc đời trước đă làm ǵ, th́ nh́n vào cái bóng (shadow) đằng sau của người ấy; bởi bóng của thân đời trước vẫn c̣n đi theo cho đến đời này. Đời trước nếu họ là người th́ đời này cái bóng của họ là người, nếu họ là súc sanh th́ bóng của họ là súc sanh, nếu họ là yêu quái th́ bóng của họ là yêu quái. Chỉ có người mở được Ngũ nhăn mới có thể nh́n thấy được rơ ràng. Nếu không mở được Ngũ nhăn th́ sẽ không phân biệt ra được. Cho nên quư vị gặp một người nào đừng vội cho đó là người. Làm sao biết được vấn đề này? Nếu quư vị có được Thiên nhăn thông, th́ dễ dàng biết rơ. Chỉ cần quư vị cố gắng dụng công tu hành, th́ muốn biết việc ǵ cũng đều được cả.

Hiện tại ở nước kia (không phải tôi mắng chửi người), đa số dân chúng là chuột biến ra. Nhưng trong đó rất nhiều chuột, cũng có rất nhiều người, rất nhiều quỷ và súc sanh. Tóm lại, mỗi quốc gia đều có ngựa ḅ dê gà heo chó đủ loại sanh lên. Người ta cũng từ những chúng sanh này biến ra. Đạo lư này nói ra thật là vi diệu. Người thường v́ không chứng thật việc này nên không tin thôi. Nếu muốn chứng thật việc này cần phải thực sự dụng công tu hành chứng được thần thông. Tới lúc đó mới nói:

-"Trước kia có một vị Pháp sư nói về đạo lư này, thật không sai chút nào! Làm sao sự việc vi diệu như vầy ông ta lại nói ra hết như thế?"

Diệu âm, Quán thế âm

Phạm âm, Hải triều âm

Hơn các tiếng thế gian

Cho nên phải thường niệm.

Diệu âm, Quán thế âm: Bài kệ tụng trước: "Chơn quán thanh tịnh quán, Guán trí huệ rộng lớn, Bi quán và Từ quán, Thường nguyện thường chiêm ngưỡng" là nói về chữ "quán." Bây giờ nói về chữ "âm." Chữ "âm" này là diệu âm, quán thế âm. Chữ "âm" trong quán thế âm là "âm" thanh rất vi diệu, âm thanh vi diệu này chính là Quán thế âm.

Phạm âm, Hải triều âm: Thanh âm của Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng những vi diệu mà c̣n thanh tịnh nữa, cũng như tiếng con nước khi biển lặng yên. Biển vào những lúc nhất định, th́ phát ra tiếng hải triều (nước triều dâng lên hay rút xuống). Âm thanh thanh tịnh của Bồ Tát Quán Thế Âm cũng như Hải triều âm, âm thanh của hải triều.

Hơn các tiếng thế gian: Âm thanh của Bồ Tát Quán Thế Âm vượt hẳn tất cả âm thanh khác.

Cho nên phải thường niệm: V́ lẽ đó cho nên mỗi người chúng ta phải thường niệm Bồ Tát Quán Thế Âm.

Niệm niệm chớ sanh nghi

Bậc Tịnh thánh Quán Âm

Trong khổ năo tử ách

Giúp đỡ, làm chỗ nương.

Niệm niệm chớ sanh nghi: Lúc chúng ta niệm Bồ-tát Quán Thế Âm th́ đừng bao giờ sanh ḷng nghi ngờ. Chớ nên nghĩ như thế này: "Niệm có ích ǵ không? Niệm Bồ-tát Quán Thế Âm há chẳng phải là không có ư nghĩa ǵ?" Mỗi ngày đều niệm Bồ Tát Quán Thế Âm và cần nhất là không nên có tâm hoài nghi. Dù chỉ trong một niệm cũng không nên sanh tâm hoài nghi, mà phải nên sanh ḷng tin vững chắc.

Bậc Tịnh thánh Quán Âm: Bồ Tát Quán Thế Âm chính là bậc Thánh thanh tịnh.

Trong khổ năo tử ách: Ách tức là ách nạn. Đây là nói về lúc quư vị có phiền năo khổ đau hoặc là gặp phải hiểm nguy, mạng sống như chỉ mành treo chuông.

Giúp đỡ, làm chỗ nương: Lúc bấy giờ, Bồ-tát Quán Thế Âm sẽ làm người bảo hộ cho quư vị. Quư vị có thể đem thân tâm tánh mạng của ḿnh giao cho Ngài, Ngài nhất định sẽ che chở, giúp đỡ quư vị.

Đủ tất cả công đức

Mắt Từ trông chúng sanh

Biển phước lớn không lường

Cho nên phải đảnh lễ.

Đủ tất cả công đức: Bồ Tát Quán Thế Âm đầy đủ tất cả thần thông diệu dụng, không có thứ công đức nào mà Ngài chẳng đầy đủ. Bao nhiêu thần thông diệu dụng không thể nghĩ bàn Ngài đều có đủ.

Mắt Từ trông chúng sanh: Bồ Tát Quán Thế Âm luôn luôn dùng con mắt của người cha lành nh́n chúng sanh. Chúng sanh bất luận là có lỗi, có nghiệp tội hay không, Ngài đều thương xót cứu độ như nhau.

Biển phước lớn vô lường: V́ Bồ Tát Quán Thế Âm dùng đại từ b́nh đẳng cứu độ chúng sanh, nên phước báo của Ngài vô lượng vô biên, giống như biển lớn, sâu không thể lường.

Cho nên phải đảnh lễ: V́ Bồ-tát Quán Thế Âm có đầy đủ công đức, phước đức nên mỗi một cá nhân chúng ta phải nên đảnh lễ Ngài.

Như vậy là phần kệ tụng đă giảng xong. Chúng ta có cơ hội nghe được toàn bộ Kinh Pháp Hoa, thật là hy hữu. Hiện nay, đừng nói chi ở nước Mỹ, ngay cả ở Trung Hoa cũng không dễ ǵ nghe được toàn bộ Kinh Pháp Hoa. Ở Hồng Kông, Đài Loan có thể có cơ hội đó, nhưng cũng rất khó khăn. Hiện nay chúng ta đang sống ở Mỹ, sinh hoạt rất ổn định, mà được nghe Kinh Pháp Hoa là một việc rất may mắn. Quư vị đến nghe kinh, là vô h́nh trung giúp đỡ thế giới này. Chúng ta giảng kinh ở đây, cả thế giới chỗ nào cũng đầy đủ những điềm tốt lành. Hễ chỗ nào có pháp hội giảng kinh th́ Thiên long Bát bộ đều đến ủng hộ đạo tràng. Chúng ta có cơ hội này th́ đều là người có căn lành lớn. Nếu không có căn lành, muốn đến nghe cũng không thể đến được. Lúc muốn đến, không có ma chướng này sanh cũng có ma chướng khác khởi; tóm lại, nó làm cho quư vị không có cách nào đến nghe kinh được. Chúng ta hiện nay có thể nghe kinh nghe pháp, công đức đó thật là vô lượng vô biên, không thể cùng tận. Đến nghe kinh pháp, mỗi một cá nhân đều có thể có công đức rồi.

Lúc bấy giờ Bồ-tát Tŕ Địa liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn, nếu có chúng sanh nào nghe được phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát này, biết được các hạnh nghiệp tự tại và sức thần thông phổ môn thị hiện của Ngài, phải biết người ấy công đức không nhỏ."

Lúc Phật nói phẩm Phổ Môn này, trong chúng có tám muôn bốn ngàn chúng sanh đều phát tâm Vô Đẳng Đẳng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.

Lúc bấy giờ tức là lúc Đức Phật nói xong phần kệ tụng. Bồ-tát Tŕ Địa chính là Bồ-tát Tŕ Địa trong Kinh Lăng Nghiêm đă nói. Vị Bồ-tát này trong vô lượng kiếp về trước là một người mù chữ, thất học. Tuy chưa được học Phật Pháp, song hành vi của Ngài rất gần với Phật Pháp. Ngài có sức khỏe rất tốt; sức của ngài chẳng những rất mạnh mà c̣n vô cùng vô tận. Những vật người thường nhấc lên không nổi, ngài nhấc được; vật người ta vác không nổi, ngài vác được; việc người ta làm không được, ngài làm được. Ngài làm việc chi? Ngài sửa sang đường xá, tu bổ đạo lộ. Có lúc lại sửa cầu. Lên dốc xe đi không nổi, ngài giúp người ta đẩy xe. Có người vác đồ vật rất khó nhọc, ngài bèn vác giùm họ. Nhưng ngài chẳng ra giá, chẳng đ̣i tiền công. Trải qua một thời gian dài, Ngài cứ làm rất nhiều việc khó nhọc như vậy.

Có một lần, gặp Phật Phù Xá Lư; đức Phật hỏi ngài: "Tại sao ông sửa sang đường lộ như thế?"

Ngài đáp: "Con đắp đường cho bằng phẳng để người ta dễ dàng đi lại."

Phật Phù Xá Lư nói: "Ông chỉ đắp bằng đường sá là bỏ gốc theo ngọn đấy! Đây là dùng công phu trên chót ngọn, chỉ tu hành ngoài da thôi."

Bồ Tát Tŕ Địa nói: "Vậy th́ thế nào mới không phải là dùng công phu ngoài da? Thế nào là dùng công phu ở bên trong?"

Phật Phù Xá Lư nói: "Nếu ông muốn sửa bằng con đường này, nên sửa bằng tâm ḿnh trước. Tại sao con đường này không bằng phẳng? Thế giới có núi cao, có đại địa, có biển cả, đó là bởi ḷng người không bằng thẳng. Trong ḷng người có núi cao, nên đất cũng không bằng. Tâm địa nếu b́nh rồi th́ thế giới không chỗ nào chẳng bằng thẳng cả."

Bồ Tát Tŕ Địa nghe Đức Phật Phù Xá Lư dạy bảo xong, bèn tu pháp môn Tâm địa, san bằng mảnh đất tâm, tu hành chứng đến quả vị Bồ-tát. Do đó ngài được gọi là Tŕ Địa Bồ Tát.

Bồ-tát, trước đă giảng rồi, tức là giác hữu t́nh, bậc giác ngộ chúng sanh hữu t́nh. Cũng có nghĩa là Hữu t́nh giác, là một vị giác ngộ trong chúng sanh. Vị Tŕ Địa Bồ Tát này liền từ chỗ ngồi của ḿnh đứng dậy đến trước Phật bạch rằng:

-"Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe được phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát với các hạnh nghiệp tự tại, và phổ môn thị hiện sức thần thông - ba mươi hai Ứng thân, bốn thứ Vô úy, mười chín phương tiện thuyết pháp - của Ngài, th́ biết rằng người ấy có công đức không phải ít. Công đức lắng nghe Phổ Môn Phẩm là không có hạn lượng."

Không ít tức là nhiều, không có số lượng, vô lượng vô biên. Khi Phật Thích-ca diễn nói Kinh Pháp Hoa, nói đến phẩm Phổ Môn, trong đại chúng có tám muôn bốn ngàn chúng sanh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Thế nào là "tám muôn bốn ngàn chúng sanh?" Tám muôn bốn ngàn chúng sanh cũng chính là tám muôn bốn ngàn phiền năo. Mỗi phiền năo của chúng ta là một chúng sanh. Hơn nữa, trong thân mỗi chúng ta đều có tám muôn bốn ngàn vi sinh vật, vi sinh vật này chính là "khuẩn." Trong cơ thể của mỗi chúng ta đều có trùng. Con người chúng ta là một thứ trùng lớn, trong thân trùng lớn đó lại có trùng nhỏ. Trong máu, trong thịt, trong ngũ tạng không biết bao nhiêu là trùng nhỏ. Chúng ta sống như thế nào? Đó chẳng qua là trùng lớn nuôi trùng nhỏ, trùng nhỏ giúp đỡ trùng lớn. Quư vị cho con người là thế nào? Bên trong thân thể có vô lượng vô biên vi sinh vật, mỗi vi sinh vật là một chúng sanh đấy. Vậy th́ có bao nhiêu vi sinh vật? Nhiều đến đếm không xuể! Tóm lại, nhiều đến tám muôn bốn ngàn. Thực ra chẳng phải chỉ có tám muôn bốn ngàn, mà mười vạn tám ngàn cũng không nhất định. V́ thế trong tự tánh của mỗi chúng ta đầy đủ cả tám muôn bốn ngàn chúng sanh. Nhưng theo bên ngoài mà nói, th́ chúng sanh trên thế giới này đâu phải chỉ có tám muôn bốn ngàn! Tám muôn bốn ngàn chúng sanh trong pháp hội cũng chính là tám muôn bốn ngàn niệm trong tâm mỗi cá nhân. Niệm niệm sanh diệt, niệm niệm không dừng, niệm sanh chính là một chúng sanh, niệm diệt cũng là một chúng sanh; sanh sanh diệt diệt có tám muôn bốn ngàn chúng sanh, không rời tự tánh. Tám muôn bốn ngàn chúng sanh đều phát tâm Vô đẳng đẳng, thứ tâm không có ǵ ngang bằng, không có ǵ so sánh được, tức là A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm.

A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề (Anuttarasamyak---- sambodhi) là tiếng Phạn. A nghĩa là Vô, nậu-đa-la nghĩa là Thượng, Tam là Chánh, miệu là Đẳng, Bồ-đề nghĩa là Giác, gộp chung lại là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Vô thượng là không có thứ ǵ cao hơn. Chánh đẳng là ngang bằng với Phật. Chánh giác là giác ngộ của Phật. Đó là quả vị giác ngộ ngang bằng với Phật, cũng chính là phát tâm thành Phật. Có tám muôn bốn ngàn chúng sanh phát tâm thành Phật. Do phát tâm thành Phật rồi sau mới chứng đắc quả vị Phật. Ngay tại pháp hội, tám muôn bốn ngàn chúng sanh nghe được phẩm Phổ Môn đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đây là nhân duyên rất thù thắng.

Hiện tại chúng ta đang giảng phẩm Phổ Môn, trong giảng đường Phật Giáo Giảng Đường này có hơn hai mươi người nghe. Hai mươi người này, trong mỗi người đều có tám muôn bốn ngàn chúng sanh. Quư vị tính thử xem có bao nhiêu muôn? Nhưng bao nhiêu muôn này phải chăng đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Tôi tin rằng tuy không phát tâm ấy, đại đa số cũng phát tâm muốn thành Phật. Ở hội Pháp Hoa, người được nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, tương lai đều có phần thành Phật. Chúng ta hiện nay nghe được phẩm Phổ Môn của Bồ-tát Quán Thế Âm, đều là do đời quá khứ đă gieo trồng vô lượng vô biên căn lành, cho nên bây giờ mới có được nhân duyên tụ hội lại một chỗ để nghiên cứu Phật pháp. Đó là cảnh giới vi diệu không thể nghĩ bàn.

A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề là quả vị cao nhất, tức là quả vị Phật giác ngộ. Từ ngữ trên được phiên dịch là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chánh giác là nói người khai ngộ, có được chánh giác. Nhị thừa La-hán được khai ngộ Chánh giác, nhưng chưa đến được Chánh đẳng. Vậy th́ ai được Chánh đẳng? Bồ-tát là người được Chánh đẳng lại được Chánh giác. Chánh đẳng với Phật, nên gọi là Đẳng giác. Chánh giác là La-hán, Chánh đẳng là Bồ-tát. Bồ-tát có thể thành Chánh đẳng nhưng chưa thể thành Vô thượng. La-hán có thể thành Chánh giác, nhưng không thể thành Chánh đẳng. V́ Bồ-tát là bậc hữu thượng sĩ, ở trên ngài c̣n có bậc cao hơn. Phật gọi là Vô thượng sĩ, tức là không có ai cao hơn Phật nữa. Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tức là Bồ-đề viên măn, về nơi Vô sở đắc, được ba giác tṛn, muôn đức đủ, không c̣n có Chánh đẳng Chánh giác nào cao hơn nữa. Chỉ có Phật mới có tư cách nhận danh hiệu đó, ngoài ra các vị Bồ-tát, La-hán đều không thể so sánh với quả vị cao nhất này. Quả vị cao nhất này cũng là từ vị trí thấp nhất mà thành. Tu Đạo, quư vị cần phải khắc ghi một điều là không nên sanh ḷng tự măn, cống cao ngă mạn. Đó là từ nơi thấp nhất mà thành tựu được quả vị cao nhất vậy!

Lăo Tử Đạo Đức Kinh nói: "Bậc thượng thiện như nước, nước khéo lợi cho vạn vật mà không tranh, ở chỗ mọi người đều chê." Người thượng thiện giống như nước, khéo làm lợi ích cho tất cả vạn vật mà không tranh. Vật là nói về động vật bay nhảy và thực vật. Cả bốn loài (thai, noăn, thấp, hóa) đều cần có nước để nuôi dưỡng, tắm rửa, mà chính bản thân nước không bao giờ nghĩ rằng:

-"Này, vạn vật các anh đều cần có tôi mang lại sự lợi ích đấy nhé, các anh nhờ tôi giúp mới thành đấy!"

Không tranh là ǵ? Không tranh tức là không kể công, khoe khoang với mọi người: "Những việc ấy là do tôi làm, công đức này nhờ tôi mới thành tựu, ngôi chùa này do tôi sửa, cây cầu kia là của tôi làm." Không hề có tâm như thế, đó là không tranh. Nước th́ không tự tư cũng không tự lợi, cho nên Lăo Tử mới nói: "Người thượng thiện nên học theo tánh nước, nước khéo lợi vạn vật mà không tranh," không kể công, không tranh danh, không tranh lợi. "Ở chỗ mọi người chê," nước ở chỗ thấp, không ở trên cao. Có người nói: "Nước tại sao chẳng ở trên cao? Khi mưa, nước đều từ trên cao rơi xuống mà!" Đúng đấy, quư vị nói thật có lư, nước mưa là từ trên cao rơi xuống. Vậy th́, nó làm sao lên trên cao được? Nó là từ chỗ thấp nhất mà lên chỗ cao nhất, chớ chẳng phải là vốn ở trên cao. Nó ở trên cao lại phải rơi xuống mặt đất. Khi rơi xuống mặt đất, lại chảy vào biển, sông lớn, sông nhỏ, đổ vào hạ lưu. Nước chẳng qua là tạm thời ở trên cao mà thôi. Cho nên nói nước ở chỗ mọi người chê ghét, ở chỗ mà mọi người không thích ở. Người tu hành tại sao không ở nơi nhà cửa đẹp đẽ mà suốt ngày cứ ở trong sơn động? Đó cũng là học theo nước, ở chỗ thấp nhất. V́ nước ở chỗ mọi người chê, cho nên hợp với Đạo. Quư vị muốn thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng phải như thế, cũng phải từ chỗ thấp nhất đi lên. Không phải từ trên cao rơi xuống, cũng không phải sanh ra là thành ngay Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác được. Quư vị muốn thành Phật, trước phải làm chúng sanh tốt đă. Thế nào là làm chúng sanh tốt? Chính là làm bất cứ việc ǵ cũng đều hướng về cái thiện, không nên hướng về cái ác. Đó gọi là "Lựa thiện th́ theo, bất thiện th́ sửa." Đường thiện th́ theo, đường bất thiện th́ sửa. Phải sửa lỗi, tự làm mới lại chính ḿnh. Phải đạo th́ tiến, chẳng phải đạo th́ lùi. Hợp đạo th́ tiến lên phía trước, không hợp đạo th́ lùi lại phía sau. Có như thế mới có thể chứng được A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

Sự vi diệu của Phẩm Phổ Môn vô cùng vô tận, không phải trong thời gian ngắn có thể giảng nói hết được. Sau này có cơ hội sẽ nghiên cứu kỹ hơn. Thứ bảy này là ngày vía Bồ Tát Quán Thế Âm Thành Đạo. Chúng ta đă nghe xong Phẩm Phổ Môn, biết được thần thông diệu dụng của Bồ Tát Quán Thế Âm, đến hôm đó chúng ta sẽ phát tâm cúng dường Bồ Tát Quán Thế Âm, niệm danh hiệu Ngài cùng lạy Đại Bi Sám, cầu Bồ Tát Quán Thế Âm hiển thị diệu dụng bất tư ngh́. Ai có cầu điều chi, có thể thầm khấn trong tâm xin Bồ Tát Quán Thế Âm gia hộ. Tôi tin tưởng Bồ Tát Quán Thế Âm nhất định sẽ gia hộ quư vị được tùy tâm măn nguyện. Kinh Pháp Hoa là Pháp Hoa thành Phật, người nghe được Kinh Pháp Hoa là có phần được thành Phật, cho nên cơ hội này là rất khó gặp vậy !

Hộ Tŕ Sáu Căn Mỗi Phút Mỗi Giây Đi Đứng Nằm Ngồi Tâm Chánh Niệm ! ... Trau Giồi Ba Học Khi Cười Khi Nói Vào Ra Tiếp Xúc Tướng Đoan Nghiêm ! ... Chúng Sanh Vô Biên Thệ Nguyện Độ ! Phiền Năo Vô Tận Thệ Nguyện Đoạn ! Pháp Môn Vô Lượng Thệ Nguyện Học ! Phật Đạo Vô Thượng Thệ Nguyện Thành ! ... Nguyện đem công đức này  _Hướng về khắp tất cả _Đệ tử và chúng sanh_Đều trọn thành phật đạo ! Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ! ...

Free Web Hosting