Thời
Thơ
Ấu Của
Ḥa Thượng Tuyên
Hóa
Ḥa thượng Tuyên
Hóa họ Bạch, tên
thật là An Từ,
tự Độ Luân, sanh
ngày 16 tháng 3
âm lịch (1918).
Ngài quê ở huyện
Song Thành, tỉnh
Tùng Giang thuộc
Đông Bắc Trung
Hoa, tức là Măn
Châu. Phụ thân
Ngài tên Phú Hải,
chuyên lảm nghề
nông. Mẹ Ngài họ
Hồ tên Thị, sinh
được tất cả tám
người con, năm
trai ba gái và
Ngài là út.
Thân mẫu Ngài là
người ăn chay
trường, niệm Phật chẳng
hề gián đoạn.
Một đêm nọ, bà
mộng thấy Đức Phật
A-Di-Đà hiện
thân, phóng hào
quang chiếu sáng
khắp thế giới,
chấn động thiên
địa. Giật ḿnh
tỉnh giấc, bà
ngửi thấy mùi
hương kỳ diệu
khắp pḥng, rồi
sau đó hạ sanh
Ngài. Tương
tryền khi Ngài
vừa chào đời
liền khóc suốt
ba ngày đêm,
chính là v́ đau
xót cho nỗi khổ
của thế giới Ta-Bà.
Năm Ngài mười
một tuổi, một
hôm cùng chúng
bạn dạo chơi,
chợt trông thấy
một em bé miệng
ngậm, mắt nhắm,
nằm bó trong đám
rơm. Ngài gọi mà
đứa bé chẳng
đáp, rờ th́
chẳng có hơi
thở, mới lấy làm
khó hiểu vô cùng
nên hỏi lũ bạn.
Có kẻ hiểu biết
nên liền nói :"Đứa
bé đă chết rồi !". Song
Ngài vẫn vô cùng
ngạc nhiên,
không hiểu thế
nào là chết.
Về nhà, Ngài hỏi
thân mẫu, bà dạy :"Phàm
làm người, ai
cũng phải chết.
Có kẻ chết già,
có kẻ chết v́
bệnh, cũng có kẻ
chết v́ tai nạn.
Bất luận là giàu
sang hay nghèo
hèn, ai ai rốt
cuộc cũng phải
chết cả !". Ngài
lại thưa :"Như
vậy, có cách ǵ
thoát sự chết
chăng ?". Bấy
giờ trong nhà có
vị khách xưa kia
từng tu Đạo
giáo,
đỡ lời đáp rằng :"Chỉ
có cách tu Đạo,
hiểu rơ tự tâm,
thấu suốt bổn
tánh, th́ mới có
thể chấm dứt
sanh tử, thoát
ṿng luân hồi,
thành tựu Chánh-Giác,
chứng được Vô-Sanh".
Nuôi Chí
Xuất
Gia
Tuy lúc đó hăy
c̣n nhỏ tuổi,
song đối với lời
vị khách nói,
Ngài tỉnh ngộ,
quyết chí xuất
gia tu Đạo. Khi
Ngài mang chuyện
xuất gia thưa
với thân mẫu, bà
dạy :"Xuất
gia là điều tốt
lắm, song không
phải là chuyện
dễ làm. Cần có
thiện căn, có
đại nguyện lực,
phát đại Bồ-đề
tâm,
th́ mới có thể
thành tựu Vô-Thượng-Đạo.
Nay con có ḷng
vậy, ta hết sức
đồng ư !
Song, nay ta đă
già, mà các anh
chị con đều đă
tự lập; vậy con
nên ở lại để
phụng dưỡng cha
mẹ; khi ta mất
rồi, con xuất
gia tu hành cũng
chưa muộn !"
Ngài vâng lời
cha mẹ. Sau đó,
hằng ngày thường
theo thân mẫu
lạy Phật. Lạy
Phật xong rồi
lạy cha mẹ.
Rồi v́ nhận thấy
thế giới này c̣n
lớn hơn cả cha
mẹ, nên Ngài
hướng về trời,
đất, vua, sư
trưởng mà lạy.
Ngài lại nghĩ
đến những người
tốt trên thế
giới mà lạy,
thầm tạ ơn họ về
các việc thiện
họ đă làm. Nhận
thấy những người
ác thật đáng
thương, Ngài lại
v́ họ mà lạy,
mong saonghiệp
chướng của
họ được giảm bớt
và sớm biết hối
cải. Mỗi ngày
Ngài lại nghĩ
thêm những người
khác để lạy; nên
về sau, bất kể
thời tiết, mỗi
ngày Ngài đều
đặn lạy 837 lạy
vào buổi sáng và
837 lạy vào buổi
tối.
Ngày lại ngày,
Ngài cung kính
phụng dưỡng song
thân như đối với
đức Phật vậy.
Chẳng bao lâu
tiếng hiếu thảo
đồn khắp bốn
phương, và mọi
người đều gọi
Ngài là "Bạch
Hiếu Tử" (người
con chí hiếu họ
Bạch).
Xuất
Gia
Năm Ngài mười
chín tuổi th́
gặp phải tang
thân mẫu. Sau
khi chu toàn
việc mai táng,
Ngài đến chùa
Tam Duyên lạy
Lăo Ḥa thượng
Thường Trí làm
thầy, và xuống
tóc xuất gia.
Sau đó, Ngài về
lại mộ phần thân
mẫu thủ hiếu
trong ba năm.
Suốt thời gian
ấy, Ngài sống
trong một túp
lều tranh nhỏ,
ngày ngày tọa
Thiền,
đọc tụng kinh
điển Đại
thừa và
niệm danh hiệu
Phật A-Di-Đà.
Rất nhiều lần
Ngài ngồi Thiền
rồi nhập Định,
liên tiếp trong
nhiều tuần lễ
chẳng rời thiền
sàng. Một đêm
nọ, dân trong
thôn gần đó hốt
hoảng thấy túp
lều tranh của
Ngài hừng hực
lửa đỏ. Ánh lửa
hồng phừng thẳng
lên giữa không
trung và túp lều
tranh th́ sáng
rực như ban
ngày. Song khi
tới nơi mọi
người thấy túp
lều tranh vẫn
b́nh lặng và
Ngài th́ an
nhiên, tĩnh mặc
trong Thiền
Định.
Có lần Ngài đang
tọa Thiền th́
chợt có vị khách
đến viếng. Vị
khách ấy, ngạc
nhiên thay,
chính là Lục Tổ Huệ-Năng.
Đức Tổ sư dạy
Ngài rằng trong
tương lai Ngài
sẽ sang
Tây Phương để
độ sinh, rằng ở
Tây phương Ngài
sẽ gặp nhiều kẻ
hữu duyên có thể
hoằng dương Phật
Pháp và sẽ độ vô
lượng vô biên
chúng sanh. Măi
đến lúc Đức Tổ
sư từ biệt quay
đi rồi, Ngài mới
choàng tỉnh, sực
nhớ rằng Huệ
Năng vốn là
người đời nhà
Đường,
khoảng 1.200 năm
về trước.
Gặp Thiện Tri
Thức
Năm 1946, sau
khi Thế
chiến thứ hai kết
thúc, t́nh trạng
giao thông đă
bắt đầu dễ dàng
trở lại. Sư bèn
t́m xuống phía
Nam để đến chùa
Nam Hoa ở Tào
Khê, tỉnh Quảng
Đông,
đảnh lễ Lăo Ḥa
thượng Hư
Vân,
và đến núi Phổ-Đà
để thọ Cụ Túc
Giới. Cuối cùng,
trải hơn 3.000
dặm, Sư đă được
bái kiến Lăo Ḥa
thượng Hư Vân,
bậc Đại Thiện
Tri Thức mà Sư
bấy lâu ngưỡng
mộ.
Vừa nh́n thấy
Sư, Lăo Ḥa
thượng, lúc ấy
đă 109 tuổi,
liền nhận ra
ngay sự chứng
ngộ của Sư. Lăo
Ḥa thượng nói :"Như
thị, như thị !"
và Sư cũng đáp
lại "Như thị,
như thị !". Biết
Sư là bậc "pháp
khí", Lăo Ḥa
thượng ấn
chứng sở
đắc của Sư, và
Sư chính thức
trở thành vị tổ
thứ chín của Quy
Ngưỡng tông. Sau
đó, Lăo Ḥa
thượng dạy Sư ở
lại đảm nhận
chức Viện trưởng
Viện Giới luật
của chùa Nam
Hoa.
Sang Hương Cảng
Năm 1949, Sư từ
giă chùa Nam
Hoa, lên đường
sang Hương
Cảng,
và sống trong
một sơn động
biệt lập. Chẳng
bao lâu, có vô
số tăng lữ từ Trung
Hoa Đại Lục qua
Hương Cảng tị
nạn và cần sự
giúp đỡ của Sư.
Ứng với nhân
duyên, Sư rời
sơn động, sáng
lập Phật Giáo
Giảng Đường,
chùa Tây Lạc
Viên và Từ Hưng
Thiền Tự, cùng
trợ giúp xây
dựng và trùng tu
nhiều đạo tràng
khác. Trong suốt
mười hai năm ở
Hương Cảng, Sư
là tấm gương
sáng khổ hạnh,
tinh tấn tu Đạo,
v́ Pháp quên
ḿnh. Sư đă có
ảnh hưởng đến vô
số thiện nam tín
nữ, khiến họ
phát tâm Bồ-đề,
quy y Tam-Bảo,
ủng hộ Phật
Pháp.
Sang Hoa Kỳ
Ḥa Thượng Tuyên
Hóa vốn nuôi chí
nguyện đem Chánh
Pháp truyền bá
đến khắp nơi
trên toàn thế
giới, nên năm
1961, Sư sang Úc
Châu hoằng
Pháp; và năm
sau, 1962, Sư
đến San
Francisco,
Hoa Kỳ. Tại đây,
nơi một nhà kho
nhỏ, Sư kiên tŕ
tu hành trong im
lặng, chờ đợi cơ
duyên hoằng
dương Đạo Pháp
chín muồi. Lúc
ấy, Sư tự gọi
ḿnh là "Mộ
Trung Tăng" (nhà
sư trong phần
mộ) và "Hoạt Tử
Nhân" (người đă
chết nhưng c̣n
sống).
Hoằng Pháp
Tại
Tây phương
Năm 1968, biết
cơ duyên đă đến,
Sư nói :"Một
đóa hoa sẽ nở ra
năm cánh !". Mùa
hè năm
ấy, Sư chủ tŕ
Pháp hội giảng Kinh
Lăng Nghiêm trong
96 ngày. Khi
Pháp hội kết
thúc, quả nhiên
có năm người Mỹ
xin xuất gia với
Sư. Từ đó, Sư
chủ tŕ nhiều
Pháp hội khác
giảng giải Tâm
Kinh, Kinh
Địa Tạng, Kinh
Pháp Hoa, Kinh
Pháp Bảo Đàn,
v.v...
Năm 1971, Sư
giảng bộ kinh
tối cao của Đại
Thừa, Kinh
Hoa Nghiêm.
Thành Lập
Tăng
Đoàn
Tại Tây
phương
V́ số người phát
tâm cầu xin xuất
gia làm tăng ni
ngày một tăng,
trong năm 1972,
Sư quyết định
chính thức
truyền Tam Đàn ĐạiGiới
lần đầu tiên ở
Mỹ, tại Kim Sơn
Thiền Tự. Sư
cung thỉnh chư
cao tăng đại đức
đăng đàn truyền
giới. Năm nam và
một nữ thọ giới tỳ
kheo và tỳ
kheo ni.
Tiếp đến, tại
Vạn Phật Thánh
Thành, tổ chức
Tam Đàn Đại Giới
vào những năm
1976, 1982,
1989, 1991, 1992
và 1995. Hơn hai
trăm giới tử với
nhiều quốc tịch
đă xuất gia, thọ
giới dưới sự chỉ
dạy của Sư.
Sư quyết tâm đem
chánh pháp Phật
giáo truyền
bá sang Tây
phương. Đồng
thời, tuy khuyến
khích các đệ tử
tu học Phật pháp
theo truyền
thống của chư tổ
sư, nhưng Sư
cũng thường nhắc
nhở họ nên chú ư
dẹp bỏ tập tục
mê tín dị đoan
đang che lấp
Phật Pháp chân
chính, để tránh
cho Phật giáo
Tây phương khỏi
bị ô nhiễm bởi
những lề lối tu
hành băng hoại
hiện đang lan
truyền trong
Phật giáo của
người Trung Hoa.
Sư cũng khuyến
khích họ nên
hiểu những lư lẽ
chánh đáng trong
sự tu hành của
người xưa.
Những cải cách
của Sư gồm có :
Phục hồi giới
luật do đức Phật
chế ra như tăng
sĩ phải đắp y ca
sa để
biểu thị giới
tướng; nhấn mạnh
việc đức Phật
dạy chư tăng ni thọ
trai mỗi
ngày một lần,
không nên ăn sau
giờ ngọ. Tự thân
Sư thực hành và
khuyến khích đệ
tử tuân thủ các
hạnh này. Sư lại
khích lệ các đệ
tử nên hành hạnh
ngồi thiền mà
không nằm vào
ban đêm. Những
ngày đầu tại
chùa Thiên Hậu,
tại khu "phố
Tàu"
của Cựu Kim Sơn
(San-Francisco),
một số đệ tử
xuất gia, v́
muốn hành hạnh
này, ra đường
kiếm những thùng
khuy bỏ rồi đem
về sửa lại để
làm chỗ ngồi vừa
vặn, không duỗi
chân ra trong
lúc ngủ vào ban
đêm. Sư cũng
thường chỉ trích
những người cư
sĩ Trung Hoa,
thường đi quy y
hay làm đệ tử
rất nhiều thầy.
Riêng Sư không
nhận những người
đă từng quy y
với các thầy
khác làm đệ tử
của ḿnh.
Có vài người Mỹ
bị Phật pháp và
Sư thu hút v́
thích những cảm
ứng cùng thần
thông biến hoá.
Họ muốn t́m hiểu
về những cảm ứng
thần kỳ. Một số
có thần thông
cũng tự nhiên
muốn gần gũi Sư.
Nhận thấy rơ tầm
nguy hiểm của sự
mong cầu thần
thông biến hóa,
Sư thường nhấn
mạnh rằng những
thần thông cảm
ứng phát xuất từ
những cảnh giới
của sự tu hành,
nên chớ đắm
trước. Sư nhắc
nhở là đức Phật
luôn ngăn cấm
biểu diễn thần
thông. Sư cũng
nói rơ là thần
thông không biểu
hiện trí huệ và
cũng không nhất
định biểu thị
phẩm hạnh đoan
chánh.
Nói chung, Sư
rất lo lắng về
động cơ xuất gia
của các đệ tử,
nên thường xem
xét coi tâm hạnh
của họ có được
thanh tịnh
không. Sư không
muốn thấy tăng
sĩ ở Mỹ xuất gia
v́ những động cơ
không chính
đáng. V́ thế, Sư
lập ra gia phong
cho chúng đệ tử :
"Lạnh chết,
không phan duyên
Đói chết, không
hóa duyên
Nghèo chết,
không cầu duyên
Tùy duyên không
đổi, không đổi
tùy duyên
Chúng ta quyết
định thực hành
ba tông chỉ này
Xả mạng v́ Phật
sự
Tạo mạng v́ tăng
sự
Chánh mạng v́
bổn sự
Nơi sự hiểu lư,
nơi lư hiểu sự
Luôn hành tổ sư
nhất mạch tâm
truyền"
Ngoài ra, Sư chế
định tiêu chuẩn
tu hành cho ḿnh
và cho chính các
đệ tử xuất gia
lẫn tại gia,
theo sáu tông
chỉ :
Không tranh,
không tham,
không mong cầu,
không ích kỷ,
không tự lợi,
không nói láo.
Một trong những
hành động khoáng
đạt là Sư đă nỗ
lực hàn gắn lại
sự phân chia hơn
hai ngàn năm,
của hai truyền
thống Phật giáo,
Nam tông và Bắc
tông. Sư thường
cung thỉnh danh
tăng Nam tông
đến chùa truyền
giới, cùng
thương thảo và
giải quyết những
quan điểm dị
đồng.
Vạn Phật Thánh
Thành
Song song với
việc giảng Kinh
thuyết Pháp, Sư
c̣n làm vô số
công đức độ sinh
khác. Năm 1976,
Sư thành lập Vạn
Phật Thánh
Thành, nền tảng
căn cứ địa để
hoằng dương Phật
Pháp tại Hoa Kỳ.
Tại Thánh Thành,
Sư xây dựng chế
độ tùng lâm, đào
tạo tăng ni học
chúng, tạo nhân
duyên thù thắng
cho sự chân
chính tu hành.
Sư chủ trương
rằng tất cả Phật
tử cần phải đoàn
kết lại và nên
dung hợp Nam,
Bắc tông. V́
thế, nhiều dịp
truyền thọ Tam
Đàn Đại Giới tổ
chức tại Vạn
Phật Thánh Thành
là do chư cao
tăng Đại
thừa và Tiểu
thừa hợp
lực chủ tŕ.
Học
Viện Phiên
Dịch Kinh
Điển
Quốc
Tế
Vào năm 1973, Sư
chính thức thành
lập Hội Phiên
dịch Kinh điển
(Buddhist Text
Translation
Society) tại
đường Washington
ở Cựu Kim Sơn.
Đến năm 1977,
viện lại được
sát nhập vào
trường Đại học
Phật giáo Pháp
giới, với danh
xưng Học viện
Phiên dịch Kinh
điển Quốc tế.
Vào năm 1990, Sư
lại nới rộng và
dời Viện về
thành phố
Burlingame ở
phía nam của Cựu
Kim Sơn. Khi Hội
Phiên dịch Kinh
sách được thành
lập, Sư lập ra
bốn ban để điều
hành việc phiên
dịch :
Ban Phiên dịch,
Ban Duyệt thảo,
Ban Nhuận sắc và
Ban Chứng minh.
Bốn ban này cung
ứng phương thức
tuyệt hảo cho
việc huấn luyện
những người mới
tham gia trong
tiến tŕnh phiên
dịch. Quan trọng
hơn nữa là khi
người người đều
tập lấy tâm Phật
làm tâm ḿnh
đang khi phiên
dịch và thể nhập
vào những lời
pháp ngữ của Sư,
tâm trí họ được
mở rộng và
trưởng thành
giúp tiến bước
vững chắc trên
đường tiến đến
đạo Bồ-Đề Vô-thượng.
Năm 1980, Sư
thành lập Trung
tâm Cứu Tế Nạn
dân, một tổ chức
cứu trợ xă hội
bất vụ lợi được
chính phủ Hoa-Kỳ
ủy quyền để cứu
tế, cung cấp các
lớp huấn nghệ và
học Anh
ngữ,
đồng thời giúp
tái định cư
người tỵ nạn từ Việt
Nam, Lào, Cambodia.
Trung tâm này
đóng cửa vào năm
1986 theo quyết
định của chính
phủ.
Sáu Đại
Tông
Chỉ
Của Vạn Phật
Thánh Thành
Bất cứ nơi nào
Ḥa Thượng đến
hoằng truyền
Phật Pháp, ngài
luôn khuyên bảo
mọi người theo
sáu đại tông chỉ
của Vạn Phật
Thánh Thành là :
không tranh,
không tham,
không mong cầu,
không ích kỷ,
không tự lợi,
không nói dối.
Ḥa Thượng khai
thị :
- "Sáu Đại Tông
Chỉ của Vạn Phật
Thánh Thành là
mục tiêu tu hành :
Không tranh,
không tham,
không mong cầu,
không ích kỷ,
không tự lợi,
không nói dối.
Những điều này
là căn bản làm
người, là nền
tảng tu hành, và
là tiêu chuẩn
của chánh quyền.
Sáu Đại Tông Chỉ
này là sáu con
đường sáng. Nếu
nhớ được sáu đại
tông chỉ này,
quư vị có thể
thành Phật. Tôi
đưa ra sáu đại
tông chỉ này cho
những người muốn
thành Phật,
thành Bồ Tát,
muốn thành Thanh
Văn, A La Hán.
Đây là những
tông chỉ quan
trọng nhất. Nếu
thực hành được,
quư vị có thể
dùng suốt đời,
mà vẫn không tận
dụng hết được !"
- "Các sinh hoạt
hằng ngày của
người tu hành ở
Vạn Phật Thánh
Thành, đều không
rời khỏi sáu
điều mục như sau :
1. Không tranh. Tuyệt
đối không tranh
với bất cứ ai.
Cũng không tranh
danh, tranh lợi.
Phàm đồ vật ǵ
mà người khác
thích th́ ḿnh
nhường cho họ,
chứ không cần
phải tranh
giành, gọi là :“Tranh
chi bất túc,
nhượng chi hữu
dư” nghĩa là
tranh th́ không
đủ, nhường th́
có dư.
2. Không
tham. Không
phải là miệng
nói không tham,
nhưng khi cảnh
đến th́ chỉ lo
tham, chẳng thể
bỏ qua, thế là
sai rồi. Chúng
ta cần phải là :
Lời nói theo
đúng việc làm,
và làm đúng theo
lời nói, đừng để
chúng mâu thuẫn
với nhau. Người
không có ḷng
tham mới bồi
dưỡng được nhân
cách cao thượng.
3. Không cầu. Nếu
chúng ta có cầu
muốn điều ǵ,
tức là chúng ta
sẽ có phiền năo.
Cầu mà không
được, đương
nhiên là chúng
ta sẽ phiền năo.
Cho nên nói :“Vô
cầu tiện vô ưu”
không cầu sẽ
không lo - thật
là một danh ngôn
chí lư. Một khi
chúng ta đạt đến
tŕnh độ vô cầu,
phẩm cách của
chúng ta tự
nhiên sẽ cao
quư. “Nhân đáo
vô cầu phẩm tự
cao”, tức là
vậy. Trong Bát
khổ có “cầu bất
đắc khổ,” như
cầu không được
cũng khổ, mà cầu
được cũng khổ luôn.
V́ lo được lo
mất mà tự t́m
cái khổ cho
ḿnh. Vậy bởi
tội ǵ ḿnh phải
khổ như thế. Nếu
như quư vị thấy
rơ ra mà buông
hết tất cả th́
quư vị sẽ không
c̣n phiền năo
nữa.
4. Không tự
tư, ích kỷ. Ai
ai cũng có ḷng
ích kỷ. Chuyện
ǵ chúng ta cũng
tính toán cho
ḿnh trước, lo
nghĩ cho con
cháu của ḿnh
trước hết. Cho
nên người tu
hành là phải tu
đến cảnh giới vô
ngă. Vô ngă rồi
th́ chúng ta c̣n
muốn tranh cái
ǵ, tham cái ǵ,
cầu cái ǵ nữa
đây ?
Chúng ta phủ
nhận hết, và cái
ǵ cũng không
muốn. Chúng ta
phải học theo
tinh thần của Bồ-Tát
là xả ḿnh v́
người. Tại sao
thế giới nầy lại
ngột ngạt đầy
chướng khí, và
không lúc nào
trong sạch, xán
lạn vậy ?
Bởi v́ ai nấy
đều tự tư, tự
lợi, như nói :“Cái
nầy là của tôi,
cái kia thuộc về
tôi” nên khiến
cho thiên hạ đại
loạn, thế giới
chẳng được an
ổn.
5. Không tự
lợi. Nếu
mọi người đều
không có tánh tự
lợi, lúc nào
cũng biết đủ,
gặp hoàn cảnh
nào cũng cảm
thấy an ổn, vậy
tự nhiên ai nấy
cũng sẽ chung
sống ḥa b́nh
với nhau. Nếu
như người có tâm
tham th́ giống
như cá theo mồi,
thấy lợi là quên
mất hết t́nh
nghĩa, rồi làm
những chuyện tổn
hại đạo lư. Có
bao nhiêu người
đă v́ lợi mà
thân bại danh
liệt, tán gia
bại sản. Thậm
chí có kẻ c̣n
làm cho nước mất
nhà tan, đến nỗi
phải lưu lạc,
không nơi nương
náu.
6. Không vọng
ngữ. Bất
luận trong hoàn
cảnh nào, chúng
ta tuyệt đối
cũng không nên
vọng ngữ. Hễ
thấy th́ nói
thấy, nghe th́
nói nghe, chúng
ta cứ thật thà
mà nói, chớ nói
những chuyện
không có căn cứ.
Chúng ta nên
biết, vọng ngữ
là nói những lời
bịa đặt, làm tổn
hại người mà
chẳng có lợi ích
ǵ cho ḿnh, và
sau khi chết
nhất định bị đọa
vào địa ngục cắt
lưỡi. Điều đó
không có chút
nghi ngờ ǵ cả.
Cho nên chúng ta
phải hết sức cẩn
thận.
Hôm nay tôi nói
với quư vị những
lời tuy rất cạn
cợt, nhưng nếu
quư vị chịu y
chiếu theo đạo
lư đó mà làm,
th́ sẽ hữu dụng
vô cùng. Cho nên
có câu :“Nói
cho hay !
Thuyết cho diệu !
Nhưng nếu không
thực hành th́
không phải là
Đạo. Đạo là
hành, không hành
sao có Đạo? Đức
là làm, không
làm sao có Đức ?”. Nếu
quư vị có thể
thực hành theo
Lục Đại Tông Chỉ
của Vạn Phật
Thành, tự nhiên
nhân cách của
quư vị sẽ cao
thượng hơn.
Tôi nói thêm một
câu sau chót là :
Quư vị đừng nên
làm những chuyện
ngu si như :“Yểm
nhĩ đạo linh”
tức bịt tai để
trộm chuông. V́
quư vị không thể
tự dối ḿnh, mà
cũng không thể
gạt được Phật !
Hà tất bụng dạ
phải chứa đầy
chuyện quỷ
quyệt, rồi tưởng
là ḿnh có thể
che đậy được hết
để dối trên lừa
dưới. Há như thế
chẳng phải là tự
chuốc lấy cái vô
lư cho ḿnh hay
sao ?"
Đề
Xướng
Giáo
Dục
Để bổ khuyết vào
nền giáo dục
đang băng hoại
tại Tây phương,
Sư sáng lập
trường Đại học
Pháp giới,
trường trung học
Bồi Đức,trường tiểu
học Dục Lương,
và phát triển
chương tŕnh trợ
cấp sinh viên
học sinh nghèo
khó.
Đối với Sư, giáo
dục thanh thiếu
niên là nền tảng
vững chắc, hay
nhất của quốc
pḥng. Tại bậc
tiểu học, Sư đề
xướng đạo hiếu
thuận. Bậc trung
học, đề xướng
trung thành ái
quốc. Bậc đại
học, sinh viên
không những học
các ngành chuyên
môn mà c̣n phải
có trách nhiệm
chuyển hóa, phát
triển, làm lợi
ích cho thế
nhân.
Sư quân b́nh nền
giáo dục truyền
thống và nền
giáo dục hiện
đại. Sư luôn đề
xướng phương
thức phát triển
trí huệ sẵn có
của mọi người,
tức là dùng cách
thức mới mẻ
trong việc giáo
dục. Cụ thể, Sư
tự viết vài bài
ca bằng tiếng
Anh,
rồi khuyến khích
các đệ tử dùng
những phương
pháp đó để giảng
dạy Phật pháp.
Năm 1982, Sư
thành lập chương
tŕnh huấn luyện
tăng ni và cư sĩ
với mục đích chủ
yếu vào việc tu
tŕ học tập Phật
pháp trong khuôn
viên tu viện,
dựa trên nền
tảng của giới
định huệ. Chương
tŕnh huấn luyện
tăng ni, chú
trọng vào sự
hành tŕ tông
giáo, luật lệ
sinh hoạt và
quản lư tự viện.
Xuyên qua các
chương tŕnh
này, Sư đă huấn
luyện được những
nhân tài phục vụ
cho Tổng hội và
cho Phật giáo.
Do sự đề nghị
của cựu quản trị
viên thành phố
Cựu Kim Sơn,
Carol Ruth
Silver, Sư thành
lập trường tiểu
học Dục Lương
vào năm 1976. Để
hỗ trợ việc bồi
dưỡng mầm non
thiện đức của
trẻ em, trường
tiểu học nhấn
mạnh vào nền
giáo dục có phẩm
chất. Đề xướng
chương tŕnh
song ngữ, tiếng
Anh và tiếng
Hoa,
và dạy về căn
bản văn hóa của
Đông phương cùng
Tây phương. Cô
Terri Nicholson
và các thầy cô
giáo khác giảng
dạy những lớp
học đầu tiên bên
dưới hầm nhà của
Viện Phiên dịch
Quốc tế. Trường
học được dời về
Vạn Phật Thánh
Thành vào năm
1978. Trường
trung học Bồi
Đức được khai
giảng vào năm
1980. Học sinh
nam và học sinh
nữ được học hành
riêng biệt vào
năm 1981.
Không Phân
Biệt
Tôn
Giáo
Sư thường nhấn
mạnh rằng giáo
lư Phật giáo là
dùng để giáo hóa
chúng sanh. Sư
cũng phê b́nh sự
phân chia trong
Phật giáo, v́ đó
là điềm báo hiệu
thời mạt pháp.
Thêm nữa, Sư
nhắc nhở mọi
người đừng nên
quá chấp trước
vào sự phân biệt
giữa tôn
giáo,
mạch phái. Sư
chủ trương các
tôn giáo phải hỗ
tương, học hỏi
những điều hay
lẽ phải và bổ
khuyết lẫn nhau.
Để thực hành
thiết thực, Sư
mời Hồng
y Thiên
Chúa giáo Vu
B́nh tại Đài
Loan đến
Vạn Phật Thánh
Thành, thành lập
và làm chủ nhiệm
trung tâm nghiên
cứu tôn giáo thế
giới. Sư đề nghị
rằng Hồng y Vu
B́nh sẽ là người
Phật tử giữa
những người
Thiên Chúa giáo,
c̣n Sư sẽ là
người Thiên Chúa
giáo giữa những
Phật tử. Chẳng
may, Hồng y Vu
B́nh qua đời đột
ngột, làm đ́nh
chỉ việc thành
lập trung tâm
đó. Sau này, vào
năm 1994, Viện
Nghiên cứu Tôn
giáo Thế giới
được thành lập
tại Berkeley.
Năm 1987, Sư chỉ
đạo trường Đại
học Pháp giới tổ
chức hội thảo
tôn giáo quốc tế
tại Vạn Phật
Thánh Thành.
Trong năm 1987,
Sư cũng diễn
giảng tại khóa
hội thảo Phật
giáo-Cơ Đốc giáo
Quốc tế lần thứ
ba tại Berkeley.
Có lần, Sư được
thỉnh mời đọc
bài điếu văn tại
giáo đường Từ Ân
(Grace
Cathedral) ở Cựu
Kim Sơn.
Năm 1989, Sư
được hội Quaker thỉnh
mời đến Pendle
Hill, Pennsylvania để
thuyết pháp định
kỳ tại trung tâm
tu học đó. Năm
1992, Sư là quư
khách chủ tŕ
pháp hội hằng
năm của nhóm
Vedata Society.
Đáng kể thêm là
t́nh đạo chân
thành giữa Sư và
Cha John Rogers,
giáo sĩ trường
Đại học Humbolt,
rất mật thiết.
V́ Pháp Quên
Ḿnh
Với tinh thần
"V́ Pháp quên
ḿnh" Ḥa Thượng
không quản khó
nhọc, thường
xuyên đến các
đạo tràng trong
và ngoài nước để
hoằng dương Phật
Pháp. Sư được
mọi giới kính
ngưỡng v́ nếp
sống khổ hạnh và
nghiêm tŕ giới
luật của Sư.
Trong thời Mạt
Pháp mà nhiều
người không tôn
trọng giới luật
này, Sư đă nêu
gương sáng và
khuyến khích nếp
sống khổ hạnh
bằng cách chỉ ăn
mỗi ngày một bữa
vào giờ ngọ và
ban đêm th́ ngủ
ngồi chứ không
nằm.
B́nh sanh, Sư
sống nhẫn nhục,
khoan dung, nhịn
ăn nhiều lần để
hồi hướng công
đức cho chúng
sanh. Cuộc khủng
hoảng hỏa tiễn ở Cuba vào
năm 1962 đă xảy
ra không bao lâu
sau khi Sư đến
Hoa Kỳ. Sư đă
tuyệt thực năm
tuần để hồi
hướng cho nền
ḥa b́nh thế
giới. Vào dịp du
hành Đài Loan
năm 1989, Sư đă
nhịn ăn ba tuần
lễ để hồi hướng
cho dân chúng
Đài Loan. Sau
đó, Sư lại đi
hoằng Pháp tại
nhiều nước châu
Âu.
Mặc dầu tuổi đă
cao nhưng Sư vẫn
không muốn nghỉ
ngơi tịnh dưỡng.
Suốt ba mươi năm
liên tục, Sư đă
đăng đàn thuyết
Pháp và giảng
luận kinh điển
Phật giáo. Chính
trong lúc đang
bệnh, Sư vẫn
kiên tŕ tiếp
tục đại nguyện
diễn dịch kinh
điển Phật giáo.
Niết Bàn
Ngày 7 tháng 6
năm 1995, Ḥa
Thượng Tuyên Hóa
thị hiện viên
tịch tại Los Angeles,
Hoa Kỳ; trao lại
cho các đệ tử ba
trách nhiệm quan
yếu :
(1) tiếp tục
hoằng dương Phật
Pháp, (2) phiên
dịch kinh điển
Phật giáo và (3)
hoàn măn sự
nghiệp giáo dục.
Vâng theo di
huấn của Sư, tứ
chúng đệ tử tại
các đạo tràng
thuộc
Tổng hội Phật
giáo Pháp giới
đều chuyên tâm
tŕ tụng Kinh
Hoa Nghiêm và
niệm Phật suốt
49 ngày kể từ
hôm Sư viên
tịch. Ngày 12
tháng 6 năm 1995,
lễ nhập quan
được cử hành tại
Long Beach Thánh
Tự; và đến ngày
16 tháng 6, kim
quan của Sư được
cung thỉnh về
Vạn Phật Thành.
Tại đây lễ truy
ân được tổ chức
từ ngày 26 đến
ngày 28 tháng 7,
tro cốt của Sư
được rải trên
địa phận của Vạn
Phật Thánh Thành
đúng như lời di
giáo của Sư :
"Khi tôi đến,
tôi không có ǵ
cả; khi tôi đi,
tôi vẫn không có
ǵ cả. Tôi không
muốn để lại dấu
vết ǵ trên thế
gian. Tôi từ hư
không đến. Tôi
sẽ trở về hư
không !"
Dù cho Sư không
muốn để lại một
dấu vết nào trên
thế gian này,
nhưng công đức
hoằng Pháp tại
Tây phương,
phiên dịch kinh
điển, thiết lập
đạo tràng và học
đường của Sư đă
gieo hạt giống
Bồ-Đề
và đă gây được
ảnh hưởng sâu
rộng đến các
từng lớp dân
chúng Tây
phương.
Ngày 23 tháng 6
năm 1996, đúng
một năm sau ngày
Ḥa Thượng Tuyên
Hóa nhập Niết Bàn,
Tổng hội Phật
giáo Pháp giới
long trọng tổ
chức lễ cung
thỉnh Xá Lợi
về các đạo
tràng. Một trong
những lời di
huấn của Sư là :
"Hăy quét sạch
tất cả các Pháp,
ly khai tất cả
các tướng !"
Di Sản
Suốt cuộc đời,
Sư luôn khiêm
cung, vô ngă và
tận tụy răi ḷng
đại bi đến tất
cả chúng sanh.
Sư hành đạo
không nghỉ ngơi,
chỉ muốn dẹp trừ
màng vô-minh,
si-mê đang
che lấp bản tánh
chân thật của
chúng sanh. Sư
luôn hành đạo v́
ḥa b́nh nhân
loại, tôn giáo,
quốc gia, thế
giới. Mặc dầu
chú trọng vào
việc phát triển
Tổng hội Phật
giáo Pháp giới,
sự cống hiến và
công đức truyền
bá Phật giáo qua
Tây phương của
Sư được tóm tắt
như sau :
Phật giáo đă có
mặt ở Trung Hoa
trước khi Bồ-Đề-Đạt-Ma, Tổ
sư Thiền
tông,
từ Ấn
Độ sang.
Tuy nhiên, hầu
hết mọi người
đều mê mờ về
giáo nghĩa chân
chánh của Phật
pháp, không thể
phân biệt ǵ là
chân thật hay
giả dối, ǵ là
hời hợt hay thâm
sâu. Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma
thắp lên ngọn
đuốc trí huệ,
làm sáng tỏ chân
nghĩa của Phật
pháp, bằng cách
dạy họ tự ḿnh
rơ tâm thấy tánh
(minh tâm kiến
tánh), chứng
được quả vị Bồ-đề.
Ḥa thượng Tuyên
Hóa qua Tây
phương sau khi
Phật giáo được
truyền sang đây
khoảng một trăm
năm. Lúc đó, có
rất nhiều người
thích nghiên cứu
học hỏi Phật
pháp, nhưng cũng
rất mù mờ với
những hiểu biết
sai lầm. V́ vậy,
nhận thấy rằng
chỉ khi nào tăng
đoàn Phật giáo
được thanh tịnh
và vững mạnh th́
Phật giáo tại
quốc gia đó mới
được hưng thịnh,
nên Sư trùng
hưng cải cách
chế độ của tăng
đoàn, chú trọng
việc giữ ǵn
giới luật tinh
nghiêm của hai
chúng đệ tử xuất
gia và tại gia.
Nhận biết bản
tánh người Mỹ
rất thích thực
tế, và nhờ tiếp
thừa tinh thần
của Tổ
Bồ-Đề-Đạt-Ma,
Sư đề xướng thực
hành thiền định
tinh tấn, để họ
có thể trực tiếp
tự chứng ngộ
giáo nghĩa chân
chánh của Phật
giáo. V́ có một
số người nhận
thức sai lầm về
Phật giáo, Sư
giảng giải kinh
điển Phật giáo
bằng phương pháp
đơn giản dễ
hiểu, và chỉ rơ
sự liên hệ mật
thiết giữa chân
nghĩa kinh điển
cùng việc tu tập
thực hành trong
đời sống hằng
ngày. Sau đó,
lại phiên dịch
những lời chú
giải ra Anh ngữ
để giúp các độc
giả Tây phương
tiện việc nghiên
cứu học hỏi.
Cuối cùng, Sư
quyết định chọn
lựa Tây phương
là nơi thực hành
giáo hóa, tức
dùng sự hành tŕ
chân thật của
ḿnh mà hóa độ
họ trong đời
sống hằng ngày,
hầu chỉ rơ chân
nghĩa Phật giáo.
Nhờ phương thức
này, vô số người
Tây phương vô
cùng cảm động
tri ân và thực
hành theo những
điều Sư đă giảng
dạy.
Mời Xem =>
Lược Giảng Kinh
Diệu Pháp Liên
Hoa - Phẩm Quán
Thế Âm Bồ Tát
Phổ Môn