P H Ậ T   H Ọ C   P H Ổ   T H Ô N G   -   H ̉ A   T H Ư Ợ N G   T H Í C H   T H I Ệ N   H O A

Lời Nói Đầu

 Đạo Phật truyền vào Việt Nam ta đă trên 15 thế kỷ cho nên phần đông dân chúng nước ta là tín đồ Đạo Phật. Dân chúng thường nói "Đạo Phật là đạo của ông bà", hay "Nhà nào có đốt hương, đều là tín đồ đạo Phật cả...". Kể về số lượng th́ tín đồ Phật Giáo ở Việt Nam thật là đông đảo; nhưng xét về phần phẩm, th́ chúng ta chưa có thể lạc quan được. T́nh trạng phẩm ít, lượng nhiều ấy phát sinh v́ nhiều nguyên-nhân phức tạp: 

- Có người theo đạo Phật v́ truyền-thống của ông cha (ông cha theo Đạo Phật, nên con cháu cũng theo). 

- Có người theo đạo Phật v́ cảm-t́nh đối với thân bằng quyến thuộc, hay đối với cái Đạo đă chia sẽ những phút vui buồn, thịnh suy của đất nước. 

- Có người theo đạo Phật, v́ mong cầu được tai qua nạn khỏi, hay cầu của, cầu con v.v... 

Ngày nay, vẫn biết có một số đông tín đồ đă hiểu đúng giá trị cao siêu và lợi ích rộng lớn của Đạo Phật, nhưng cái số ấy không phải là đa số, nếu đem so với cái khối tín đồ hiểu Đạo một cách nông cạn, hay sai lạc nói trên. 

V́ không hiểu một cách thấu đáo Đạo Phật, nên ḷng tin không được chắc chắn. Mỗi khi gặp một lư thuyết nào lạ, một tôn giáo nào mới, th́ họ ùa ḥa tin theo, như cây thiếu rễ cái, gió thổi phía nào th́ ngă rạp theo phía ấy, thật đáng buồn thương. 

T́nh trạng buồn thương ấy có thể bổ cứu được, nếu chúng ta có một chương tŕnh dạy Phật Pháp bằng chữ Việt. Dân tộc ta là người Việt, ở đất Việt, ăn cơm Việt, nói tiếng Việt, mà kinh sách bằng chữ ngoại quốc; *cả chi triết lư cao sâu của Đạo Phật cẫn c̣n nằm nguyên trong 3 tạng chữ Tàu, thử hỏi có mấy ai đọc được? Như thế th́ bảo tín đồ làm sao hiểu biết giáo lư cao sâu của Đạo Phật và ḷng tin làm sao vững chắc được? 

Nóng ḷng v́ t́nh *cảm ấy, chúng tôi bạo dạn và cố gắng soạn ra chương tŕnh "Phật Học Phổ Thông" này, mong giúp tín đồ mau hiểu giáo lư, thấy được chỗ quư báu của Đạo, để cho ḷng tin được chơn chánh và vững bền. 

Chúng tôi tự biết ḿnh đức bạc tài sơ, chưa đủ khả năng làm việc vĩ đại này. Nhưng nếu do dự và nhún nhường măi, rồi suốt đời cũng chẳng làm được ǵ. Chi bằng cứ cố gắng hy sinh đắp trước con đường đất, để cho các bậc có tài đức sau này sửa chữa lại, rồi cán đá và tráng nhựa. 

Chương tŕnh "Phật Học Phổ Thông"có mục đích xây dựng cho tín đồ có căn bản giáo lư, hiểu biết Phật pháp từ thấp đến cao, lấy Ngũ Thừa Phật Giáo làm nền tảng. 

Từ khóa thứ nhất đến khóa thứ tư, chúng tôi đă soạn hết Ngũ Thừa Phật Giáo. Khi tín đồ đă hiểu giáo lư căn bản nói trên rồi các khóa sau, chúng tôi sẽ mở thêm bề rộng và xây thêm bề cao của ṭa nhà Phật Giáo. Từ khóa thứ V đến khóa thứ XII, tín đồ sẽ tuần tự học về Đại cương kinh Lăng nghiêm, Viên giác, Duy thức Luận và Kim Cang, Tâm Kinh*. 

Chương tŕnh này, chúng tôi đă soạn từ năm 1953 đến nay và đă xuất bản thành tập, từ tập Phật Học Phổ Thông thứ nhất cho đến tập Phật Học Phổ Thông thứ 12. 

Công việc trên đây là cả một gánh nặng, mà đường lại dài, chúng tôi khẩn thiết yêu cầu những vị nhiệt tâm v́ đạo, từ quư vị đại đức Tăng Già cho đến các hàng Cư Sĩ, kẻ công người của tiếp sức với chúng tôi (hoặc giúp sáng kiến, tài liệu hay tài chánh), cùng nhau xây dựng cho hoàn bộ một chương tŕnh Hoằng Pháp ở nước nhà, hầu bổ cứu những khuyết điểm và dẹp bỏ những t́nh tệ trong Đạo Phật từ trước đến nay. Chúng tôi chấm dứt trong sự tin tưởng ở ḷng nhiệt thành v́ Đạo của quư vị độc giả xa gần. 

Thích Thiện Hoa

*******************************************************

   Bài Thứ 1  

Đạo Phật

A. Mở Đề

Phật ra đời v́ một nhân duyên lớn: Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. 

Người đời thường nói một cách hời hợt cho qua chuyện, "Đạo nào cũng tốt!". Lời nói ấy, hoặc v́ xă giao để cho vui ḷng khách, hoặc v́ chưa rơ bề mặt trong của các Đạo khác nhau thế nào, nên mới ra như thế. Thật ra về mục đích th́ đạo nào cũng có giá trị của nó, chẳng qua chỉ hơn nhau về từng bậc cao thấp mà thôi. Nhưng mục đích tốt dù sao, cũng chưa đủ. Điều quan trọng là làm sao thực hiện được mục đích ấy và đem lợi ích rộng lớn cho đời. Thử hỏi nếu đạo nào cũng có giá trị như nhau, th́ sao trước đây 2500 năm, trong lúc xứ Ấn độ đă có 94 thứ đạo rồi, mà đức Phật Thích Ca c̣n giáng sinh làm chi nữa? 

Chẳng qua các Đạo tuy nhiều, mà chưa được toàn "chân, thiện, mỹ", nên đức Phật mới ứng thân thị hiện, dạy cho chúng sanh đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ngơ hầu giải thoát khỏi khổ sanh tử luân hồi, được tự tại vô ngại như Phật. Kinh Pháp Hoa chép, "V́ một nhân duyên lớn, Phật mới xuất hiện ra đời". 

Nhân duyên lớn ấy là ǵ? Chính là: "Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến", để cho chúng sanh được nhờ đó mà đổi mê ra ngộ thấy tánh tỏ tâm, vượt sống khỏi chết, ĺa khổ được vui. 

Định Nghĩa 
1. Chữ Đạo nghĩa là ǵ? Chữ đạo có ba nghĩa: Đạo là con đường; Đạo là bổn phận; Đạo là lư tánh tuyệt đối, là bản thể. 

a) Đạo là con đường, như người ta thường dùng trong những chữ: nhân đạo, thiên đạo, địa ngục đạo, ngạ quỷ đạo, súc sanh đạo. Phàm là con đường th́ có tốt, xấu, có thiện, ác v.v...Theo đạo Phật, c̣n trong ṿng đối đăi, th́ không thể gọi hoàn toàn rốt ráo. 

b) Đạo là bổn phận, như người ta thường dùng những chữ: đạo vua tôi, đạo thầy tṛ, đạo vợ chồng v.v...Phàm là bổn phận th́ thường chịu ảnh hưởng của phong tục hay tập quán. Phong tục và tập quán của nước này không giống nước kia. V́ vậy, chữ Đạo là bổn phận cũng chưa đúng với nghĩa chữ Đạo mà nhà Phật muốn nói. 

c) Đạo là* lư tánh tuyệt đối, là bản thể, nó ĺa nói năng, không thể nghĩ bàn. Đức Lăo tử nói: "Đạo mà nói ra được, không phải là đạo". Xưa có người hỏi một vị Tổ Sư: "Đạo là ǵ?". Tổ sư đáp: "Trước Phật Oai Âm Vương, không có tên Phật và chúng sanh, lúc ấy chính là Đạo". 

Chữ Đạo của nhà Phật chính là đồng nghĩa với bản thể vậy. 

2. Chữ Phật nghĩa là ǵ? Chữ Phật, nói cho đúng tiếng Phạn là Bouddha (Phật Đà). Người Trung Hoa dịch nghĩa là Giác Giả, (bậc đă giác ngộ, sáng suốt hoàn toàn). Giác có ba bậc: 

a) Tự giác: Nghĩa là tự giác ngộ hoàn toàn do phước huệ và công phu tu hành, khác với phàm phu là những người c̣n mê muội, bị luân hồi trong cơi trần lao, khổ ải. 

B) Giác tha: Nghĩa là ḿnh đă giác ngộ, lại đem phương pháp giác ngộ ấy dạy cho những người tu hành được giác ngộ như ḿnh. Người tu theo Tiểu Thừa không thể có được giác tha, v́ chỉ lo giải thoát cho ḿnh. Chỉ người tu theo Đại Thừa mới có được giác tha, nghĩa là giác ngộ cho hết thảy chúng sanh đang ch́m đắm. 

C) Giác hạnh viên măn: Nghĩa là giác ngộ hoàn toàn đầy đủ cho ḿnh và cho người. Những bậc Bồ Tát, tuy đă giác ngộ cho ḿnh và cho người, nhưng công hạnh chưa viên măn, nên chưa gọi được là "Giác Giác Hạnh Viên Măn". Chỉ có Phật mới được gọi là Giác Hạnh Viên Măn. 

Chữ Phật là một danh từ chung để gọi những bậc đă tự giác, giác tha và giác hạnh viên măn, chứ không phải là một danh từ riêng để gọi một người nào nhất định. Ai tu hành được chứng quả như đă nói trên đều được gọi là Phật cả. 

3. Đạo Phật nghĩa là ǵ? Theo những định nghĩa về chữ Đạo và chữ Phật đă nói trên, chúng ta có thể giải thích chữ Đạo Phật như sau: Đạo Phật là con đường chơn chánh, hoàn toàn sáng suốt đưa đến bản thể của sự vật, là lư tánh tuyệt đối, ĺa tất cả hư vọng phân biệt, mà các đấng giác ngộ hoàn toàn đă phát minh ra. Đạo Phật gồm tất cả tự lợi và lợi tha, tự giác, giác tha và có công hạnh độ ḿnh, độ người được hoàn toàn thành tựu, rốt ráo viên măn. 

B. Chánh Đề 

Đạo Phật có từ lúc nào? có hai nghĩa: Đứng về phương diện bản thể mà xét th́ Đạo Phật có từ vô thuỷ (nghĩa là không có đầu mối, không có giới hạn ở trong thời gian). V́ Đạo Phật là bản tánh sáng suốt của chúng sanh, nên có chúng sanh là có Đạo Phật; mà chúng sanh đă có từ vô thuỷ th́ Đạo Phật cũng có từ vô thuỷ. Đứng về phương diện lịch sử và hạn cuộc trong thế giới này mà nói, th́ Đạo Phật đă có từ 2501 (1) năm nay (tính đến năm 1957), trước Thiên Chúa Giáo 544 năm. 

I. Ai khai sáng ra Đạo Phật? 

Tín đồ Đạo Phật cần phải biết lịch sử đức Giáo Chủ của ḿnh. 

Dưới đây, xin kể sơ lược những điểm chính của đời đức Giáo Chủ, người đă khai sáng ra Đạo Phật, tức là đức Phật Thích Ca Mâu Ni 

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nguyên là Thái Tử nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) xứ Trung Ấn Độ, Phụ hoàng tên Tịnh Phạn Vương Đầu Đà Nà (Sudhodana); Mẫu hoàng tên là Ma Da (Maya). Họ Ngài là Kiều Đáp Ma, xưa dịch là Cù Đàm, tên Ngài làTất Đạt Đa (Shidartha). C̣n chữ Thích Ca (Sakya), Tàu dịch là Năng Nhân: Năng là năng lực, Nhân là từ bi. Mâu Ni (Muni) nghĩa là Tịch Mặc: Tịch là yên lặng, không bị khổ vui làm động tâm; Mặc là lặng lẽ, không bị phiền năo khuấy rối, độ ḿnh độ người, công đức đầy đủ. 

Lúc nhỏ Ngài có trí tuệ sáng suốt và tài năng phi thường. Lớn lên nh́n thấy nhân sinh thống khổ, thế cuộc vô thường, nên Ngài cương quyết xuất gia tu hành, t́m đường giải thoát cho ḿnh và cho người, ngơ hầu đưa tất cả chúng sanh lên bờ giác ngộ. 

Sau sáu năm tu khổ hạnh trong núi Tuyết (Hymalaya), Ngài thấy tu khổ hạnh ép xác như thế, không thể đạt được chân lư, nên Ngài đi qua núi Koda, ngồi dưới gốc cây Bồ Đề (Tất Bát La, dịch âm theo tiếng Ấn Độ) và thề rằng: "Nếu ta không thành đạo, th́ dù thịt nát xương tan, ta cũng quyết không đứng dậy khỏi chỗ này". Với chí hùng dũng cương quyết ấy, sau 49 ngày tư duy, Ngài thấy rơ chân tướng của vũ trụ nhân sanh và chứng đạo Bồ Đề. Sau khi thành đạo, Ngài chu du khắp xứ, thuyết pháp độ sinh, để chúng sanh chuyển mê thành ngộ, ĺa khổ được vui. Suốt thời gian 49 năm, như một vị lương y đại tài, xem bệnh cho thuốc, Ngài đă dắt dẫn chúng sanh lên đường hạnh phúc và vạch cho mọi người con đường giác ngộ giải thoát. 

Đến 80 tuổi, Ngài nhập Niết Bàn ở thành Câu Thi Na, trong rừng Ta La (Song Thọ). Lúc bấy giờ, nhằm ngày Rằm tháng 2 âm lịch. 

II. Giáo lư Đạo Phật như thế nào? 

Giáo lư của đạo Phật gồm trong 3 tạng kinh điển là Kinh, Luật, Luận. 

1. Kinh: Kinh là những lời của đức Phật Thích Ca đă nói khi c̣n tại thế, để dạy chúng sanh dứt trừ phiền năo và đạt đến quả Niết Bàn. 

2. Luật: Luật là những giới luật mà Phật đă chế ra cho các đệ tử, để các đệ tử răn chừa các điều dữ, tu tập các điều lành, trau dồi thân tâm cho thanh tịnh. 

3. Luận: Luận là những sách phần nhiều do các đệ tử Phật làm ra để bàn giải rơ ràng nghĩa lư mầu nhiệm trong kinh, luật hoặc quyết đoán tánh, tướng của các Pháp, phân biệt những lẽ phải *chẳng của chánh đạo và tà đạo, khiến cho người đời khỏi nhận lầm phải trái, chánh tà. 

Tam tạng kinh điển lại chia làm hai loại là Đại Thừa và Tiểu Thừa. 

Chữ Thừa nghĩa là chở, có chỗ cũng gọi là Thặng, nghĩa là cỗ xe. Thừa hay Thặng đều có hàm ư nghĩa là: Giáo lư của Phật có công năng như một chiếc xe, đưa chúng sanh từ nơi cơi trần lao phiền năo đến cảnh giới an vui thanh tịnh, từ biển khổ luân hồi đến Niết Bàn, giải thoát. 

Đại thừa như là cỗ xe lớn, có thể chở nhiều người trong một lúc; trái lại Tiểu Thừa như là một cỗ xe nhỏ, chỉ chở mỗi lúc một vài người mà thôi. 

Sở dĩ giáo lư Đạo Phật chia ra làm Đại Thừa và Tiểu Thừa như thế, v́ căn cơ và nguyện vọng chúng sanh không đồng nhau. Những hạng người nào nhận thấy ḿnh chỉ đủ sức để giải thoát cho riêng phần ḿnh mà thôi, như chiếc xe nhỏ chở được một vài người, th́ theo giáo lư Tiểu Thừa. 

Những hạng người nào tự nhận thấy ḿnh có thể vừa giải thoát cho ḿnh và cho người ra khỏi sanh tử luân hồi, tự nguyện độ ḿnh và người cùng đi đến Niết Bàn, như một cỗ xe lớn, cùng chở trong một lúc được nhiều người, th́ theo Đại Thừa. Hạng người này rơ biết phiền năo, sanh tử như huyển hóa, nên không chịu sớm an vui ở quả vị cuối cùng của ḿnh, mà thường độ sanh không bao giờ biết mỏi mệt; và v́ nhận thấy chúng sanh c̣n đau khổ, th́ ḿnh chưa có thể an vui được. 

III. Sự Truyền Bá Của Đạo Phât: 

Sau khi Phật Thích Ca nhập diệt, hai vị đại đệ tử của Phật là Ngài Ca Diếp và Ngài A Nan thay Phật hoằng truyền Phật pháp ở Ấn độ. Đó là thời kỳ thứ nhất. Thời kỳ thứ hai do các vị Tổ sư Long Thọ, Mă Minh và Vô Trước lănh đạo. Thời kỳ thứ ba do các vị Tổ sư Long Tŕ, Thiện Vô Úy và Liên Hoa Sanh đảm nhiệm. 

Từ Ấn Độ, Phật Giáo lan truyền vào các nước lân cận, rồi toàn cơi Á Đông, và cuối cùng toàn cả thế giới. Sự truyền bá này đi theo hai hướng: một hướng về phương Bắc và một hướng về phương Nam. (Xem Lịch sử truyền bá Phật Giáo khóa 5) 

Về phương Bắc, th́ gọi là Bắc Phương hay là Bắc Tôn Phật Giáo, hay Đại Thừa Phật Giáo, gồm có những nước: Tây Tạng, Trung Hoa, Mông Cổ, Măn Châu, Cao Ly, Nhật Bản, Việt Nam v.v.. 

Về phương Nam, th́ gọi là Nam Phương hay Nam tôn Phật Giáo, hay Tiểu Thừa Phật Giáo, hay Nguyên Thủy Phật Giáo, gồm có những nước: Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Ai Lao, Cao Miên, Nam Dương v.v... 

Nhưng hiện nhờ sự giao thông tiện lợi và kinh điển được trau dồi khắp các nước, nên sự chia rẽ giữa Bắc tôn và Nam tôn không c̣n được rơ ràng như trước: trong Đại Thừa vẫn c̣n có Tiểu Thừa và trong Tiểu Thừa vẫn c̣n có Đại Thừa. 

IV. Sự Lợi ích Của Đạo Phật: 

Mục đích của Đạo Phật là đem lại những kết quả đẹp đẽ sau này cho chúng sanh: 

1. Chân thường: Chúng sanh trôi lăn, lặn hụp trong biển sanh tử luân hồi; chúng sanh sống trong cảnh vô thường, khi trẻ khi già, khi lành khi ốm, khi sống khi chết...Đạo Phật đem lại cho người tu hành một quả vị là không bao giờ bị luật vô thường nói trên chi phối. 

2. Chân lạc: Chúng sanh đang sống trong cảnh giới tối tăm, buồn tủi, khổ đau; nếu có vui cũng chỉ vui được trong chốc lát, như người khát, uống nước mặn vào, đỡ khát trong chốc lát, rồi về sau lại càng khát hơn lúc đầu. Đạo Phật có mục đích đem lại cho kẻ tu hành một sự an vui toàn vẹn và bất tận. 

3. Chân ngă: Chúng sanh bị không biết bao nhiêu nghịch cảnh ở chung quanh chi phối, ràng buộc, như kẻ tù tội bị giam hăm trong ngục thất, không bao giờ được tự do hoạt động theo ư muốn của ḿnh. Đạo Phật có mục đích làm cho những người tu hành được giải thoát hoàn toàn ra ngoài những trói buộc nói trên, làm cho con người đầy đủ năng lực để thực hiện ư nguyện tốt đẹp của ḿnh, và sống một cuộc đời an nhiên tự tại. 

4. Chân tịnh: Chúng sanh đang sống trong cảnh giới ô trọc, lấm láp trong bùn nhơ của cơi tục, từ trong tâm hồn cho đến ngoài thể chất. Đạo Phật có mục đích làm cho người tu hành gạn lọc được bao nhiêu ô trọc của cơi đời, được sống một cuộc sống trong trắng, tinh khiết, không vướng chút bận nhơ của trần tục. 

Không phải chỉ trong vị lai, Đạo Phật mới đem lại lợi ích cho đời, ngay trong xă hội hiện tại, Đạo Phật cũng đem lại nhiều lợi ích quư báu: 

- Đạo Phật, nhờ tinh thần Từ Bi, làm cho xă hội, nhân loại thương yêu nhau hơn. 

- Đạo Phật, nhờ ánh sáng Trí Tuệ, làm cho xă hội, nhân loại bớt si mê lầm lạc, thấy được đâu là giá trị thật, đâu là phỉnh phờ, giả dối. 

- Đạo Phật, nhờ tinh thần B́nh Đẳng tuyệt đối, san bằng được những bất công của xă hội, nhân loại, và làm cho cảnh giới Ta Bà này được sáng sủa, an vui hơn. 

Đó là những lợi ích mà Đạo Phật đem lại cho cơi đời. 

C - Kết Luận 

Những lợi ích nói trên quư báu như thế, nhưng sẽ không bao giờ đến với chúng ta, nếu không học và hành theo Phật. 

1. Học Phật: Đức Phật mặc dù là một đấng xuất phàm, thông minh xuất thế, nhưng khi xuất gia Ngài cũng phải học hỏi đêm ngày, hao tốn sức biết bao nhiêu, mới phát huy ra được cái giáo lư nhiệm mầu để lại cho chúng ta. Vậy chúng ta muốn trở thành một Phật tử chân chính th́ trước tiên là phải học hỏi như Phật. Chúng ta không chỉ học trong giáo lư của Ngài mà c̣n học qua đời sống, đức hạnh, hành vi của đời Ngài nữa. 

2. Hành theo Phật: Nhưng học mà không tập, không hành, th́ chẳng khác ǵ cái đăy đựng sách, chữ nghĩa kinh sách chất chứa thật nhiều, mà chẳng có ích lợi ǵ cả. Vậy nên học phải đi đôi với hành. Chúng ta phải cố gắng thực hành cho được những điều đă học, làm cho được những điều ḿnh thấy là hay là phải. Phật đă làm ǵ, chúng ta phải tập làm lại; Phật đă có những đức tánh Từ, Bi, Hỷ, Xả, Hoan Hỷ, Tinh Tấn, Thanh Tịnh...chúng ta cũng cố gắng thực hiện cho được những đức tánh ấy. 

Có như thế, mới khỏi hổ với hai tiếng Phật tử và mới gọi là đền đáp trong muôn một, ân đức sâu dày của đức Từ Phụ Thích Ca.

*******************************************************

Bài Thứ 2  

Lược Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni  
(Từ Giáng Sanh Đến Thành Đạo) 

A. Mở Đề: 

Đời Đức Phật Thích Ca Là Một Tấm Gương Sáng 

Bắt nguồn một tôn giáo nào, vị giáo chủ bao giờ cũng là một tấm gương sáng cho tín đồ soi chung để tiến bước. Nhưng trong các vị giáo chủ của các tôn giáo hiện có trên thế giới này, không có một vị nào đầy đủ ư nghĩa cao đẹp, một đời sống sâu xa bằng đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, cho đến mỗi im lặng của Ngài đều là những bài học quư báu cho chúng ta. Nếu chúng ta học giáo lư của Ngài mà không hiểu rơ đời sống của Ngài, th́ sự học hỏi của chúng ta c̣n phiến diện, thiếu sót. Đời Ngài chính là những biểu hiện giáo lư của Ngài. Ngài nói và Ngài thực hành ngay những lời Ngài đă nói. Đời Ngài là một bằng chứng hiển nhiên để người đời nhận thấy rằng giáo lư của Ngài có thể thực hiện được, chứ không phải là những lời nói suông, những không tưởng, những lâu đài xây dựng trên mây, trên khói. 

Vậy cho nên khi chúng ta học hỏi đời Ngài, chúng ta không nên có cái quan niệm học cho biết để thỏa măn tánh hiếu kỳ, mà chúng ta cần phải t́m hiểu ư nghĩa thâm thúy của đời sống ấy để đem áp dụng cho đời sống của chúng ta. 

Làm được như thế mới khỏi phụ ư nguyện lớn lao của đức Phật khi giáng sanh xuống cơi Ta Bà này và đă cam chịu bao nỗi đau khổ, gian lao trong kiếp sống như mỗi người chúng ta. 

B. Chánh Đề 

I. Định Nghĩa Hai Chữ Giáng Sanh 

Thường trong danh từ nhà Phật, khi nói đến sự hiện diện của đức Phật Thích Ca trong cơi đời này, người ta thường dùng chữ đản sanh (nghĩa là một sự ra đời vui vẻ, làm hân hoan, xán lạn cho cơi đời); hay thị hiện (nghĩa là hiện ra bằng xương bằng thịt, cho con mắt trần của chúng ta thấy được); hay giáng sanh (nghĩa là từ một chỗ cao mà xuống một chỗ thấp để sanh ra). 

Ba chữ ấy đều có 3 ư nghĩa khác nhau: Chữ đản sanh dùng để ca tụng một bậc tôn quí ra đời; chữ thị hiện hàm cái ư Phật bao giời cũng có cả, nhưng v́ mắt người không thấy được, phải hiện rơ ràng ra mới thấy; chữ giáng sanh hàm cái ư đức Phật ở một cảnh giới cao hơn, tốt đẹp hơn mà hạ xuống cảnh giới phàm trần này. Ba chữ ấy mặc dù khác nhau, nhưng đều có thể dùng để chỉ sự ra đời của đức Phật. Trái lại, khi một nguời phàm ra đời th́ gọi là "đầu thai". Đầu thai có nghĩa là bị nghiệp báo hoặc thiện hay ác bắt buộc phải luân hồi để chịu quả báo lành hay dữ. C̣n giáng sinh hay thị hiện th́ không hàm cái nghĩa bị nghiệp nhân câu thúc, mà do nơi ḷng từ bi, muốn lợi ích cho chúng sanh, nên tự nguyện ứng thân xuất hiện ra đời trong một thời gian để cứu độ chúng sanh; xong xuôi th́ thâu thần tịch diệt, tự tại vô ngại ra ngoài sống chết. 

II. Hoàn Cảnh Và Ḍng Dơi Của Đức Thích Ca 

Đức Phật giáng sinh ở xứ trung Ấn Độ, bây giờ là nước Népal, một nước ở ven sườn dăy núi Hy Mă Lạp Sơn, là một dăy núi cao nhất thế giới. Phong cảnh ở đấy rất đẹp; đến mùa xuân cả nước đơm bông nảy lá như một vườn hoa vĩ đại. Dân cư ở xứ ấy rất là thuần lương. Vị vua trị v́ là Tịnh Phạn, một vị vua thuộc ḍng Thích Ca, là một ḍng họ lớn đă mấy mươi đời nối nghiệp trị v́ đất nước này. Bà Hoàng Hậu Ma Da, cũng là một người thuộc ḍng vua chúa đă lâu đời. cả hai ông bà vua Tịnh Phạn đều là người đă nhiều kiếp tu hành, có đức hạnh lớn, xứng đáng làm cha mẹ muôn dân. 

Một hôm, trong thành Ca Tỳ La Vệ, là kinh đô của vua Tịnh Phạn, có l vía tinh tú, vua tôi cùng nhau mở hội ăn chơi. Hoàng Hậu Ma Da, sau khi dâng hương hoa cúng kiến trong cung điện rồi, ra ngọ môn bố thí thức ăn, đồ mặc cho dân bần cùng. Khi trở về cung an giấc, Bà nằm mộng thấy một con voi trắng sáu ngà từ trên hư không xuống, lấy ngà khai hông bên hữu của Bà mà chun vào. Bà đem điềm chiêm bao ấy thuật lại cho vua Tịnh Phạn nghe. Vua ra lệnh mời các thầy đoán mộng. Các nhà tiên tri đoán rằng: "Hoàng hậu sẽ sanh một quư tử tài đức song toàn". Vua Tịnh Phạn rất mừng rỡ, v́ ngôi báu từ đây sẽ có người truyền nối. 

Đến sáng ngày mồng tám tháng tư âm lịch (trước Tây lịch 624 năm), tại vườn Lâm Tỳ Ni, cách thành Ca Tỳ La Vệ 15 cây số, Hoàng hậu Ma Da đang ngoạn cảnh, trông thấy cành hoa Vô Ưu mới nở, thơm ngát, bà đưa tay phải với hái, th́ Thái Tử cũng vừa xuất hiện ngay đấy. 

Ngày đản sanh Thái Tử, trong thành Ca Tỳ La Vệ, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ, cây cỏ đều đơm hoa trổ trái; sông, ng̣i, mương, giếng nước đều trong đầy; trên hư không chim chóc và hào quang chiếu sáng cả mười phương. 

Vua Tịnh Phạn vui mừng khôn siết mời các vị tiên tri đến xem tướng Thái Tử. Trong số ấy, có đạo sĩ tên A Tư Đà tu ở núi Hy Mă Lạp, tiên đoán rằng: Thái Tử v́ có 32 tướng tốt xuất hiện, nên sẽ trở thành một vị Thánh. Nhưng vua Tịnh Phạn lại chỉ muốn con ḿnh làm một vị vua để nối dơi tông đường mà thôi. V́ thế, Tịnh Phạn Vương muốn đổi số mệnh con ḿnh, nên đặt tên cho Thái Tử là Tất Đạt Đa (Siddartha) theo tiếng Phạn, nghĩa là "Kẻ sẽ giữ chức vị mà ḿnh phải giữ". Chức vị mà Tịnh Phạn Vương muốn ám chỉ đây tức là ngôi Vua. Ngài không ngờ rằng chính thật chức vị của Ngài là chức vị Phật. 

Hoàng hậu Ma Da sau khi sanh Thái Tử được bảy ngày, vui thú quá v́ thấy ḿnh đă làm tṛn nhiệm vụ cao quư, và đă rửa sạch nghiệp báo nên Bà trút được xác phàm và sanh về cơi trời Đao Lợi. Vua Tịnh Phạn giao Thái Tử cho em gái Hoàng hậu là Ma Ha Ba Xà Ba Đề nuôi dưỡng. 

III. Tài Năng Và Đức Hạnh Của Thái Tử 

Thái Tử mỗi năm mỗi lớn, th́ diện mạo càng thêm khôi ngôi, tài năng càng phát lộ gấp bội. Ngài có một sức khỏe hơn người, một trí thông minh xuất chúng. Từ nghề văn cho đến nghiệp vơ, Thái Tử học với ông nào th́ trong ít hôm sau, vị giáo sư ấy phải xin cáo thối, v́ không c̣n đủ sức để dạy nữa. Cho đến ông thầy danh tiếng đệ nhất thời bấy giờ là Sằn Đề Đề Bà cũng chịu khuất phục Ngài luôn. 

Nhưng, mặc dù tài sức hơn người, thông minh xuất chúng lại ở trong địa vị cao sang quyền quư tột bậc, Thái Tử không bao giờ tỏ vẻ ngạo mạn, khinh người. Ngài có một thái độ rất ḥa nhă ôn ḥa, vô tư, b́nh đẳng. Ḷng thương người, thương vật của Ngài không ai sánh kịp, có dịp giúp đỡ, th́ dù khó khăn bao nhiêu Ngài cũng không từ nan. Bởi thế, Ngài được trên Vua cha yêu quư, dưới thần dân kính trọng, nể v́. 

IV. Những Ràng Buộc Của Tịnh Phạn Vương Để Ngăn Chí Xuất Gia Của Thái Tử 

Càng thương yêu, quư trọng con Tịnh Phạn Vương lại càng lo sợ con ḿnh sẽ không ở lại với ḿnh, mà sẽ xuất gia t́m Đạo để thành một vị Thánh, như lời tiên đoán của đạo sĩ A Tư Đà. Nhất là khi nhận thấy càng lớn, Thái Tử lại càng có vẻ suy nghĩ xa xăm, và nét mặt Thái Tử lại không được vui tươi như thời thơ ấu, Vua Tịnh Phạn lại càng lo sợ rằng lời tiên tri xưa sẽ thành hiện thực. Bởi thế, Vua cùng triều thần ngấm ngầm sắp đặt mọi kế hoạch để ràng buộc Thái Tử ở lại ngôi báu. Ngài truyền xây dựng ba ṭa lâu đài nguy nga tráng lệ để Thái Tử thay đổi nơi ăn chốn ở cho hợp thời tiết quanh năm, và chọn hàng trăm cung phi mỹ nữ có tài đàn ca hay, múa giỏi để giải khuây cho Thái Tử. Nhưng chừng ấy cũng chưa đủ Ngài c̣n làm lễ thành hôn cho Thái Tử với một Công chúa con vua Thiện Giác là Da Du Đa La, một Công chúa tuyệt đẹp và đức hạnh vô cùng. 

Thái Tử bị bắt buộc phải lập gia thất và có một con là La Hầu La. 

Nhưng, mặc dù sống một cuộc đời quá đầy đủ: nào chức tước danh vọng, nào lâu đài cung điện, nào đàn ca múa hát, nào vợ đẹp con ngoan, Thái Tử vẫn thấy ḷng ḿnh nặng trĩu bao nỗi băn khoăn, thắc mắc. Ngài cho cảnh đời Ngài đang sống đây không phải là hạnh phúc chân thật, mà là giả dối, mê muội, chỉ làm cho kiếp sống thêm nặng nề đau khổ. Ngài thấy cần phải t́m một lối thoát, một cuộc sống chân thật, có ư nghĩa và cao đẹp hơn. 

Nhận Ra Bốn Tướng Khổ Ở Đời Một hôm, nhân ngày lễ hạ điền, Thái Tử theo vua cha ra đồng xem dân chúng cày cấy. Cảnh xuân, mới nh́n qua, thật là đẹp mắt, nào hoa lá tốt tươi, muôn chim đua hót; nào bầu trời quang đăng, gió xuân phơi phới. Cảnh tượng có vẻ thái b́nh, an lạc lắm. Nhưng tâm hồn Thái Tử không phải là một tâm hồn hời hợt, xét đoán một cách nông nổi. Trái lại, Ngài nh́n sâu vào trong cảnh vật và đau đớn nhận thấy rằng cơi đời không đẹp đẽ an vui như khi mới nh́n qua. Ngài thấy người nông phu và trâu ḅ làm việc một cách cực nhọc dưới ánh nắng thiêu đốt, để đổi lấy bát cơm, nắm cỏ. Chim chóc tranh nhau ăn tươi nuốt sống côn trùng đang giăy giụa trên những luống đất mới cày. Cũng trong lúc ấy, trong bụi rậm người thợ săn đang nhắm bắn những con chim kia, và trong khu rừng gần đấy, bọn hổ báo đang ŕnh bắt người thợ săn. Thật là một cảnh tương tàn tương sát, không phút giây nào ngừng ! Chỉ v́ miếng ăn để sống mà người và vật dùng đủ mọi phương kế để giết hại lẫn nhau không biết gớm. Ngài nhận thức rơ ràng sự sanh sống là khổ. 

Một hôm khác, Ngài xin phép Vua cha đi dạo ngoài bốn cửa thành để được tiếp xúc với thần dân. Ra đến cửa Đông, Ngài gặp một ông già tóc bạc, răng rụng, mắt mờ, tai điếc, lưng c̣ng, nương gậy lần từng bước ngập ngừng như sắp ngă. 

Đến cửa Nam, Thái Tử thấy một người đau nằm trên cỏ, đang khóc than rên siết, đau đớn vô cùng. 

Đến cửa Tây, Ngài trông thấy một cái thây chết nằm giữa đường, ruồi nhặng bu bám, và śnh lên, trông rất ghê tởm. 

Ba cảnh khổ già, đau, chết, cộng thêm vào cái ấn tượng tương tàn trong cuộc sống mà Thái Tử đă nhận thấy khi đi xem lễ cày ruộng làm cho Ngài đau buồn, thương xót chúng sanh vô cùng. 

Một hôm khác nữa, Ngài ra cửa Bắc, gặp một vị tu sĩ tướng mạo nghiêm trang, điềm tĩnh thản nhiên như người vô sự đi ngang qua đường. Thái tử thấy trong ḷng nẩy sinh một cảm mến đối với vị tu sĩ. Ngài vội vă đến chào mừng và hỏi về ích lợi của sự tu hành. Vị Sa môn đáp rằng: "Tôi tu hành là quyết bỏ dứt mọi sự ràng buộc của cơi đời, về cầu cho ḿnh khỏi khổ và thành chánh giác để phổ độ chúng sanh đều được giải thoát như ḿnh". 

Lời giải đáp trúng với hoài băo mà Thái Tử đang ấp ủ bấy lâu, nên Ngài khôn siết vui mừng. Ngài liền trở về cung xin vua cha cho ḿnh xuất gia. Vua Tịnh Phạn không nhận lời. Thái Tử yêu cầu vua cha 4 điều nếu vua giải quyết được th́ Ngài hoăn việc đi tu, để trở lại lo chăn dân, trị nước. Bốn diều này là: 

1. Làm sao cho con trẻ măi không già 

2. Làm sao cho con mạnh măi không đau 

3. Làm sao cho con sống hoài không chết 

4. Làm sao cho mọi người hết khổ 

Bốn điều này làm cho vua cha bối rối, không giải quyết được điều nào cả. 

V. Sự Xuất Gia T́m Đạo 

Tịnh Phạn Vương, khi biết được ư định xuất gia của Thái Tử, lại càng lo sợ, lại t́m hết cách để ngăn cản, ràng buộc Ngài trong "cung vui". Nhưng một khi Thái Tử đă quyết th́ không có sức mạnh ǵ ngăn trở được Ngài. 

Một đêm khuya thừa dịp quân lính canh gác và cung phi mỹ nữ say ngủ sau một tiệc linh đ́nh, Thái Tử lén trổi dậy, nh́n vợ con lần cuối, rồi đánh thức tên giữ ngựa Xa Nặc dậy, thắng yên cương, rồi hai thầy tṛ trốn ra khỏi thành. Lúc bấy giờ nhằm đêm mồng tám tháng hai, và Ngài được 19 tuổi. 

Sau khi vứt bỏ khỏi cuộc đời vương giả, Thái Tử đi vào vùng sâu t́m Đạo. 

Ban đầu Ngài đến ở tu với các vị tu khổ hạnh. Nhưng hạng người này sống một cách kham khổ, nhịn ăn nhịn uống, dăi nắng, dầm sương, hành thân hoại thể một cách ghê rợn. Thấy cách tu hành như thế không hiệu quả, Ngài khuyên các vị đó nên bỏ phương pháp tu hành ấy, nhưng họ không nghe. Ngài lấy làm thương họ, nên t́m đi nơi khác để tu hành. Ngài đi hết chỗ này đến chỗ khác, ở đâu nghe có một vị tu hành đắc đạo th́ Ngài t́m đến học; nhưng đến đâu th́ Ngài thấy đạo của họ vẫn c̣n hẹp ḥi, thấp thỏi, không thể giải thoát cho con người hết được. Từ đấy Ngài trốn tu tập một ḿnh, đêm ngày nghiền ngẫm đến đạo giải thoát, quên ăn bỏ ngủ thân h́nh mỗi ngày mỗi tiều tụy. Một hôm Ngài kiệt sức, nằm ngă liệt trên cỏ, và được một người chăn cỏ đến đổ sữa cho Ngài tỉnh lại. Từ đó Ngài nhận thấy nếu muốn có kết quả, cần phải bồi dưỡng thân thể cho được mạnh khỏe, chứ không bỏ quên nó đi được. 

Khi thấy ḿnh đủ sức khỏe để chiến đấu trong trận cuối cùng với bóng tối si mê và dục vọng, và đem lại ánh sáng giác ngộ, Ngài đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ Đề và thề rằng: "nếu ta không thành đạo th́ thịt nát xương tan, ta cũng quyết không rời chỗ này." 

VI. Thành Đạo 

Đức Thích Ca đă ngồi nhập định 49 ngày đêm dưới gốc Bồ Đề. Trong 49 ngày ấy Ngài đă chiến đấu với bọn giặc phiền năo ở nội tâm như tham, sân, si, nghi, mạn...và chiến đấu với giặc Thiên Ma do Ma Vương Ba Tuần chỉ huy. 

Sau khi thắng cả giặc ở nội tâm cả ngoại cảnh, tâm trí được khai thông, Ngài hốt nhiên đại ngộ. 

Trong đêm thứ 49, vào canh hai, Ngài chứng được quả "Túc Mệnh Minh", thấy rơ được tất cả quá khứ của ḿnh trong tam giới. Đến nửa đêm, Ngài chứng được quả "Thiên Nhăn Minh", thấy được tất cả bản thể của vũ trụ và nguyên nhân cấu tạo của nó. Đến canh tư, Ngài chứng được quả của đau khổ và phương pháp dứt trừ đau khổ để được giải thoát khỏi tư pháp luân hồi. 

Từ ngày ấy, Ngài được Đạo vô thượng, thành bậc "Chánh Đẳng Chánh Giác", hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngày thành đạo của Ngài tính theo âm lịch là ngày mồng 8 tháng 12, vào lúc sao mai mọc. Lúc ấy Ngài được 30 tuổi. 

VII. Ư Nghĩa Cao Cả Trong Sự Xuất Gia T́m Đạo Của Đức Phật 

Những chiến sĩ chiến thắng quân địch ở ngoài chiến trường, thường được ca tụng là anh hùng. Càng chiến thắng được nhiều quân địch càng được hoan hô là anh hùng cái thế. Nhưng những kẻ anh hùng cái thế ấy, như Nă Phá Luân, Thành Cát Tư Hăn, Xê Đa (Céar) có chiến thắng được chính ḿnh? Cho nên thắng người đă khó mà thắng ḿnh lại khó hơn. Đức Phật đă thắng cả ngoại cảnh lẫn nội tâm, đă thắng được giặc Ma Vương Dục Vọng. Đức Phật thật xứng đáng với danh hiệu Đại Hùng Đại Lực. 

Ngài không phải v́ quyền lời riêng ḿnh mà chiến đấu. Ngài chiến đấu v́ t́nh thương. Mà t́nh thương ở đây cũng không phải chỉ nhằm t́nh thương trong phạm vi hẹp ḥi của gia đ́nh: thương cha mẹ, vợ con, bạn bè. T́nh thương ở đây là t́nh thương chúng sanh, tất cả cơi đời. T́nh thương ấy nó rộng sâu như trời bể, thiết tha như t́nh mẹ thương con. Đức Phật thật xứng đáng với danh hiệu Đai Từ Đại Bi. 

Lại t́nh thương ấy, Ngài đă hoan hỉ ĺa bỏ ngôi báu cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, đàn hay múa đẹp, mùi ngon vị lạ để sống một đời kham khổ, đạm bạc, thiếu thốn, giữa rừng thiêng nước độc. Một khi mà rời bỏ thứ mà người đời cho là qúy báu nói trên, Ngài không một phút giây nào hối tiếc, muốn quay về để hưởng thụ lại. Bằng cớ là Ma Vương đă sai con gái ḿnh giả làm nàng Da Du đến kêu gọi van xin Ngài trở về cung, mà Ngài không một chút bận tâm thối chuyển. Ngài xứng đáng với danh hiệu là Đại Hỉ Đại Xả. 

Cho nên ngày nay, mỗi khi xưng tán danh hiệu Ngài, chúng sanh không thể không suy gẫm cái ư nghĩa sâu sắc và đúng đắn mà người đời từ xưa đến nay đă tôn xưng Ngài là Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỉ, Đại Xả. 

C. Kết Luận 

Chúng Ta Nên Phát Tâm Rộng Lớn Và Mạnh Mẽ 

Chúng ta đă được biết qua đời sống của Đức Phật từ khi sơ sanh cho đến thành đạo. Bài học của đời Ngài dạy cho chúng ta nhiều ư nghĩa, nhiều phương diện quư báu. 

Nhưng điều quư báu nhất đối với kẻ sơ cơ như chúng ta là phải phát tâm Bồ Đề rộng lớn, nguyện v́ đời, v́ đồng bào, đồng loại mà tu hành, chứ không phải là ích lợi riêng cho chúng ta. 

Chúng ta lại phải phát tâm dũng mănh, tích cực trong sự tu hành; một khi vào đường đạo, th́ dù gặp nguy nan, hiểm trở khó khăn cũng nhất thiết không thối lui quay gót. Chúng ta phải tập cho được cái đức kiên tŕ như Đức Phật khi ngồi thiền định dưới gốc Bồ Đề. 

Được như vậy mới xứng đáng là "chân chánh Phật tử".

 

*******************************************************

Bài Thứ 3
Lược Sử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni 
 
(Từ Thành Đạo Đến Nhập Niết Bàn)

A. Mở Đề: 

Trong bài trước chúng ta đă thấy Đức Phật Thích Ca v́ một đại nguyện lớn lao, v́ một ḷng từ bi vô bờ bến mà xuất gia t́m Đạo. Đại nguyện và ḷng từ bi lớn lao ấy là "cầu thành Phật quả để trên đền đáp bốn ơn sâu, dưới cứu vớt ba đường khổ".

Cho nên sau khi giác ngộ, Ngài không vội nhập Niết bàn, mà nghĩ ngay đến sứ mạng của Ngài là: Thay thế chư phật đời trước, tiếp tục chuyển mê khai ngộ cho tất cả mọi người.

Sứ mạng ấy Ngài biết trước không phải dễ dàng, v́ cái Đạo của Ngài th́ cao thâm huyền diệu, mà chúng sanh căn cơ lại không đều, và từ muôn kiếp đă lặn hụp trong si mê lầm lạc, khó có thể nhận hiểu được ngay ư nghĩa cao thâm của Giáo lư Ngài. Chúng sanh từ lâu đời lâu kiếp quen sống trong bóng tối của si mê, ngày nay chắc không khỏi loá mắt, hoảng sợ khi tiếp xúc với ánh sáng bừng chói của trí tuệ. Nhưng Ngài xét biết rằng mặc dù sống trong tăm tối, nhưng mỗi chúng sanh đều có mầm Phật tánh, như hoa sen, mặc dù sống trong bùn tanh hôi, nhưng vẫn tỏa nhụy vàng thơm ngát. Ngài cương-quyết thực-hiện sứ mạng của ḿnh. 

B. Chánh Đề 

I. Sự Hóa Độ Rộng Lớn Và Cùng Khắp Của Đức Phật  
Sứ mạng hóa độ của Đức Phật, như chúng ta đă biết, thật nặng nề và khó khăn. Nhưng nhờ trí tuệ sáng suốt, ḷng từ bi rộng sâu, nhờ tinh thần b́nh đẳng triệt để và nhờ ư chí dũng mănh không thối chuyển, Đức Phật đă hoàn thành sứ mạng của ḿnh một cách viên măn. Trong khi hóa độ, Ngài đă dựa theo ba nguyên tắc sau đây: 

1. Hoá độ theo thứ lớp căn cơ
Khi bắt đầu đi truyền Đạo, ư nghĩ trước tiên của Ngài là đến vườn Lộc Uyển t́m mấy người bạn đồng tu với Ngài trước kia để thuyết pháp. Mấy người bạn ấy là các ông: Kiều-Trần-Như, Ác-Bệ, Thấp-Lực, Ma-Ha-Nam và Bạc-Đề. Bài thuyết pháp đầu tiên ấy là Tứ-Diệu-Đế. Năm vị nầy đều được khai ngộ, và trở thành 5 đệ tử đầu tiên của Phật. Kế đó Phật thuyết luôn ba tháng cho 55 người Bà-la-môn, mà người đứng đầu là ông Da-Xá, 55 người nầy đều xin quy y theo Phật, và hợp với 5 người trong nhóm ông Kiều-Trần-Như thành 60 đệ tử, 60 đệ tử này sau khi giữ đúng giới luật, được Phật thọ kư cho đi truyền Đạo khắp nơi. 

Đức Phật rời vườn Lộc-uyển đi về phía Nam đến xứ Ưu-lầu-tần-loa và hàng phục một vị tổ sư rất có uy tín của Đạo Thờ Lửa là ông Ma-Ha Ca-Diếp và hai người em của ông. Ông Ca-Diếp mang tất cả đồ đệ của ḿnh là 1250 vị, xin quy-y theo Phật. 

Nhớ lại lời hẹn xưa với vua Tần-bà-xa-la, Ngài đến xứ Makiệtđà vào thành Vươngxá để độ cho vua. Vua Tần-bà-xa-la gặp lại Ngài, vui mừng khôn siết, truyền xây cất tịnh xá Trúc lâm, để thỉnh Phật và chư Tăng ở lại thuyết Pháp độ sanh. 

Trong lúc Phật ở tịnh xá Trúc lâm, th́ vua Tịnh-Phạn nghe tin Ngài đă thành Phật, truyền sứ-giả đi thỉnh Ngài về thành Catỳlavệ. Nhưng 9 lần 9 sứ giả đi đều biệt tăm, không trở lại. Th́ ra những người này khi đến Trúc lâm tịnh xá nghe Phật thuyết pháp, đă say mê quên sứ mạng của ḿnh và xin thọ giới xuất gia. Lần thứ 10, Tịnh Phạn-vương sai một cận thần thân tín là Ưu-Đà-Di, mới thỉnh được Phật về. Trên đường từ thành Vương xá trở về Catỳlavệ, Đức Phật đă thuyết pháp hoá độ cho không biết bao nhiêu người. Về thành Catỳlavệ, Ngài ở lại 7 ngày. Mặc dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi ấy, Đức Phật đă cảm hóa tất cả ḍng họ Thích và tất cả những người trong ḍng họ này đều xin quy y và một số lớn xin xuất gia theo Phật, như các ông: Nan-Đà, A-Nan-Đà, A-Nậu-Lâu-Đà, La-Hầu-La... 

Sau khi trở về thăm gia đ́nh và quê hương, Đức Phật cùng các đệ tử lại tiếp tục đi truyền Đạo. Ngài đi đến thành Xá-Vệ là kinh đô nước Kiều tát la, thuộc quyền thống trị của vua Ba-tư-Nặc. Ở thành này có một vị đại thần tên là Tu-Đạt-Đa, giàu ḷng bố thí cho những kẻ bần cùng côi cút, nên được gọi danh hiệu là Trưởng giả cấp cô độc. Ông rất ngưỡng mộ Đức Phật nên đă trút hết tất cả tiền của vàng bạc trong kho ra mua khu vườn rộng lớn của Thái tử KỳĐà để làm tịnh xá cho Phật và đệ tử của Ngài ở, thuyết pháp độ sanh. 

Được ít lâu nghe tin vua Tịnh-Phạn đau nặng, sắp băng hà, Đức Phật vội trở về thăm cha lần cuối cùng. Thấy phụ thân buồn rầu trên giường bệnh Phật thuyết về "Lẽ vô-thường, khổ, không, vô ngă" cho vua nghe. Nghe xong ,vua liền dứt phiền năo, gương mặt vui tươi, cất tiếng niệm Phật, rồi băng hà một cách êm ái. 

Sau khi Tịnh-Phạn-Vương mất, bà mẹ nuôi của Phật là MaHaBaXàBaĐề và bà DaDuĐàLa cùng nhiều người bên nữ giới họ Thích xin được phép xuất gia. Từ đó trong Đạo Phật lần đầu tiên có hàng TỳKheoNi. 

Đức Phật cùng các đệ tử lại tiếp tục đi truyền Đạo, đi đến đâu Ngài cũng được sùng mộ, tin theo và nhiều người noi theo gương của ông CấpCôĐộc lập TịnhXa, cất giảng đường để Ngài thuyết pháp độ sanh. 

Như thế chúng ta thấy Đức Phật đă tuần tự hóa độ và kết nạp đệ tử, từ những hạng người đủ căn trí dễ hiểu thấu giáo lư của Ngài rồi mới rộng ra những người 
khác; Lập TỳKeo trước rồi TỳKheoNi sau. 

2- Hóa độ tùy phương tiện
Trong suốt thời gian đi thuyết pháp độ sanh, lắm khi Đức Phật cũng gặp nhiều cảnh gay go trái ngược do ḷng đố kị của ngoại đạo, tà giáo, hay ḷng ganh ghét của nội thân quyến thuộc gây ra. Nhưng lúc nào Ngài cũng tuỳ phương tiện để cảm hóa họ, và đưa họ về đường ngay lẽ phải. Chẳng hạn, khi th́ Ngài bị cô gái con ngoại đạo độn bụng giả có chửa đến giữa Đạo tràng để vu oan cho Ngài; khi th́ Ngài bị anh chàng Vô năo đuổi theo quyết giết Ngài để lấy ngón tay góp thêm cho đủ số một ngàn ngón mà nó đă giết người để lấy, v́ theo thuyết tà đạo, nó tin rằng có làm được như thế mới chứng quả; khi th́ Phật bị Đề Bà Đạt Đa, người em họ hung ác, âm mưu hăm hại Phật bằng cách thả voi say cho chạy đến chà đạp Phật, hay lăn đá to từ trên núi xuống đè Phật. 

Nhưng tất cả những âm mưu ấy đều vô hiệu quả, v́ oai đức uy danh và trí huệ của Phật bao bọc Phật, không một hành động xấu xa nào có thể thắng Phật được. Ngài có đủ phương tiện khôn ngoan khéo léo, xoay chiều đổi hướng dễ dàng, hoán cải được tất cả nghịch cảnh trở thành thuận lợi. Và cuối cùng kẻ khinh ghét Ngài trở lại kính mến Ngài; người chống ngài trở lại phục Ngài; kẻ ngoại đạo trở thành Phật tử. Bằng chứng là: ĐếBàĐạtĐa cũng được Phật thọ kư; anh chàng VôNăo cũng được quy y; bầy voi say cũng được sám hối; Vua AXàThế cũng hối cải và quay về đường ngay. 

Nói tóm lại, Đức Phật có đủ muôn ngàn phương tiện thích ứng với mọi người, mọi vật, mọi hoàn cảnh để hóa độ tất cả những ai mà Ngài gặp trên đường truyền Đạo của Ngài. Không phải chỉ ở ngoài đời, mà trong Giáo hội của Ngài, Ngài cũng tuỳ theo căn cơ, tâm lư của mỗi đệ tử mà áp dụng phương pháp thích hợp. Chẳng hạn như đối với ông NanĐà, mặc dù thân đă xuất gia, mà tâm vẫn muốn ngao du, luyến ái bạn bè, Ngài dùng thần thông để đưa ông lên cơi trời xem những cảnh sống tốt đẹp, vui thú khác thường, rồi đưa ông xuống địa ngục mục kích những h́nh phạt đau đớn, rùng rợn hăi hùng để ông so sánh hai cảnh đời trái ngưọc nhau mà tự chọn lấy một đường. 

C̣n đối với ông A-Nan, người học rộng nghe nhiều, nhưng v́ nghiệp duyên c̣n nặng, nên mắc nạn "MaĐăngGià", th́ Phật lại đem giáo lư thâm sâu là Kinh Lăng-Nghiêm ra giảng dạy để cho ông A-Nan thấy rơ được cái quí giá của chân tâm mà lo tu luyện, chứ không rong ruổi theo giả cảnh nữa. 

Xem như thế th́ Đức Phật đă dùng phương tiện để tùy duyên hóa độ, như ông lương y giỏi tùy bệnh cho thuốc, chứ không nhất thiết phải theo một đường lối cố định nào cả. Đối với kẻ thân, người thù, đối với kẻ thông minh hay người ngu độn, đối với kẻ giàu, người nghèo, Ngài đều có đủ pháp môn cho họ khai ngộ và quy y theo Ngài. 

3 - Hóa độ theo tinh thần b́nh đẳng
Tinh thần triệt để b́nh đẳng là một điểm son quí giá nhật trong giáo lư của Đức Phật, cũng như trong tâm hồn Ngài. Ngay từ khi c̣n ấu thơ, tinh thần ấy đă được bộc lộ trong những cử chỉ cứu giúp nhữ kẻ bần cùng, những con vật lâm nạn, như chúng ta đă thấy trong bài trước. 

Khi thành Đạo, tinh thần b́nh đẳng ấy lại bộc lộ rơ ràng hơn nữa. Ngài đă có những câu nói bất hủ, khiến cho ngày nay, người ta vẫn đem ra làm khuôn vàng thước ngọc, như khi Ngài xin nước của một người thuộc giai cấp hạ tiện nhất Ấn Độ, người nầy sợ làm lây ô-uế cho Ngài, th́ Ngài phán bảo: "không có giai cấp trong giọt máu cùng đỏ, trong nước mắt cùng mặn. Mỗi người sanh ra đều có Phật tánh và có thể thành Phật". 

Trong Giáo hội của Ngài, Ngài nhận cả những người thuộc giai cấp hạ tiện. Như ông ƯuBaLy, một đệ tử của Ngài có tiếng tăm về giới luật, lại là một người thuộc giới hạ tiện Chiênđàla, làm nghề gánh phân. Sự thâu nhập ấy đă làm cho các vị vua chúa bất măn. Chính vua BaTưNặc đă bạch Phật:" Đấng Chí Tôn thâu nhận kẻ hèn hạ vào hàng Tăng Đồ như vậy, không ngại rằng đá sỏi lẫn lộn với châu ngọc, làm mất giá trị của chúng Tăng sao?" Phật dạy rằng: "Người hèn hạ mà biết phát tâm BồĐề, xuất gia tu hành, chứng được quả Thánh, th́ quí báu vô cùng, chẳng khác ǵ hoa sen mọc ở bùn lầy nhơ bẩn mà vẫn tinh khiết thơm tho". "Một người sanh ra không phải liền thành Bàlamôn (giai cấp trên hết) hay Chiênđàla (giai cấp thấp nhất) mà chính v́ sở hành của người ấy, tạo thành Chiênđàla hay Bàlamôn". 

Ngài xâu giùm kim cho người mù, hoan hỷ nhận ḥn đất sét mà đứa bé đă nặn để dâng Ngài, thọ lănh bữa cơm cuối cùng do người thợ đốt than nghèo nàn dâng cúng. Chính v́ sự hóa độ b́nh đẳng như thế, mà kinh Đại Niết-Bàn đă tán thán: 

-"Đức Như Lai không chỉ thuyết pháp cho hạng người quyền quí như vua BạcĐềCa, mà cũng thuyết pháp cho hạng người bần cùng như ông ƯuBaLy; không riêng thọ lănh sự cúng dường của những người giàu có như ông TuĐạtĐa, mà cũng thọ lănh sự cúng dường của các hạng nghèo khổ như ông ThuầnĐà; không riêng cho phép xuất gia các hạng không có tánh tham như Ngài CaDiếp, mà cũng cho phép xuất gia những người có nhiều tánh tham như ông NanĐà; không những thuyết pháp cho hạng người an tịnh không dự việc đời, mà cũng thuyết pháp cho vua TầnBàSaLa trong lúc đang bận rộn việc nước; không những thuyết pháp cho hạng thanh niên trẻ tuổi, mà cũng thuyết pháp cho ông già 80 tuổi; không những thuyết pháp cho bà hoàng hậu MạtLĩ, mà cũng thuyết pháp cho dâm nữ LiênHoa". 

II. Năm Thời Kỳ Nói Kinh 

Tóm lại, trong một đời của Đức Phật, tùy theo tŕnh độ của mọi người mà thuyết pháp giáo hóa, măi đến khi Ngài nhập diệt, cộng là 49 năm. Những Kinh Pháp của Ngài nói ra, về sau các đệ tử kết tập chia ra làm năm thời: 

1.Thời thứ nhất nói Kinh Hoa-Nghiêm 

Khi Phật mới thành Đạo, ở tại cội BồĐề, nói KINH HOA NGHIÊM 21 ngày. Vạch rơ chân tánh, chỉ bày chỗ cao sâu màu nhiệm của Đạo Phật, chủ đích có hai điều: 
a) Dẫn dắt các bậc Bồ tát lên địa vị Đẳng giác và Diệu giác. 
b) Nêu bày giáo pháp rốt ráo của NhưLai, chỉ có Phật với Phật mới hiểu rơ mà thôi; Ngoài ra hàng nhị thừa ngồi nghe nhu đui, như điếc, huống chi ngoại đạo,tà giáo làm sao hiểu nổi! Đức Phật tŕnh bày giáo pháp siêu việt tuyệt vời ấy, là muốn cho đại chúng phải tu theo Đại thừa Phật giáo mới được hoàn toàn rốt ráo. 

2.Thời thứ hai Phật nói Kinh A-Hàm 

Biết rằng: "Muốn đi xa phải do nơi gần, muốn lên cao phải từ nơi thấp", Đức Thích Ca y theo chư Phật mà nói pháp Tam thừa. V́ vậy thời thứ hai, Ngài nói Kinh A Hàm trọn 12 năm, dùng thí dụ thực tế, chỉ rơ chân lư cho hàng Tiểu thừa dễ nhận, mà lo bề tự tu và tự độ. 

3.Thời thứ ba Phật nói Kinh Phương Đẳng. 

Đạo Phật chẳng những dạy pháp giác ngộ phần ḿnh mà Ngài c̣n chỉ bày phương pháp giác tha nữa, tức là khuyến khích từ cái giác ngộ tiêu cực nhỏ hẹp của Tiểu thừa (AlaHán), để tiến lên cái giác ngộ tích cực bao la của Đại thừa Phật giáo. Ấy là thời nói Kinh phương Đẳng trọn 8 năm, dẫn dắt Tiểu thừa qua Đại thừa. 

4.Thời thứ tư Phật nói Kinh Bát Nhă. 

Đến khi Đức Phật xem căn cơ của chúng sanh có thể tiến lên một từng cao nữa là hấp thụ được hoàn toàn giáo pháp Đại thừa, nên Ngài chỉ bày Đạo lư chân không của Vũ trụ, thuyết minh cái thật tướng, vô tướng của các pháp. Ấy là thời kỳ nói Kinh Bát Nhă trọn 22 năm. 

5.Thời thứ năm Phật nói Kinh Pháp Hoa và Niết Bàn. 

Sự hóa độ một đời của Đức Phật gần viên măn, thêm thấy căn cơ của chúng sanh đă thuần thục, có thể gánh vác Đại thừa Chánh pháp của Như Lai, nên Ngài bèn nói rơ bản hoài của Ngài thị hiện ra đời là v́ một nguyên nhân lớn: "Khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến". Ngài phú chúc, thọ kư cho các hàng đệ tử, tương lai sẽ thành Phật. Ấy là thời nói Kinh Pháp Hoa và Kinh Niết Bàn trọn 8 năm. Đến đây nhiệm vụ thuyết pháp độ sanh của đời Ngài đă viên măn. 

Tóm lại 5 thời thuyết pháp Cổ nhân có làm bài kệ như sau: 

Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhật 
A-Hàm thập nhị, Phương Đẳng bát 
Nhị thập nhị niên Bát Nhă đàm 
Pháp Hoa Niết Bàn cộng bát niên. 
DỊCH NGHĨA 
Trước nói Hoa Nghiêm hăm mốt ngày 
A-Hàm mười hai, Phương Đẳng tám 
Hai mươi hai năm nói Bát Nhă 
Pháp Hoa Niết Bàn cộng tám năm. 

III. Sự Hóa Độ Viên Măn 

Từ khi thành Đạo dưới gốc cây Bồ Đề cho đến ngày nhập diệt, trải qua một thời gian 49 năm, Đức Phật đă đi khắp xứ Ấn Độ rộng lớn bao la, hết nước này đến nước khác. Hễ chỗ nào có chân Ngài dẫm đến là Ánh Đạo Vàng bừng tỏa huy hoàng. 

Mỗi ngày Ngài theo một thời gian biểu, một chương tŕnh nhất định, không bao giờ sao lăng, giải đăi, từ khi trẻ cho đến già, từ mùa mưa cho đến mùa nắng. Mỗi ngày khi trời chưa sáng, Ngài đă ĺa khỏi giường đi tắm rửa, thay đổi y phục rồi vào pḥng quán cơ cho đến lúc mặt trời xuất hiện. Sau đó Ngài thuyết pháp cho chúng Tăng đến lúc trưa mới nghỉ để thụ trai. Buổi chiều, Ngài thuyết pháp cho Tín đồ các vùng lân cận đến nghe; rồi lại giảng giải những nghi vấn của các Tăng về những vấn đề mà Ngài đă thuyết pháp buổi sáng. 

Mỗi năm, Ngài đi chu du để thuyết pháp độ sanh trong 9 tháng nắng ráo; c̣n ba tháng về mùa hạ có mưa lớn (theo thời tiết Ấn Độ), th́ Ngài lại ở luôn trong Tịnh xá để an cư kiết hạ. 

Ṛng ră trong 49 năm như thế, hạt giống Từ bi được Ngài tinh tấn gieo rắc khắp các xứ ở Ấn Độ. Từ Bắc chí Nam, từ Đông sang Tây, từ rừng rú đến đồng bằng, không nơi nào là Ngài không đặt chân đến, hay truyền đệ tử đến thay Ngài để hóa độ chúng sanh. Và ở đâu Ngài và các đệ tử cũng được mọi người, từ vua đến dân, từ giàu đến nghèo, từ già đến trẻ, từ phái nam đến phái nữ, đổ xô ra đón tiếp Ngài, vui thú đươc tắm gội trong ánh nắng trí huệ và nước Từ bi do Ngài tưới xuống. Ở đâu có ánh Đạo vàng đến, th́ Tà giáo và ngoại giáo lui xa dần, tan biến như những làn mây, như bóng tối tan biến trước ánh b́nh minh đang lên. Giọng thuyết pháp của Ngài có oai lực như tiếng sư tử rống, làm cho cầm thú phải khiếp phục, như tiếng Hải triều lên, lấn át tất cả bao nhiêu tiếng tỉ tê của côn trùng, chim chóc. 

Đạo Bồ Đề từ đây đă ăn sâu gốc rễ trên bán đảo Ấn Độ bao la, và trở thành tôn giáo chính của các nước lớn, nhỏ thời bấy giờ tại Ấn Độ. Đức Phật sau khi đă tự giác, đă giác tha và đến đây giác hạnh của Ngài đă viên măn. 

IV. Trước Khi Nhập Niết bàn 

1 - Phật báo tin sắp ĺa đời. 

Khi giác hạnh đă viên măn th́ Phật đă 80 tuổi. Đến đây, sắc thân tứ đại của Ngài cũng theo luật vô thường mà biến đổi, yếu ǵa. Năm ấy Ngài vào hạ ở rừng SaLa trong xứ CâuLy, cách thành Balanại chừng 120 dặm. Một hôm Ngài gọi ông Anan, người đệ tử luôn luôn ở bên cạnh Ngài đến và phán bảo: 
-"A Nan! Đạo ta nay đă viên măn. Như lời nguyện xưa, nay ta đă có đủ bốn hạng đệ tử: TỳKheo, TỳKheoNi, ƯuBàTắc, ƯuBàDi. Nhiều đệ tử có thể thay ta chuyển xe pháp, và Đạo ta cũng đă truyền bá khắp nơi. Bây giờ ta có thể rời các ngươi mà ra đi. Thân h́nh ta, theo luật vô tường, bây giờ như một ĩô xe đă ṃn ră. Ta đă mượn nó để chở pháp, nay xe đă vừa ṃn mà pháp cũng đă lan khắp nơi, vậy ta c̣n luyến tiếc làm ǵ cái thân tiều tụy này nữa? A-Nan! Trong ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết bàn". 

Tin Đức Phật sắp vào Niết bàn, lan ra như một tiếng sét. Các đệ tử của Ngài đi truyền giáo ở các nơi xa, lục tục trở về để cùng đấng Giác Ngộ chia ly lần cuối. 

Trong thời gian ba tháng cuối cùng của Ngài, Đức Phật vẫn không nghỉ ngơi, mà vẫn tiếp tục đi truyền Đạo. Một hôm Ngài đi thuyết pháp ngang qua một khu rừng, gặp một người làm nghề đốt than, ông Thuần Đà, thỉnh Ngài về nhà để thọ trai. Ngài im lặng nhận lời cùng các đệ tử theo ông về. Đến nhà ông Thuần Đà dọn ra cúng dường Ngài một bát cháo nấm Chiên đàn, thường gọi là nấm heo rừng, v́ giống nấm này rất được giống heo rừng ưa thích. 

Thụ trai xong, Phật cùng các đệ tử từ giă ông Thuần Đà ra đi. Được một quăng đường, Ngái giao b́nh bát cho ông A Nan và truyền treo vơng lên, trong rừng cây Ta-la (Tàu dịch là cây song thọ, cây có hai nhánh lớn chia ra như hai cái nạn), để Ngài nằm nghỉ. Ngài nằm xuống vơng đầu trở về hướng Bắc, ḿnh nghiêng về phiá tay phải, mặt xoay về hướng mặt trời lặn, hai chân chéo vào nhau. 

Nghe tin Ngài sắp nhập Niết bàn, dân chúng quanh vùng đến kính viếng rất đông, trong số ấy có một ông già ngoài 80 tuổi, tên TuBạcĐàLa đến xin xuất gia thọ giới Sadi với Ngài, Ngài hoan hỉ nhận lời. Đó là người đệ tử chót trong đời Ngài. 

2- Phật nói Kinh Di Giáo và những lời phú chúc 

Lúc bấy giờ các đệ tử của Ngài đều có mặt đông đủ, chỉ trừ ông Ca-Diếp v́ đi thuyết pháp xa, chưa về kịp. Ngài hội tất cả đệ tử và tín đồ đến quanh Ngài và dặn ḍ một lần cuối. Ngài phú chúc như sau: 

a) Y,bát của Ngài sẽ truyền cho ông Ma-Ha Ca-Diếp

b) Các đệ tử phải lấy giới luật làm Thầy

c) Ở đầu các Kinh phải nên nêu 4 chữ: "Như thị ngă văn"

d) Xá lợi của Ngài sẽ chia làm ba phần: 

- Một phần cho Thiên cung, 

- Một phần cho Long cung, 

- Một phần chia cho 8 vị Quốc vương ở Ấn Độ

Sau đây là lời vàng ngọc mà Ngài đă để lại trong giờ phút cuối cùng. 

- "Này! Các người phải tự ḿnh thắp đuốc lên mà đi! Các người hăy lấy Pháp của ta làm đuốc! Hăy theo Pháp của ta mà tự giải thoát! Đừng t́m sự giải thoát ở một kẻ nào khác, đừng t́m sự giải thoát ở một nơi nào khác, ngoài các người!..". 

- "Này! Các người đừng v́ dục vọng mà quên lời ta dặn. Mọi vật ở đời không có ǵ quí giá. Chỉ có chân lư cuả Đạo ta là bất di, bất dịch. Hăy tinh tấn lên để giải thoát, hỡi các người rất thân yêu của ta!". 

Sau khi đă dặn ḍ cặn kẽ xong, Ngài nhập định rồi vào Niết bàn. Lúc bấy giờ nhằm ngày rằm tháng hai Âm Lịch (theo giáo sử Trung hoa). 

Rừng cây Ta-la tuôn hoa xuống phủ lên thân Ngài, trời đất u ám, cây cỏ héo úa, chim chóc im bặt tiếng hót. Vạn vật như ch́m lặng trong giây phút nặng nề của sự chia ly. 

Các đệ tử tẩn liệm xác Ngài vào trong kim quan và 7 ngày sau, đua kim quan Ngài vào thành Câu thi để tại chùa Thiện Quang và làm lễ trà tỳ (lễ hỏa thiêu). 

Tám vị Quốc vương lớn ở Ấn Độ kéo binh hùng tương dũng đến toan tranh dành XáLợi. Nhưng ông Hương-Tích y theo di chúc của Phật, đứng ra điều đ́nh, và nhờ thế việc phân chia XáLợi đều được ổn thỏa. 

C - Kết Luận 

Đức Phật đă nhập Niết Bàn, nhưng gương sáng của đời Ngài vẫn c̣n chiếu sáng rực rỡ trước mắt chúng ta. Suốt một đời, trong 80 năm trời, không một lúc nào Ngài sao lăng mục đích tối thượng là hóa độ chúng sanh đang trầm luân trong bể khổ. Khi c̣n tại gia, Ngài là người ở trong một địa vị có diễm phúc nhất, cao nhất của người đời. Thế mà Ngài vẫn không màng tưởng đến; khi vào trong Đạo, Ngài là người ở trong địa vị cao chót vót của Đạo, thế mà Ngài vẫn không chịu ở yên trong địa vị ấy, lại vất vả ruổi rong trên mọi nẻo đường bụi bặm, gai góc để đưa chúng sanh lên con đường hạnh phúc, an vui và giải thoát hoàn toàn. Ḷng thương của Đức Phật thật vô biên. 

1- Người đời nên noi gương sáng của Phật. 
Sự hy sinh cao cả, ḷng từ bi rộng lớn, trí tuệ sáng suốt, ư chí dũng mănh của Ngài không những là bao nhiêu gương sáng cho riêng hàng Phật tử, mà c̣n cho tất cả mọi người, nếu chúng ta quan niệm Ngài là một vĩ nhân của nhân loại từ xưa đến nay, nếu chúng ta quan niệm Ngài là một bậc siêu nhân th́ đó là một bậc siêu nhân cao hơn những bậc siêu nhân khác. Nếu ta quan niệm đời Ngài là một sự thị hiện của Phật, th́ đó là sự thị hiện đẹp đẽ nhất và đầy đủ ư nghĩa hơn hết trong các sự thị hiện. Cho nên không những đối với Tín đồ Phật giáo, mà đối với toàn thể nhân loại, Đức Phật đáng được tôn sùng và chiêm ngưỡng. 

2- Tín đồ nên ghi nhớ những lời di chúc của Phật - Chúng ta , những Phật tử, ai cũng biết đời Đức Phật là đẹp đẽ, cao cả; bài học của đời Ngài là quí báu, sâu xa. Nhưng nếu chúng ta không cố gắng học tập, th́ bài học dù hay ho quí báu bao nhiêu cũng vô ích. Đức Phật trước khi nhập diệt, đă dặn chúng ta một câu cuối cùng: 

- "Mọi vật ở đời không có ǵ quí giá. Thân thể rồi sẽ tan ră. Chỉ có Đạo ta là quí báu. Chỉ có chân lư của Đạo ta là bất di bất dịch. 
HĂY TINH TẤN LÊN ĐỂ GIẢI THOÁT!" 

Vậy th́ diều kiện trọng yếu nhất để giải thoát là sự tinh tấn. Chúng ta đừng bao giờ quên điều kiện ấy trong khi tu hành.

*******************************************************

Bài Thứ 4

Quy Y Tam Bảo

A. Mở Đề: 

Cảnh giới Ta bà của chúng ta là một cảnh giới đầy mê mờ và dục vọng. Chúng ta đang lặn hụp trong bể nước mắt của đau khổ và bùn nhơ của dục vọng, sống trôi lăn trong cảnh ấy, chúng ta khó thấy được bến bờ sáng sủa, yên ổn để lội vào. Thật là đáng thương cho thân phận con người chúng ta. 

Nhưng bản nguyện chúng ta đâu có thế! Chúng ta, từ vô thuỷ, ở nơi nguồn chân vắng lặng, sáng suốt vô cùng. V́ một niệm bất giác, khởi vô minh vọng tưởng, nên chúng ta bị quay cuồng trong sanh tử, trôi nổi trong ba cơi sáu đường. 

Vậy th́ trong chúng ta ai là người không muốn thoát ra khỏi cơi đen tối, sầu đau này, để được trở về nguồn trong sáng, an vui? Nhưng làm sao để thoát ra được? Ai sẽ là kẻ rủ ḷng thương để đưa đường chỉ lối cho chúng ta? Ai là người có đủ phương pháp thần diệu để giúp chúng ta ra khỏi sinh tử luân hồi? 

- Đấng cao cả sáng suốt và đầy đủ năng lực ấy không ai khác hơn là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, người đă chứng quả bất sanh, bất diệt; và chỉ có Giáo pháp của Ngài mới cứu được chúng sanh ra khỏi vô thường đau khổ. 

Vậy chúng ta c̣n ngần ngại ǵ nữa mà chẳng chịu quy y Tam-Bảo. 

B. Chánh Đề: 

I. Định Danh Và Giải Nghĩa

1. Quy-y nghĩa là ǵ? Quy là trở về; Y là nương tựa, Quy-y là trở về nương tựa nơi mà ḿnh đă v́ si mê, phóng đăn ĺa bỏ ra đi, như đứa trẻ khờ dại đă rời bỏ cha mẹ để ra đi trong hoan phá, bây giờ biết sự dại khờ do kinh nghiệm khổ đau, quay trở về nương tựa lại dưới bóng hạnh phúc và yêu thương của cha mẹ. Chữ Quy-y nguyên dịch nghĩa là kính vâng hay phục tùng. 

2. Tam bảo nghĩa là ǵ? Tam bảo là ba ngôi báu: PHẬT, PHÁP, TĂNG

Ở thế gian, vàng bạc, ngọc ngà và danh vọng là quí báu. Nhưng sự thật, vàng bạc, danh vọng đâu có cứu được con người khỏi khổ, sống, già, bệnh, chết, mà lắm khi c̣n làm cho con người thêm khổ nữa! C̣n Phật, Pháp, Tăng th́ có đủ năng lực dắt dẫn con người ra khỏi những cái khổ nói trên. Bởi thế, người đời mới tôn sùng Phật, Pháp, Tăng là ba ngôi báu (Tam Bảo). 

a) PHẬT: Chữ Phật do chữ Phạn Bouddha phiên âm ra. Tàu dịch là Giác Giả, nghĩa là: Bậc đă giác ngộ sáng suốt hoàn toàn về ba phương diện: Tự giác, giác tha, giác hạnh viên măn. 

b) PHÁP: Pháp là do chữ Phạn Dharma mà dịch nghĩa ra. Pháp là phuơng pháp tu hành mà Phật đă phát huy ra để diệt trừ mọi mê muội, khổ đau và chứng được quả Phật. Ba Tạng Kinh Điển đều gọi chung là Pháp. 

c) TĂNG: Tăng hay Tăng già là do chữ Phạn Shanga mà phiên âm ra; Tàu dịch là: Ḥa hợp chúng, nghĩa là một đoàn thể tu hành từ bốn người sắp lên, cùng nhau sống chung một chỗ, đồng giữ giới luật của Phật, đồng chia sẻ cho nhau một cách ḥa thuận những ǵ đă thâu nhận được, từ vật chất đến tinh thần. 

3- Quy-y Tam-bảo là thế nào? - Quy-y Tam-bảo là trở về nương tựa ba ngôi báu: PHẬT, PHÁP, TĂNG

Tại sao phải Quy-y Phật? - V́ Phật là đấng hoàn toàn sáng suốt, từ bi vô lượng, phước huệ vô biên, đức hạnh viên măn; - V́ Phật là người dẫn đường vĩ đại nhất, đă có cái kinh nghiệm bản thân thoát ra ngoài ṿng sanh tử để chứng Đạo. 

Tại sao quy-y Pháp? - V́ chỉ có phương pháp của Phật là đầy đủ công năng để đưa chúng ta qua khỏi bể khổ, đến bờ giải thoát. 

Tại sao lại quy-y Tăng? - V́ Tăng là người đă hy sinh gia đ́nh, tiền của, danh vọng... để t́nh nguyện theo Phật dắt dẫn chúng sanh trên đường Đạo. 

II. Ba Bậc Tam Bảo 

Tam Bảo có ba bậc: 
- Đồng thể Tam bảo, 
- Xuất thế gian Tam bảo, 
- Thế gian trụ tŕ Tam bảo. 

1. Đồng Thể Tam Bảo 

a) Đồng Thể Phật Bảo: tức là nói tất cả chúng sanh cùng chư Phật đồng một thể tánh sáng suốt. 

b) Đồng Thể Pháp Bảo: tức là nói tất cả chúng sanh cùng chư Phật đồng một pháp tánh từ bi, b́nh đẳng. 

c) Đồng Thể Tăng Bảo: tức là nói tất cả chúng sanh cùng chư Phật đồng một thể tánh thanh tịnh, sự-lư ḥa hợp. 

2. Xuất Thế Gian Tam Bảo 

a) Xuất Thế Gian Phật Bảo: là chỉ cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Đức Phật A-Di-Đà, Chư Phật trong mười phương ba đời, đă tự giải thoát ra khỏi sự ràng buộc của thế gian. 

b) Xuất Thế Gian Pháp Bảo: là chỉ cho Chánh pháp của Phật, có công năng làm cho chúng sanh thoát khỏi sự ràng buộc của thế gian, như Tứ-đế, Thập-nhị nhân-duyên, Lục -độ v.v... 

c) Xuất Thế Gian Tăng Bảo: là chỉ cho các vị Thánh-Tăng đă thoát ra ngoài sự ràng buộc của thế gian như đức Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Ca-Diếp, A-Nan v.v... 

3. Thế Gian Trụ Tŕ Tam Bảo 

a) Thế Gian Trụ Tŕ Phật Bảo: là chỉ cho XaLợi của Phật, tượng Phật đúc bằng kim khí, chạm trổ bằng danh mộc, tô bằng đất, đắp bằng xi măng, thêu bằng vải, hay vẽ trên giấy. 

b) Thế Gian Trụ Tŕ Pháp Bảo, là chỉ cho ba tạng Giáo điển: Kinh, Luật, Luận viết hay in trên giấy, trên vải, trên lá buôn v.v... 

c) Thế Gian Trụ Tŕ Tăng Bảo, là chỉ các vị TỳKheo, TỳKheoNi tu hành chân chánh, đạo đức trong sạch, giới luật trang nghiêm trong hiện tại. 

III. Sự Quy y Tam Bảo 

Sau khi đă hiểu rơ thế nào là Quy-y Tam bảo, tất nhiên phải thực hành sự hiểu biết ấy.Thực hành bằng sự tướng cung kính, vâng theo Tam-bảo, như thế gọi là sự quy-y Tam-bảo. 

1. Sự Quy-Y Phật: Hằng ngày chúng ta phải nhớ tưởng luôn đến Phật, niệm danh hiệu Phật, chiêm ngưỡng tượng Ngài và nguyện suốt đời theo bước chân Ngài, ấy là sự quy-y Phật. 

2. Sự Quy-Y Pháp: Hằng ngày tụng đọc Kinh, Luật, Luận; sớm hôm hai thời công phu, t́m hiểu nghĩa lư thâm huyền của Pháp bảo. Khi đọc tụng Kinh điển tâm trí ta không nghĩ xằn bậy, không nhớ tưởng những việc không hay, không bàn mưu tính kế để lợi kỷ, tổn nhân. Chúng ta trừ bỏ được dục vọng, tâm trí được sáng suốt, an lành, thanh tịnh. 

3. Sự Quy-Y Tăng: Thế gian thường nói: "Trọng Phật, phải kính Tăng". Cho nên, nếu chúng ta thành tâm thờ Phật bao nhiêu, th́ chúng ta phải thật dạ kính Tăng bấy nhiêu. Người thực hành sự quy-y Tăng, hễ thấy người đầu tṛn áo vuông, chân chính tu hành, giữ ǵn giới luật, th́ liền kính nể, quư trọng, xem như đó là vị đại diện cho Đức Phật. Làm như thế là sự quy-y Tăng. 

Tóm lại, thờ Phật, tụng Kinh, giữ giới, nghiên cứu Phật pháp, kính trọng Tăng già chân chính, đó chính là sự quy-y tam-bảo. 

IV. Lư Quy y Tam Bảo 

Lư là bên trong. Lư quy-y Tam-bảo nghĩa là quy-y Tam-bảo trong tâm chúng ta. Nếu chúng ta chỉ thực hành sự quy-y, chỉ rong ruổi theo Tam-bảo bên ngoài, mà quên lư quy-y, nghĩa là quên Tam-bảo bên trong tâm chúng ta th́ chúng ta chưa thực hành đúng nghĩa Tam-quy. Thật thế, bên trong tâm chúng ta cũng có đủ Tam-bảo. Chúng ta cần thực hành lư quy-y, hay Tam Tự Quy-Y: 

1. Tự Quy-Y Phật: Tự nghĩa là ḿnh đối với tự tâm ḿnh. Tự quy-y Phật là ḿnh tự trở về với Phật tánh sáng suốt của tâm ḿnh, - Vâng mỗi người đều có Phật tánh, và đều có thể thành Phật. Đó là lời Phật Thích Ca đă dạy. Nhưng Phật tánh ấy bị mê lầm, vọng tưởng che lấp. Vọng tưởng như mây mờ, Phật tánh như trăng. Mây mờ có thể che khuất, chứ không thể tiêu diệt được trăng sáng. Phật tánh chúng ta bị vọng tưởng vô minh che lấp sâu kín đến đâu cũng vẫn thường c̣n. Vậy th́ sao chúng ta lại bỏ quên Phật tánh của chúng ta, mà chỉ chạy theo cầu khẩn Phật bên ngoài; như đứa "cùng tử" có viên ngọc quư, cha mẹ đă giấu sẵn trong chéo áo mà nó không biết, lại đi xin ăn cùng khắp mọi nơi! 

2. Tự Quy-Y Pháp: nghĩa là vâng theo pháp tánh của ḿnh. Trong tâm ta có đủ tất cả các Pháp: Từ-bi, Trí-tuệ, B́nh đẳng, Sáng-suốt, Nhẫn-nhục, Tinh-tấn... chúng ta cần phát huy những đức tánh ấy và hành động theo chúng, tuân theo chúng. Như thế là Tự Quy-Y Pháp. 

3. Tự Quy-Y Tăng: nghĩa là vâng theo Thầy trong tâm ḿnh, Thầy trong tâm ḿnh là đức tánh ḥa hợp thanh tịnh của ḿnh, như Tăng già là hiện thân của sự ḥa hợp thanh tịnh bên ngoài. Bấy lâu v́ ḿnh mê muội, không nhận thấy được ông Thầy trong tâm, nay nhờ Phật chỉ dạy, ḿnh nhận thấy được ông Thầy thanh tịnh ấy, th́ ḿnh phải quy-y Thầy của ḿnh trước đă chứ! 

Nói tóm lại, ḿnh phải nương tựa, quay về với Phật trong tâm ḿnh là tánh sáng suốt; với Pháp trong tâm ḿnh là các đức tính Từ-bi, Hỷ-xả v.v..., với Tăng trong tâm ḿnh là sự ḥa hợp, thanh tịnh của bản tâm. Như thế là Lư Quy-Y Tam-bảo. 

V. Nghi Thức Quy Y 

Sau khi chúng ta đă hiểu rơ SỰ và LƯ Quy-y rồi, chúng ta cũng cần biết qua nghi thức của lễ Quy-y. 

1. Trưóc Tiên Phải Gội Rửa Thân Tâm Cho Trong Sạch

Quy-y là buổi lễ quan trọng nhất trên đường tu tập của chúng ta. Nó là cuộc khởi hành để đi đến mục đích giải thoát, v́ thế chúng ta không thể xem thường, cử hành một cách bừa băi được. 

Khi muốn quy-y, chúng ta phải y-phục chỉnh tề, sắm khay lễ thỉnh chư Tăng đến trai dường, đảnh lễ và cầu xin chư Tăng rủ ḷng Từ-bi truyền trao quy-giới cho ḿnh. 

Trước ngày hành lễ, thân tâm chúng ta phải được gội rửa trong sạch. Ta tắm rửa sạch sẽ ăn mặc chỉnh tề. Đó là về thân; c̣n về tâm th́ ta phải ba phen sám hối, cho ba nghiệp được thanh tịnh. Nhờ sự tẩy gội cả trong lẫn ngoài ấy, ta mới xứng đáng đón nhận Pháp thanh tịnh cao quư của Tam-bảo. 

2. Phát Nguyện

Đến giờ quy-y, chúng ta phải quỳ xuống; theo lời hướng dẫn của chư Tăng, chí thành phát nguyện: 

- Đệ tử suốt đời quy-y Phật.

- Đệ tử suốt đời quy-y Pháp.

- Đệ tử suốt đời quy-y Tăng.

Sau khi phát nguyện Tam-quy rồi, người phát nguyện tin chắc rằng ḿnh đă gieo hạt giống giải thoát, thế nào cũng sẽ gặt được kết quả tốt là thoát ly ba đường ác: Địa-ngục, Ngạ-quỷ, Súc-sanh. V́ thế người quy-y liền nói tiếp ba lần: 

- Đệ tử quy-y Phật rồi, khỏi đọa địa ngục. 

- Đệ tử quy-y Pháp rồi, khỏi đọa ngạ quỷ. 

- Đệ tử quy-y Tăng rồi, khỏi đọa súc sanh. 

Thế là trọn vẹn Tam-quy và Tam-kiết. 

Để bảo tồn lư tưởng cao cả của ḿnh và giữ vững đức tin trên đường Đạo, người quy-y tự nguyện một cách mạnh mẽ và thành khẩn: 

- Đệ tử quy- Phật, nguyện trọn đời không quy y thiên, thần, quỷ, vật. 

- Để tử quy-y Pháp, nguyện trọn đời không quy-y ngoại đạo, tà giáo. 

- Đệ tử quy-y Tăng, nguyện trọn đời không quy-y tổn hữu ác đảng. 

Như thế là lễ quy-y đă hoàn tất. Người Tín đồ chỉ c̣n việc làm theo đúng những lời ḿnh đă phát nguyện và đă tuyên thệ trước Tam-bảo. 

VI. Lợi Ích Của Quy Y Tam Bảo 

1. Khỏi đi lạc đường đời vào nơi tăm tối

Như chúng ta đă thấy ở đoạn mở đầu bài này, chúng ta đang lặng hụp trong biển khổ, đang bơ vơ lạc lơng giữa đêm tối mênh mông. Trong hoàn cảnh bi đát như thế, nếu không thấy được những phương tiện để đi đến, không có những bậc Thầy để d́u dắt đến th́ chúng ta sẽ quay cuồng măi măi trong biển sanh tử luân hồi. Cái đích sáng ấy là Đức Phật, những phương tiện ấy là Pháp, và những bậc Thầy d́u dắt ấy là Tăng. Khi chúng ta đă biết có những sự quư báu như thế mà không nắm bắt lấy, th́ chẳng khác ǵ người sắp chết đuối thấy cái bè gỗ trôi qua mà lại dại khờ xua đẩy nó ra. 

Sự quy-y chính là một cách bám víu vào cái bè Tam-bảo mà Phật đă chế ra để cứu vớt những kẻ sắp chết đuối trong biển đời là toàn thể chúng ta. 

2. Khi đă phát nguyện quy-y, ḿnh dễ giữ đúng lời đă hứa, v́ có sự chứng minh của Chư Phật và Chúng Tăng. 

Có người nói: "Tôi tôn sùng Đức Phật, v́ biết Ngài là một Đấng sáng suốt hoàn toàn; Tôi trọng Pháp v́ biết Pháp Phật có đủ năng lực đưa người đến giải thoát; tôi kính Tăng v́ biết đấy là những vị đại diện cho Đức Phật. Biết như thế cũng đủ, cần ǵ phải làm lễ phát nguyện quy-y?" 

Nói như thế là chưa hiểu giá trị về phương diện tâm lư của lời hứa, lời thề trước mặt người khác. Khi chúng ta đă hứa với ai một điều ǵ, mà nuốt lời hứa, th́ tâm hồn chuíng ta bức rứt, hối hận không an. Đă hứa tất có bổn phận làm tṛn lời hứa, nếu thất hứa, tất ta sẽ tự khinh ta. Nhất là khi lời hứa, lời nguyện ấy lại cử hành trong một khung cảnh trang nghiêm trước Điện Phật, trên có sự chứng tri của Chư Phật, dưới có sự chứng tri của chư Tăng, chung quanh có sự hộ niệm của những thân bằng quyến thuộc; phát nguyện trong khung cảnh ấy, tất nhiên chúng ta khó ḷng mà trái lời nguyện hay xao lăng được. 

C. Kết Luận 

Khuyên tín đồ nên quy-y cả Sự lẫn Lư và tinh tiến trong sự quy-y 

Chúng ta đă thấy, là Phật tử th́ phải quy-y. Quy-y phải đủ Sự và Lư. Không nên hoàn toàn ỷ lại bên ngoài mà xao lăng bên trong. Cũng không nên hoàn toàn tự tôn tự trọng riêng ḿnh mà khinh thị bên ngoài. Muốn quy-y th́ trước tiên phải long trọng làm lễ quy-y để đánh dấu bước đi đầu tiên của ḿnh trên đường giải thoát. Lễ ấy như là lễ tiễn đưa một người ra đi nhận một nhiêm vụ mới. Nhưng một khi đă đặt chân lên đường, th́ người ấy phải rong ruổi, quyết tiến mau cho đến đích, chứ không phải chần chờ, quay đi lộn lại một chỗ, hay rẽ qua một ngả khác. Đă phát nguyện quy-y mà không theo dấu chân của Đức Phật đă để lại, không soi vào gương sáng của Đức Phật đă nêu cao, không theo giáo pháp mà rèn luyện tâm tánh; không giữ giới luật, không vâng lời nhắc nhở của Chư Tăng, như thế là tự lừa dối ḿnh và lừa dối người khác và cái tai hại lại càng lớn lao hơn cả không quy-y. 

Trái lại, nếu chúng ta quy-y và thực hành đúng như lời đă phát nguyện th́ con đường giải thoát dù xa, cũng sẽ có ngày thấy đích. 

Xin hăy luôn luôn ghi nhớ lời nói cuối cùng của Đức Phật: 

- "Hăy tinh tấn lên để giải thoát!".

 

*******************************************************

  Bài Thứ 5  
Ngũ Giới

A. Mở Đề 

Sau khi quy y Tam bảo phải sống đúng theo quy luật mà Đức Phật đă chế ra, để tiến bước trên đường Đạo. Quy luật ấy là Ngũ Giới. Người theo đạo Nho phải sống đúng theo Tam cương, Ngũ thường, th́ người theo Đạo Phật cũng không thể chỉ thọ Tam Quy mà không tŕ Ngũ Giới. 

Người đă phát tâm quy y Tam Bảo là đă bước chân lên nấc thang giải thoát, nhưng nếu không giữ năm giới là chỉ mới bước một nấc đầu rồi dừng lại, không thể tiến đến giải thoát thật sự được. Năm Giới này không những đưa người mạnh tiến trên đường giài thoát, mà c̣n đem lại trật tự, an vui, ḥa b́nh cho gia đ́nh, Quốc gia, xă hội nữa. Ngũ giới chính là giềng mối chắc thật tạo hạnh phúc cho cá nhân và đoàn thể, chính la ông thầy ngăn ngừa chúng ta làm điều xằng bậy trong thời mạt pháp. V́ thế, Đức Phật Thích Ca đă có lời di chúc khẩn thiết sau đây trước khi Ngài nhập Niết bàn: 

- "Sau khi ta diệt độ, các người tu hành phải tôn kính giới luật làm thầy; dầu cho ta c̣n tại thế để dạy dỗ cho các người mấy ngàn đời đi nữa, ta cũng không thêm điều nào ngoài các giới luật này." Giới luật Phật chế ra rất nhiều, v́ cần phải áp dụng cho nhiều hạng người tu hành: - Tỳ kheo,- Tỳ kheo ni,- Sa di, -Sa di ni. Riêng đối với hàng Phật tử tại gia, th́ chỉ có 5 giới mà thôi. Nhưng nếu giữ được 5 giới ấy th́ lợi ích cho ḿnh, cho người không siết kể. 

B. Chánh Đề: 

I. Định Nghĩa :

Ngũ giới là năm điều ngăn cấm mà Phật đă chế ra, để ngăn những tưởng niệm ác, nói năng chẳng lành, hành động bất chính. Năm điều răn ấy là: Không được giết hại; Không được trộm cướp; Không được tà dâm; Không được nói dối; Không được uống ruợu. Năm điều này y cứ trên tâm từ bi, b́nh đẳng trên phương diện dứt trừ tội lỗi cá nhân và đem lại trật tự, an vui cho xă hội mà thành lập. Đức Phật không bắt buộc chúng ta phải triệt để tuân theo và cũng không hăm dọa nếu chúng ta không tuân theo th́ phải bị Ngài trừng phạt. Sự giữ hay không giữ giới là do chúng ta hoàn toàn tự liệu lấy. Đạo Phật khác với các Tôn giáo khác chính là ở điểm Đức Phật không phải là một quan ṭa tối cao giữ quyền thưởng phạt. Một ư nghĩ, một lời nói, một hành động tốt hay xấu chính đă mang theo nó một mầm thưởng phạt rồi. Đức Phật chỉ là một vị dẫn đường rất từ bi và rất sáng suốt. Ngài chỉ cho chúng ta con đường nào là con đường sáng và con đường nào là con đường nguy hiểm không nên đi. Nhưng nếu chúng ta không theo con đường sáng mà lại muốn đi vào con đường nguy hiểm th́ tất nhiên chúng ta sẽ gặp tai họa tự nhiên, chứ Phật không tạo ra tai họa để trừng phạt chúng ta. Ṭa án chính là luật nhân quả. Ta làm ác th́ ta chịu quả xấu; ta làm thiện th́ ta được quả tốt. Năm giới chính là năm thành tŕ ngăn chặn cho ta đừng đi lạc vào đường ác, là năm hàng rào ngăn chặn cho ta khỏi rơi xuống vực sâu, trong khi ta đi trên con đường giải thoát. 

II. Năm Giới 

1. Không được giết hại: Điều ngăn cấm thứ nhất mà Phật khuyên chúng ta, là không được giết sanh mạng, từ loài người cho đến loài vật. Sanh mạng là một giá trị qúy báu, nhất là sanh mạng người; giết hại sanh mạng kia để tô bồi cho sanh mạng này là một điều ác, không hợp lư đạo. 

Phật giáo cấm sát sanh bỡi nhiều lư do: 

a) Tôn trọng sự công bằng: Chúng ta coi sanh mạng ḿnh là quư, là một của báu tuyệt đối. Nếu ai mưu hại là ḿnh chống trả triệt để để bảo vệ sanh mạng. Ḿnh đă biết quư trong thân mạng ḿnh, tại sao lại muốn chà đạp sanh mạng người? Suy rộng ra, các loài vật cũng biết quư trọng mạng chúng. Như một con ḅ hay một con heo sắp bị đập đầu, thọc huyết, ta thấy sự phản kháng mănh liệt, sự đau thương cùng cực của chúng, bằng những tiếng kêu gào, những cái giăy giụa mong thoát chết! Theo lẽ công b́nh, đ́ều ta không muốn ai làm cho ta, th́ ta cũng đừng làm cho người khác, hay loài khác. Phật dạy: "Ai ai cũng sợ gươm dao, ai ai cũng sợ sự chết. Vậy nên lấy ḷng ḿnh suy ḷng người, chớ giết! Chớ bảo giết!". 

b) Tôn trọng Phật tánh b́nh đẳng: Chúng ta mỗi loài tuy thân h́nh khác nhau mà vẫn đồng một Phật tánh. Phật tánh đă b́nh đẳng th́ không thể viện lư do ǵ để nói rằng Phật tánh ở người giá trị hơn ở vật, ở giai cấp này, màu da này giá trị hơn giai cấp kia, màu da kia. Sát hại một sanh vật là sát hại Phật tánh. 

c) Nuôi dưỡng ḷng từ bi: Ḷng từ bi của Đức Phật xem mọi loài như con, nên Ngài không đồng ư cho đệ tử Ngài sát hại sanh vật, bất cứ trong trường hợp nào. Bởi v́ đang tâm giết hại sanh mạng là ḷng độc ác đă cực thịnh, tâm từ bi bị bóp chết. Nhẫn tâm vô cớ giết một con vật, tính bạo ác không kém giết một con người. Nhẫn tâm làm cho kẻ khác hay vật khác phải giăy giụa, rên siết, quằn quại trong máu đào, trong lệ nóng trước khi trút hơi thở cuối cùng, là tự giết ḷng từ bi của ḿnh, là bóp chết cái mầm thương yêu rất quư báu trong tâm hồn chúng ta. Như thế, khó mà tu hành để thành chánh quả được. Đức Khổng Tử có dạy: "Văn kỳ thanh bất nhẫn kiến kỳ thực, kiến kỳ sanh bất nhẫn kiến kỳ tử". (Nghe tiếng kêu la của con vật, không nỡ ăn thịt nó; thấy nó sống không đành thấy nó chết). Như vậy người có tâm từ bi hay ḷng nhân đều không nỡ giết hại người hay loài vật. 

d) Tránh nhân qủa báo ứng oán thù: Khi ta giết một người hay một con vật th́ sự oán hận của họ tràn trề khó dập tắt được. Họ v́ cô thế, v́ yếu sức nên bị ta giết hại. Trong khi ấy, họ ôm ḷng căm hận, chờ gặp dịp báo thù, hay con cái thân nhân họ sẽ báo thù lại. Cứ thế mỗi ngày ta đều gieo căm hờn cho người và vật, tích lũy lâu ngày, khối oan gia ấy to hơn sức ta, chừng ấy ta bị nó sát hại lại. Càng tạo nghiệp sát, càng lao ḿnh vào đau khổ. Phật dạy: "Người thường sanh tâm sát hại, càng tăng trưởng nghiệp khổ, măi xoay vần trong sanh tử, không có ngày ra khỏi" (Kinh Lăng Già). 

Lợi ích của sự không sát hại: V́ những lư do trên, Đức Phật cấm Phật tử giết hại. Không giết hại, sẽ có những điểm lợi sau đây: 

a) Về phương diện cá nhân: Một người không tàn nhẫn sát nhân, hại vật, không độc ác làm đổ máu, không lóc da, xẻ thịt, chặt đầu, thắt cổ th́ trong ḷng không bức rứt, hối hận, thân tâm được nhẹ nhàng, thơ thới, giấc ngủ được an lành, nét mặt được hiền ḥa, trong sáng. 

b) Về phương diện xă hội: Nếu tất cả nhân loại trên thế giới này đều giữ đúng giới thứ nhất của Phật dạy đây th́ chiến tranh sẽ không có, mà các nghiệp sanh tử luân hồi cũng đươc giải thoát. Cho nên Tổ xưa có dạy: 

''Hết thảy chúng sanh không nghiệp giết, 
Mười phương nào có nổi đao binh. 
Mỗi nhà, mỗi chốn đều tu Thiện. 
Lo ǵ thiên hạ chẳng thái b́nh. '' 

Hạn chế: Vẫn biết giết hại là tạo nhân khổ, nhưng người tại gia c̣n ăn mặn, c̣n làm công việc kia nọ, th́ khó tránh khỏi phạm giới sát. Ở đây không bắt buộc chúng ta phải giữ triệt để như thế, chỉ cần giữ phần quan trọng là không giết người, và những con vật lớn như: Trâu, ḅ, ngựa, chó, heo, gà v.v... C̣n những con nhỏ nếu tránh được bao nhiêu quư bấy nhiêu, chúng ta nên đi từ từ th́ chắc ăn hơn. Nhất là không nên giết hại sinh vật một cách vô lư, giết để thỏa ḷng thích giết. Trong khi giữ giới sát, ta nên đề pḥng hai đều sau đây: 

a) Không nên để cho ác ư sanh khởi. Giết một con vật lớn mà v́ vô ư hay tự vệ, th́ cái quả của nó c̣n nhẹ hơn là giết một con chuồn chuồn với cái ác ư muốn giết cho vui tay. 

b) Nên tránh sự huân tập trong hoàn cảnh giết hại: Những đứa bé lên 3, lên 5 ra sân gặp chuồn chuồn, bươm bướm chụp bắt rồi ngắt cánh, rứt đầu nếu cha mẹ thấy mà không rầy la; đến 12,13 tuổi, chúng sắm ná, giàng thun bắn chim, đến 20,25 tuởi, chúng đâm họng heo, giết chó, vẫn không bị ngăn cấm th́ sau này, quen với tánh hung bạo, trong cơn giận dữ, chúng có thể giết người không gớm tay. Vậy chúng ta không nên để tự do cho con cái quen cái sự giết hại sinh vật, mà cũng không cho chúng mục kích những cảnh chém giết ở các rạp chiếu bóng hay ở giữa đời. 

2. Không được trộm cướp: Ai cũng biết trộm cướp là lấy những tài vật thuộc quyền sở hữu của người, mà không có sự ưng thuận, hay cưỡng ép người ta ưng thuận bằng vơ lực hay quyền hành. Những vật quư giá như nhà cửa, ruộng vườn, tiền bạc, ngọc ngà... cho đến vật hèn mọn như lá trầu, trái ớt... người ta không cho mà ḿnh tự lấy đều là trộm cướp. Trộm cướp có nhiều h́nh thức: Ỷ mạnh bè đảng giật ngang của người là ăn cướp; cậy thế ỷ quyền làm tiền kẻ yếu là ăn cướp; bắt chẹt người ta trong lúc túng thiếu để cho vay nặng lời, cầm bán giá rẻ mạt là ăn cướp; tích trữ đầu cơ để bán giá chợ đen là ăn cướp. Dùng mưu mẹo ŕnh rập, lén lút lấy của người là ăn trộm; cân non, đong thiếu, trốn xâu, lậu thuế, được của người ta mà không t́m cách trả lại là ăn trộm. Có thể nói tóm một câu là; Bất cứ h́nh thức nào, do ḷng tham lam lấy của người bất chính đều là trộm cướp cả. Nếu v́ nghèo nàn thiếu thốn, vợ ốm con đau, thiếu gạo thiếu thuốc, nên phải buộc ḷng gian xảo, th́ tội c̣n được châm chế; chứ đă giàu có, ăn sung mặc sướng, lên xe xuống ngựa mà c̣n lường gạt người lấy của, cướp công, để sống một cách vương giả trên mồ hôi nước mắt của kẻ nghèo đói, th́ tội ác thật nặng nề! 

V́ lư do ǵ Phật cấm trộm cướp? Phật cấm trộm cướp v́ những lư do sau đây: 

a) Tôn trọng sự công bằng: Chúng ta không muốn ai lấy của ḿnh, tại sao ḿnh lại chăm chăm muốn đoạt của người? Quyền sở hữu cá nhân của ta, ta biết tôn trọng, th́ tại sao ta lại chà đạp lên quyền sở hữu của người? Làm như thế là trái lẽ công bằng. Một xă hội mà thiếu công bằng th́ không thể tồn tại lâu dài được. 

b) Tôn trọng sự b́nh đẳng: Mỗi người đều có Phật tánh như nhau, tại sao ta lại muốn làm khổ người khác để ta được sung sướng? Tại sao ta lại muốn hưởng những đặc ân bất chính trong khi ta cũng chỉ là một con người như bao nhiêu con người khác? 

c) Nuôi dưỡng ḷng từ bi: Một khi vô ư đánh mất một vật ǵ hay một số tiền, ta rầu rầu buồn khổ, ăn không ngon, ngủ không yên, tại sao ta lại nỡ tâm lấy của người để cho người phải khóc than, đau khổ v́ ta? Người ta thường nói: "Tiền tài là huyết mạch". Như vậy, kẻ cướp đoạt của người tức là cướp đoạt xương máu người, sát hại sinh mạng người vậy. Chỉ những người không có ḷng thương người, tán tận lương tâm mới làm những việc đen tối như vậy. C̣n ta, đă là Phật tử, đang cố gắng nuôi dưỡng ḷng từ bi, ta không thể trộm cướp của ai được. 

d) Tránh nghiệp báo oán thù: Trong xă hội có tổ chức, tôn trọng lẽ công bằng, th́ tội trộm cướp bao giờ cũng bị trừng trị. Ăn trộm là bị đưa ra ṭa án tiểu h́nh, ăn cướp th́ ra ṭa án đại h́nh. Khi chưa bị bắt, kẻ trộm cướp phải t́m trăm phương ngàn kế để trốn tránh, sống chui rúc trong bóng tối. Khi bị bắt, người trộm cướp phải bi trói buộc, tra khảo, ngồi tù, nhốt khám. Phận ḿnh đă đành cực thân khổ trí, lại làm cho gia đ́nh ḿnh, cha mẹ, vợ con cũng buồn rầu, xấu hổ, và mất hết cả hy vọng ở tương lai. 

Nhưng nếu luật pháp thế gian không trừng trị, th́ người trộm cướp cũng không thoát khỏi luật nhân quả nghiệp báo. Trộm cướp của người th́ sẽ bị người trộm cướp lại, gây bao thù oán, khổ đau. Phật dạy: "Người tham luyến sắc tài không chịu rời bỏ, cũng như đứa bé luyến tiếc một chút mật trên lưỡi dao, thè lưỡi liếm, phải bị cái họa đứt lưỡi" (Kinh Tứ Thập Nhị Chương). Chính thế, v́ tham tiền của, lắm người đă tự gieo ḿnh vào khám đường, vào địa ngục. Chúng ta hăy lắng nghe bài kệ cảnh tỉnh của vua Trần Thái Tông: 

Khoét vách soi tường chí những đâu, 
Ngàn mưu trăm kế luống tham cầu; 
Của người dầu có đời nay được, 
Đời khác luôn luôn kiếp ngựa trâu. 
V́ những lư do trên nên Đức Phật cấm các để tử trộm cướp. 

Lợi ích của sự không trộm cướp. 

a) Về phương diện cá nhân: Người không gian tham th́ đời sống hiện tại được an ổn, không bị đ̣i hỏi, giam cầm, tù tội, đi đâu cũng được người khác tin cậy, giao phó cho ḿnh những địa vị quan trọng. Người không gian tham th́ đời sau được hưởng phước báu giàu sang, an vui và con cháu nhiều đời cũng nhờ thừa hưởng âm chất của ông bà, cha mẹ để lại mà được vinh hiển. 

b) Về phương diện đoàn thể: Nếu một ngày nào trong xă hội không ai có tâm gian tham, trộm cướp th́ nhà không cần đóng cửa, của khỏi lo ǵn giữ, vật đánh rơi không mất, thật không c̣n ǵ sung sường hơn! Người ta khổ bởi không có của, nhưng kẻ có của nhiều cũng vẫn khổ, v́ phải lo ǵn giữ. Người không trộm cướp tức là đă âm thầm ban cho người khác sự an ổn rồi. Nhà Nho có câu: "Nhân phi nghĩa bất giao, vật phi nghĩa bất thủ", Huống chúng ta là Phật tử lại đi trộm cướp hay sao? 

3. Không được tà dâm: Tà dâm tức là muốn nói về sự dâm dục phi lễ, phi pháp. Luật dạy người xuất gia ly tục phải dứt hẳn dâm dục, c̣n người tại gia th́ không được tà dục. Khi vợ chồng có cưới hỏi đủ lễ gọi là chánh; ngoài ra, lén lút lang chạ làm việc phi pháp với người khác phái gọi là tà. Nhưng nếu vợ chồng chính thức đi nữa, mà nằm không phải chỗ, gần gũi nhau không chừng mực th́ cũng thuộc về tà dâm cả. Đó là nói về mặt thô thiển. Nói một cách vi tế hơn, th́ phàm những sự phóng tâm đắm sắc, nghĩ ngợi bất chánh, chơi bời lả lơi, cũng đều thuộc về loại tà dâm cả. 

Phật cấm tà dâm v́ những lư do sau đây: 

a) Tôn trọng sự công bằng: Mỗi người ai cũng muốn gia đ́nh ḿnh êm ấm, yên vui, vợ con ḿnh đoan chánh, th́ sao lại đi phá hại gia cang, làm nhục nhă tông môn người, đưa vợ con người vào con đường dâm loạn. 

b) Bảo vệ hạnh phúc gia đ́nh: Không ǵ đau khổ, đen tối hơn, khi một gia đ́nh mà chồng hoặc vợ có dạ riêng tư, tà vạy. Hạnh phúc đâu c̣n, khi chồng vợ không tin nhau! Một khi gia đ́nh lâm vào cảnh ấy, th́ con cái sẽ xấu hổ, bê tha, côi cút, bà con không đoái hoài đến, sự nghiệp tan tành, làng xóm chê bai, danh giá hoen ố. Điều kiện thiết yếu để giữ ǵn hạnh phúc gia đ́nh chính là ḷng chung thuỷ của hai vợ chồng. Người ta bảo: "Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn". V́ sự tà dâm của một trong hai người bạn đường mà trong gia đ́nh thường xảy ra những vụ ghen tuông, căi vă, đánh đập có khi đến gây án mạng. Có khi, để trả thù, người ta thường thấy xảy ra cái cảnh "Ông ăn chả, bà ăn nem". Một người chồng để tâm ḍm ngó vợ người th́ chính vợ con họ cũng lăm le vạch rào sang nhà kẻ khác rồi. Họ phá hạnh phúc gia đ́nh người th́ chính hạnh phúc gia đ́nh họ cũng đă tan ră trước. 

Cho nên cấm tà dâm là một điều kiện cần thiết để xây dựng hạnh phúc cho gia đ́nh ḿnh và gia đ́nh người. 

c) Tránh oán thù và quả báo xấu xa: Phật dạy: "Người ôm ḷng ái dục cũng như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, quyết bị nạn cháy tay" (Kinh Tứ Thập Nhị chương). Thật vậy, người ta có tâm xấu xa đắm mê sắc dục, không chóng th́ chầy quyết bị hại: nếu không tan nhà mất nước, th́ cũng găy chân mất mạng bởi mũi súng, ngọn gươm. Xưa nay những kết quả thảm khốc đen tối do sự đắm mê sắc dục gây ra không thiếu ǵ; chúng ta chỉ cần dở những chồng sách lịch sử hay chồng báo hằng ngày, sẽ thấy nhan nhản trong mỗi trang, mỗi đoạn. Trong các sự oán thù, không có sự oán thù nào mănh liệt bằng sự oán thù do sự lừa dối phụ rẫy về t́nh ái gây ra. Các cuộc án mạng xảy ra hằng ngày, phần lớn là kết quả của tà dâm. 

Lợi ích của sự không tà dâm.V́ thế nên sự giữ giới cấm tà dâm sẽ có những lợi ích sau đây: 

a) Về phương diện cá nhân:

Kinh ThậpThiện nói: "Người thế gian không tà hạnh th́ được hưởng bốn điều lợi sau: 

- Sáu căn (tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ư) đều được vẹn toàn. 
- Trọn đời được người kính trọng. 
- Đoạn trừ được hết cả phiền luỵ khuấy nhiễu. 
- Cuộc t́nh duyên trọn đời không ai dám xâm phạm." 

b) Về phương diện đoàn thể:

Trong một xă hội mà ai cũng không tà hạnh, th́ gia đ́nh được yên vui hạnh phúc, những sự thương luân, bại lư sẽ tiêu tan, những cảnh thù hiềm, chém giết sẽ không xảy ra nữa; con cái được mạnh khoẻ, nâng niu, xă hội sẽ cường thịnh. Nói tóm lại, cơi Ta bà ô trọc, đau khổ này sẽ biến thành thế giới thanh tịnh, an vui. 

4. Không được nói sai sự thật: Nói sai sự thật có bốn cách: Nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác. 

a) Nói dối hay nói láo: là không nói thật, chuyện có nói không, chuyện không nói có, việc phải nói trái, việc trái nói phải; điều nghe nói không nghe, điều không nghe nói nghe; hoặc giả trước mặt khen dồi, sau lưng chê mạc; hay là khi ưa th́ nói dịu ngọt thơm tho, khi ghét lại đắng cay chua chát. Tóm lại, ư nghĩ lời nói việc làm trước sau mâu thuẫn, trên dưới khác nhau, trong ngoài bất nhất, đều thuộc về nói dối cả. 

b) Nói thêu dệt: là việc ít xít cho nhiều, làm cho người nghe nổi sân hận; là trau tria lời nói, chuốt ngót giọng hay, lên hơi xuống giọng cho êm tai mát dạ để cám dỗ người nghe, làm cho người say mê đắm nhiễm; cũng có khi là nói biếm, nói bâm, nói châm, nói chích làm cho người nghe phải khổ sở. Tóm lại, bao nhiêu lời nói không đúng nghĩa chân thật, thêm bớt cho đến văn chương phù phiếm, bóng bẩy làm cho kẻ nghe phải loạn tâm, sanh phiền năo, đều gọi là nói thêu dệt cả. 

c) Nói lưỡi hai chiều hay nôm na hơn là nói "đ̣n xóc nhọn hai đầu": nghĩa là đến chỗ này th́ nói hùa với bên này để nói xấu bên kia, đến bên kia th́ nói hùa bên ấy để nói xấu bên này, làm cho bạn bè đang thân nhau trở lại chống nhau, kẻ ân, người nghĩa chống đối, oán thù nhau. 

d) Nói lời hung ác: là nói những tiếng thô tục cộc cằn chửi rủa, làm cho người nghe phải đau khổ, buồn rầu, sợ hăi. 

V́ sao Phật cấm nói sai sự thật? Phật cấm nói sai sự thật v́ những lư do sau đây: 

a) Tôn trọng sự thật: Đạo Phật là Đạo như thật; người tu theo Đạo Phật phải tôn trọng sự thật. Người quen với dối trá, không thiết t́m sự thật th́ khó có thể chứng quả được. Chúng ta đang sống trong vọng tưởng, công việc chính của người tu hành là cố gắng phá tan vọng tưởng ấy để thấy được bản nguyện; nếu không làm được như thế mà trái lại c̣n chồng chất thêm cái vọng tưởng ấy với những sự dối trá lừa phỉnh nữa, th́ thật là trái đạo. 

b) Nuôi dưỡng ḷng từ bi: Cái động lực chính của sự dối trá là ḷng ích kỷ, ác độc, muốn hại người để thỏa ḷng dục vọng đen tối của ḿnh. Người bị lừa dối, phỉnh gạt phải đau khổ v́ ḿnh, có khi phải mắc thù vương oán, có khi phải tán gia bại sản. Người tu hành mà làm như thế là đă tán tận lương tâm, đă bóp chết t́nh thương trong ḷng họ rồi. Một khi ḷng từ bi không có nữa, nghĩa là cái động lực chính đă mất, th́ sự tu hành chỉ c̣n là giả dối, lừa bịp người, và tất nhiên không bao giờ có kết quả tốt. 

c) Bảo tồn sự trung tín trong xă hội: Trong một gia đ́nh, một đoàn thể, một xă hội mà không ai tin ai, th́ mọi công cuộc từ nhỏ đến lớn đều thất bại. Trong đạo Nho, một trong 5 đức tính căn bản là ḷng tin. "Nhân vô tín bất lập", đó là lời dạy của Khổng Tử. Hạnh phúc gia đ́nh và xă hội không thể có được trong sự dối trá. nghi ngờ, đố kỵ. 

d) Tránh nghiệp báo khổ đau: Lời nói tuy không phải là lưỡi kiếm, nhưng nó nguy hiểm hơn lưỡi kiếm, v́ nó có hai mũi nhọn, một mũi đâm vào người khác, một mũi đâm vào chính người sử dụng nó. Ai ai cũng chắc chưa quên câu chuyện thằng bé chăn cừu muốn đánh lừa hàng xóm, bằng cách la "Lửa! Lửa!", nhưng nó chỉ phỉnh người được một lần, lần sau nhà nó cháy thật, mặc dù nó kêu la thảm thiết cũng không ai thèm đến chữa nữa. Đấy, người dối trá chỉ gây họa cho ḿnh. Do đó, Phật dạy: "Phàm kẻ ở đời, lưỡi búa bén nằm sẵn trong miệng, sở dĩ chém ḿnh là do lời nói ác". Đă đành nói ly gián, nói xuyên tạc là để hại người, nhưng khi đă làm hại người th́ thế nào người cũng hại lại ḿnh. "Ác lai ác báo" là thế. Để tránh sự thù hằn, tránh nghiệp dữ, chúng ta không nên dối trá, điêu ngoa. 

Lợi ích của sự không dối trá: 

a) Về phương diện cá nhân: Được người trọng nể, tin cậy, không ai oán hận thù hiềm; đi đâu cũng được người chung quanh dành cho một địa vị thân tín, niềm nở tiếp đón. Trong nghề nghiệp làm ăn, người chân thật được nhiều thân chủ và được giao phó cho nhiều trọng trách quư báu. 

b) Về phương diện đoàn thể: Gia đ́nh và xă hội được đoàn kết trong sự tin cậy. Mọi công cuộc chung được xúc tiến có kết quả tốt. Đồng bào thương yêu, thông cảm nhau hơn. 

Hạn chế: Nói dối là một tai họa lớn lao, cho ḿnh và xă hội. Tuy nhiên, cũng có vài trường hợp nên nói dối. Đó là khi nào v́ ḷng từ bi mà phải nói dối để cứu người hay vật. Nói dối phạm tội là trong trường hợp do ḷng tham, sân làm động cơ thúc đẩy. Ngược lại, nếu do ḷng từ bi thúc đẩy mà phải nói dối, th́ không phạm tội. 

5. Không được uống rượu: Tất cả những thứ có chất men làm say người hay chất độc hại người đều không được uống. Chính ḿnh không uống đă đành, mà cũng không được ép nài người khác uống. Ép nài, khuyến khích người khác uống, tội lại nặng hơn cả chính ḿnh uống nữa. Lúc lâm bệnh nặng, uống các thứ thuốc không lành, lương y bảo phải dùng rượu ḥa vào thuốc, th́ tạm được dùng. Nhưng trước khi dùng phải bạch cho chúng Tăng biết. Khi hết bệnh, không được tiếp tục uống thuốc có ḥa rượu ấy nữa. 

V́ những lư do ǵ Phật cấm uống rượu? - Phật cấm uống rượu v́ những lư do sau đây: 

a) Bảo toàn hạt giống trí tuệ: Rượu c̣n nguy hiểm hơn thuốc độc. Một chén thuốc độc ta uống vào chết ngay, nhưng chỉ chết một thân hiện tại, chứ rượu uống vào, làm mất giống trí tuệ, phải chết đi sống lại vô số kiếp. V́ thế để bảo toàn hạt giống trí tuệ quư báu, Phật cấm uống rượu. 

b) Ngăn ngừa những nguyên nhân sanh ra tội lỗi: Rượu chính nó không phải là một tội lỗi như sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nhưng nó có thể làm nhân cho những tội lỗi kia sanh ra. Khi đă uống rượu vào say sưa th́ tội nào cũng có thể phạm được. Dưới đây là một câu chuyện để chứng minh đ́ều đó: Một anh nông phu kia đang cày ruộng giữa đồng, bỗng thấy hiện ra sừng sững trước mặt ḿnh một hung thần to lớn, kỳ dị, hăm giết anh. Anh kinh sợ, khóc lóc xin tha mạng. Vị hung thần bảo: 

- Nếu ngươi làm một trong ba việc này th́ ta tha chết cho: hoặc là giết cha ngươi, hoặc là đánh mẹ ngươi hay uống hết lít rượu để trên bàn nhà ngươi. 

Anh nông dân suy nghĩ mộ hồi rồi trả lời: 

- Xin Ngài cho con được uống lít rượu. 

Hung thần nghe xong có vẻ hài ḷng rồi biến mất. Trưa hôm ấy, anh nông dân về nhà, thấy lít rượu mà ông thân mua để đăi khách, v́ nhà sắp có giỗ, anh ta vội vàng chụp lấy, nốc cạn một hơi. Cha anh thấy đứa con hỗn láo, nắm gậy xông lại đánh mắng con. Ma men đă thấm, anh ta không c̣n biết phải trái, giật gậy của cha, đánh ông một cây chết ngay! Bà mẹ chạy đến ôm con la làng. Anh ta chưa hả giận, đánh mẹ túi bụi. Xóm làng chạy lại bắt anh dẫn lên quan v́ tội giết cha đánh mẹ. Tỉnh lại anh mới biết uống rượu là tội nặng nhất trong ba điều mà hung thần bắt anh làm. 

Tóm lại rượu gây ra nhiều tội lỗi. Sau đây là 10 tai hại của rượu mà trong Kinh đă nói đến: 1 - Của cải rơi mất; 2 - Tăng trưởng ḷng giết hại; 3 - Trí tuệ kém dần; 4 - Sự nghiệp chẳng thành; 5 - Thân tâm nhiều khổ; 6 - Thân hay tật bệnh; 7 - Tâm sân hận bồng bột, ưa căi lẫy; 8 - Phước đức tiêu ṃn; 9 - Tuổi thọ giảm bớt; 10 - Mạng chung đọa vào địa ngục. 

Lợi Ích Của Sự Cấm Uống rượu 

a) Về phương diện cá nhân: Người không uống rượu th́ tránh được 10 điều hại vừa kể trên. 

b) Về phương diện đoàn thể: Gia đ́nh được yên vui, con cái ít tật bệnh, xă hội được ḥa mục, ṇi giống được hùng cường. 

C. Kết Luận 

1. Phật tử không giữ giới không phải là Phật tử: Chúng ta đă thấy công dụng thiết thực và lợi ích của 5 giới về phương diện cá nhân và đoàn thể. Nếu Tam Quy là nền tảng, th́ ngũ giới là 5 nấc thang của người Phật tử tại gia để bước dần lên Thánh quả. Trong bước đầu, người Phật tử nếu có thể phát nguyện giữ cả năm giới th́ càng tốt; nếu v́ nhiều sự ràng buộc chưa thể giữ được cả năm giới th́ có giữ vài giới mà ḿnh thấy có thể thực hành được, như: Không uống rượu, không nói dối. Rồi với sự tinh tấn và Bồ đề tâm dũng mănh , ta tiếp tục phát nguyện giữ thêm những giới khác như không trộm cắp, không tà dâm... Nhưng đă phát nguyện giữ giới nào th́ giữ cho trung kiên, đừng có một bước tiến tới, hai bước thoái lui, dùng dằng như thế măi th́ không bao giờ đi đến đâu cả. Nếu người Phật tử mà không giữ giới nào th́ sao gọi là Phật tử? Người thường, không theo Phật mà c̣n giữ đúng tư cách như không uống rượu, không nói dối, không trộm cắp, huống hồ là Phật tử? Ta đến với Đạo Phật là muốn vượt lên trên đời tầm thường của thế nhân. Nếu chúng ta vào Đạo rồi mà vẫn tiếp tục cuộc đời trôi nổi cũ, hay c̣n tệ hơn cuộc đời thường của thế nhân th́ đó là chúng ta muốn làm hoen ố Đạo, 

Cho nên người Phật tử phải cố gắng giữ giới để cho xứng đáng với danh nghĩa của ḿnh, để đem hạnh phúc đến cho ḿnh và chúng sanh. 

2. Người không theo Đạo Phật cũng nên giữ giới: Năm giới nói trên không có ǵ là cao siêu, huyền bí. Đó là một bài học công dân thông thường mà bất cứ một xă hội nào, một quốc gia nào muốn phồn thịnh, hùng cường cũng không thể bỏ sót được. Cho nên năm điều luật ấy không phải chỉ để áp dụng riêng cho giới Phật tử, mà c̣n chung cho tất cả những ai muốn sống một cuộc sống lành mạnh, an vui, có lễ nghĩa và tiến bộ. 

Một xă hội mà mọi phần tử đều thực hiện được năm giới cấm ấy, th́ đó là một xă hội gương mẫu, văn minh nhất thế giới.

 

*******************************************************

 Bài Thứ 6  
Sám Hối 

A. Mở Đề 

Chúng ta sống trên đời này không ai là hoàn toàn trong sạch. Phật thường dạy: "Phàm c̣n xuống lên ba cơi, lăn lộn trong sáu đường, th́ không một loài nào được hoàn toàn trong sạch, không một giống nào dứt hết tội lỗi". 

Thật thế, cơi đời này đă được gọi là cơi trần, th́ làm sao trong sạch được? Người ta thường nói "ở bầu th́ tṛn, ở ống th́ dài"; vậy th́ ở trong buị tất phải lấm bụi. Bụi đời đă lâu đời lâu kiếp phủ lên thân, lên đầu chúng ta, vào trong buồng gan, lá phổi của chúng ta. Nó làm cho chúng ta mờ mắt không thấy được đường chánh; nó làm cho chúng ta đục ḷng, không thấy được chân tâm. Nếu chúng ta muốn sống măi trong cảnh bụi nhơ, muốn đắm ḿnh trong tội lỗi, th́ không nói làm ǵ. Nhưng khi chúng ta đă muốn được trong sạch thảnh thơi, muốn trút bỏ tội lỗi cho ḷng được nhẹ nhàng, thư thái, th́ tất nhiên chúng ta phải t́m phương pháp để trừ cho hết buị bặm, tẩy trừ cho hết tội lỗi. Trong Đạo Phật, phương pháp tẩy trừ ấy gọi là sám hối. 

B. Chánh Đề 

I. Định Nghĩa: 

Chữ "Sám", tiếng Phạn gọi là Samma; Tàu dịch là "Hối quả". Kinh nói: "Sám giả sám kỳ tiền khiên, Hối giả hối kỳ hậu quá". Nghĩa là, Sám là ăn năn lỗi trước, c̣n Hối là chừa bỏ lỗi sau. Nếu dùng một chữ Sám hay một chữ Hối không th́ chưa đủ ư nghĩa, nên các Tổ xưa ghép hai chữ lại thành danh từ "Sám hối", dịch theo tiếng Việt là "ăn năn chừa lỗi". Như thế trong chữ Sám hối có hàm nghĩa ăn năn, hối hận v́ những lỗi lầm trong quá khứ, bất luận là lâu mau và bây giờ cho đến về sau, ḿnh nguyện là không tái phạm nữa. Nếu biết lỗi cũ là bậy, bây giờ ḿnh xin chuộc lỗi, mà sau nầy vẫn c̣n làm lại th́ không phải là đúng nghĩa Sám hối trong Đạo Phật. 

II. Các cách Sám Hối:

1. Sám hối sai lầm

Đúng ra chữ Sám hối là danh từ riêng của Đạo Phật. Khi Sám hối mà gọi là sai lầm, th́ không phải là Sám hối nữa rồi. Nhưng để tiện việc diễn đạt, chúng ta hăy tạm dùng hai chữ ấy để nói chung những cách chuộc tội ở thế gian hay trong các đạo ngoài (ngoại đạo). 

Người thế gian, khi có tội lỗi với ông bà, làng nước, thường dùng trầu ruợu, hay heo gà, tiền bạc để tạ tội, xin lỗi. Có khi người ta lại dùng h́nh thức "đoái công chuộc tội", như khi phạm tội với triều đ́nh hay trong quân ngũ chẳng hạn. H́nh thức lấy công chuộc tội cũng có chỗ hay, nhưng chưa hoàn hảo và c̣n thô thiển. Nó chỉ áp dụng để đối phó với bên ngoài, chứ bên trong trường hợp những tội lỗi xảy ra trong nội tâm của chúng ta, những tội lỗi rất vi tế, rất sâu xa th́ khó có thể mà áp dụng được h́nh thức nói trên. 

Trong các ngoại đạo, người ta cũng có dùng nhiều h́nh thức chuộc tội: như có đạo dùng máu thú vật để xin rửa tội với thần linh; có đạo chủ trương xuống tắm ở những sông, suối mà người ta cho là linh thiêng th́ hết tội; có đạo lại đem phẩm vật để xin Thánh Thần xá tội; có đạo lại chủ trương khổ hạnh, ép xác như đánh đập thân ḿnh, nhịn đói khát, chịu nóng rét, nằm gai nếm mật để được giải thoát tội lỗi. Những cách chuộc tội như thế đều sai lầm hết. Tội lỗi thuộc về tâm lư, không có h́nh tướng. Vậy th́ làm sao có thể lấy vật chất như nước, máu huyết, phẩm vật hay xác thân để làm sạch tội được?

2. Sám hối chân chính

Đức Phật dạy rằng tội lỗi do tâm của người tạo ra, không ai có quyền thưởng phạt được. Kẻ gieo giống xấu th́ ăn trái dở, người trồng giống quư th́ hưởng quả ngon. Tội lỗi đă từ tâm tạo th́ cũng phải từ tâm mà sám. Lời nói thật rơ ràng, chí lư, hợp với thực nghiệm. Vậy chúng ta muốn hết tội, phải y theo những pháp Sám hối chân chánh của Đạo phật mà thực hành. Trong Đạo Phật, có 4 pháp sám hối sau đây, có pháp thuộc về sự, có pháp thuộc về lư: 

a) Tác pháp sám hối: Pháp sám hối này thuộc về sự, phải lập giới đàn và thỉnh thanh tịnh Tăng chứng minh, nên gọi là tác pháp. Khi vào giới tràng, ḿnh phải thành thật tỏ bày tội lỗi một cách thành khẩn, chí tâm ăn năn và nguyện về sau không tái phạm nữa. Một ḷng thành kính sám hối như vậy, khi giới thể được thanh tịnh, tức là hết tội. 

b) Thủ tướng sám hối: Pháp nầy thuộc về sự và khó hơn pháp trước. Phật chế pháp này, là sám hối thuộc quán tưởng, cho những người tu hành có tŕnh độ cao, hoặc ở cỗ không có Tăng, hay có nhưng không được thanh tịnh. Muốn tu pháp này, hành giả phải đến trước Tượng Phật hay Bồ tát, thành tâm lễ bái, tŕnh bày những tội lỗi đă phạm, và nguyện ăn năn chừa bỏ. Làm như thế từ 1 ngày, 3 ngày, 7 ngày, 49 ngày, và măi măi đến khi nào thấy được hảo tướng: như thấy hào quang, hoa sen báu, thấy Phật, Bồ tát đến xoa đầu v.v... th́ mới thôi. 

c) Hồng danh sám hối: Pháp sám hối này cũng thuộc về sự, do Ngài Bất Động Pháp Sư đời nhà Tống bên Trung Hoa soạn ra. Ngài rút 53 danh hiệu Phật trong Kinh "Ngũ Thập Tam Phật" tức là từ Đức Phật Phổ Quang cho đến Đức Phật Nhất Thế Pháp Tràng Măn Vương và rút 35 hiệu Phật trong Kinh "Quán Dược Vương, Dược Thượng", với Pháp thân Đức Phật A-Di-Đà, sau thêm vào kệ Phổ Hiền Đại Nguyện thành nghi thức sám hối này, tổng cộng là 108 lạy, để ám chỉ trừ 108 phiền năo. Nghi thức sám hối này, nếu ai chí thành kính lễ, th́ sẽ diệt trừ được những phiền năo và tội lỗi đă tạo, trong đời hiện tại cũng như nhiều đời quá khứ. Đức Phật Tỳ-Bà-Thi nói: "Nếu chúng sanh nào nghe danh hiệu 53 vị Phật này, th́ trăm ngàn ức kiếp không đọa vào ba đường ác". Đức Phật Thích Ca nói: "Thuở xưa, đời Phật Diệu Quang, ta đi tu nhằm đời mạt pháp, nhờ được nghe danh hiệu 53 vị Phật này và thành tâm lễ bái mà tránh khỏi những đau khổ trong đường sanh tử luân hồi nhiều kiếp". C̣n 35 danh hiệu Phật sau, từ Đức Phật Thích Ca cho đến Đức Phật Bửu-Liên-Hoa Thiện-Trụ-Ta-La-Thọ Vương th́ trong Kinh Bưủ-Tích nói: "Nếu tất cả chúng sanh, hoặc phạm tội ngũ nghịch hay thập ác, đến muôn kiếp không thể sám hối, chỉ xưng danh hiệu 35 vị Phật này và lễ bái th́ bao nhiêu tội chướng đều tiêu trừ". 

Hồng danh của Chư Phật có công đức không thể nghĩ bàn như vậy nên Ngài Bất Động Pháp sư mới soạn ra để làm nghi thức sám hối. Pháp hồng danh sám hối hiện nay hầu hết các chùa đều thực hành theo. Về sau Ngài Từ Vân Pháp sư v́ những người yếu đuối hoặc không quen lạy nhiều, nên đă soạn ra một nghi thức sám hối, rất gọn dễ và đầy đủ ư nghĩa, cũng gọi là pháp tiểu sám hối, để cho Phật tử hằng ngày có thể sám hối tội lỗi của ḿnh. 

d) Vô-sanh sám hối: Pháp này thuộc về lư sám hối, rất cao và khó, bậc thượng căn mới có thể thực hành được 

- QUÁN TÂM VÔ SANH: Nghĩa là quan sát tự tâm ḿnh hiện tiền không sanh. Như trong Kinh Kim-Cang nói: "Tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại chẳng có, tâm vị lai cũng không". Quán trong ba thời gian đều không có tâm th́ vọng niệm không từ đâu mà có, nếu vọng niệm không có th́ các tội lỗi cũng không. Kinh nói: "Tội từ nơi tâm sanh mà cũng từ nơi tâm diệt. Nếu tâm này không sanh th́ tội cũng chẳng c̣n, thế mới thật là sám hối". 

- QUÁN PHÁP VÔ SANH: Nghĩa là quan sát thật tướng (chân tánh) của các pháp không sanh. Chữ "thật tướng", nghĩa là cái tướng ấy không sanh không diệt, không hư dối; từ xưa đến nay nó vẫn thường như thế, không bị thời gian thay đổi, hay không gian chuyển dời, suốt xưa thấu nay, nên gọi là thật tướng (Tướng chân thật). Nó cũng có tên là chân như hay chân tâm... Khi nhận được thật tướng rồi th́ các gỉa tướng đều không c̣n. Lúc bấy giờ những tội lỗi (giả tướng) kia không c̣n gá nương vào đâu mà tồn tại. Trong Kinh Quán Phổ Hiền có chép: "Muốn sám hối, phải quán thật tướng của các pháp th́ tội mới hoàn toàn tiêu diệt". 

III. Phát Triển Hạnh Lành mời Để Tiêu Trừ Tội Lỗi Cũ 

Làm lễ sám hối xong , phải phát triển những hạnh lành cho nhiều, để tiêu trừ những tội lỗi cũ. 

1. Luận về tội lỗi thời gian đă qua: Những tội lỗi xưa của chúng ta rất nhiều, có thể nói là vô số. Sự sống của chúng ta tiếp nối liên lạc với nhau từ đời nọ đến đời kia, như một xâu chuỗi dài vô tận. Rồi cứ trong mỗi đời, từ sanh đến tử, từ tử đến sanh, chúng ta cứ tạo thêm tội măi. Từ cái tệ này bắt qua cái dở khác, rồi từ cái lỗi nhỏ đi đến cái tội lớn, cái đà ấy cứ tăng tiến măi tạo thành một sức mạnh gọi là nghiệp lực, dắt dẫn chúng ta vào đường khổ năo, mê lầm, tức là ḍng sanh tử mà chúng ta đang thọ vậy. Trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phổ Hiền Bồ tát có nói: "Nếu tội lỗi chúng sanh có h́nh tướng th́ tất cả hư không cũng không chứa hết". Thật thế, tội lỗi của chúng sanh chất chồng từ muôn vạn kiếp và truyền nối qua thời gian, bỡi di truyền, phong tục, thói quenv.v ... Chẳng hạn như tánh tham, chúng ta mới sanh, nào có ai dạy cho chúng ta đâu, thế mà chúng ta vẫn biết! Cũng không ai bảo chúng ta giận hờn, vậy mà gặp điều ǵ trái ư, là chúng ta cau có, rồi la lối liền. Những tánh xấu ấy có một lần với thân và rất sâu sắc, khó dứt trừ. Trong Kinh gọi chúng nó là "câu sanh phiền năo", hay "bổn hữu chủng tử", nghĩa là những hạt giống có từ lâu. Những hạt giống xấu này lại c̣n làm duyên sanh ra các tội lỗi khác, mà trong Kinh luận gọi là "phân biệt phiền năo" hay "thỉ khởi chủng tử", nghĩa là hạt giống mới nhiễm do ảnh hưởng thời đại, tập quán, phong tục chi phối. "Phân biệt phiền năo th́ có thể dễ trừ, nhưng "câu sanh phiền năo" rất khó trừ. Chúng như cỏ cú, đâm sâu gốc rễ rất xa; nếu người làm vườn khinh thường nó th́ không dễ ǵ dọn đất sạch cỏ. 

Cho nên chúng ta không nên sám hối lấy lệ, lấy có được! Chúng ta phải làm sao cho: 

a) Những tánh xấu kia yếu bớt dần dần, do sức mạnh của ḷng thành khẩn và chí cương quyết; 

b) Rồi dứt tuyệt các tính xấu không cho chúng tái sanh. 

Muốn dứt tuyệt chúng, mà nếu không có phương pháp thích hợp th́ chẳng khác ǵ lấy đá đè cỏ: nó nằm bẹp tạm thời, nhưng khi dời đá đi, nó sẽ mọc lên mạnh mẽ hơn trước. Phương pháp thích hợp trong sự sám hối là: Phát triển hạnh lành, để tiêu trừ tội lỗi cũ. 

2. Phát triển hạnh lành: Trong ḷng mỗi chúng ta không phải toàn chứa đựng những tánh xấu xa. Nếu tánh xấu đă có từ muôn đời th́ tánh tốt cũng đă có từ vô thuỷ. Chúng ta mỗi người đều có Phật tánh là cái mầm của muôn hạnh lành, cái mầm ấy đă bị chôn vùi dưới bao lớp dục vọng, si mê. Bây giờ muốn tiêu trừ dục vọng th́ chúng ta phải tạo điều kiện, cho cái mầm Phật tánh trổ lá, lên hoa, kết trái Bồ đề. Điều kiện làm cho mầm Bồ đề phát triển là những hạnh lành như: Từ bi, Hỉxả, Bố thí, Tŕ giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn v.v... Nếu chúng ta phát triển những tính tốt ấy, tất nhiên những tánh xấu không có đất để mọc lên nữa. 

C. Kết Luận: 

Như chúng ta đă thấy ở các đoạn trên, người thế gian hay các tôn giáo đều có những cách thức ăn năn ngừa lỗi cả. Song, chỉ có pháp sám hối của Đạo Phật mới dứt trừ được tội lỗi, do chỗ lấy sự cải ác, tùng thiện làm cốt yếu. Trong bốn pháp sám hối của Đạo Phật, có pháp về sự, có pháp về lư, có pháp cao, có pháp thấp. Vậy phải tùy theo căn cơ và hoàn cảnh của mỗi người mà áp dụng. Người thượng căn th́ quán pháp vô sanh sám hối. Người không gặp cảnh thuận tiện, không có giới đàn, không gặp cao Tăng th́ dùng pháp thủ tướng sám hối. Người được cảnh thuận tiện có giới đàn thanh tịnh, có cao Tăng Đại đức th́ dùng pháp tác pháp sám hối. C̣n thấy ḿnh tội chướng nặng nề và thấy các pháp trên khó thực hành được th́ cứ mỗi đêm, hay trong những bữa ăn chay và ngày sóc vọng, tuỳ tiện đến chùa hay ở nhà chí tâm lạy Hồng Danh sám hối hoặc tiểu sám hối cũng tốt. 

Trong các pháp sám hối của Đạo Phật, mặc dù có lạy, có quỳ, có lễ bái nhưng không phải để cầu cạnh, van xin được tha tội đâu. Trong cái lạy, cái quỳ ấy, có chứa không biết bao nhiêu ư nghĩa và ích lợi. Vẫn biết lạy và quỳ, nhất là trong pháp Hồng danh sám hối, thật là hao hơi, mệt xác nhưng trong cái mệt xác thân, có cái vui tinh thần, trong cái sự tướng bên ngoài có hàm cái ư nghĩa bên trong. Thật vậy, tuy có lạy nhiều, niệm lâu, nhưng vẫn không ra ngoài những mục đích sau: 

1. T́m cách thiết thực làm cho tâm tánh con người được trong sạch, hết sự lỗi lầm ở trong đời hiện tại mà cũng tiêu trừ những tội ác trong những đời quá khứ

2. T́m cách phát triển những hạnh cao cả, noi theo những gương mẫu sáng suốt của các bậc Thánh hiền

Tóm lại, các pháp sám hối của Đạo Phật, nếu thực hành một cách đứng đắn, sẽ đem lại những kết quả quí báu sau đây: 

- Làm phát triển ḷng thành thật

- Trau dồi đức tánh cương quyết trong sự diệt trừ tánh xấu

- Dứt được tội, sanh phước

- Mau thắng đến chỗ giải thoát an vui

Nhờ pháp sám hối của Đạo Phật, con người có thể cải hóa ḷng ḿnh tốt đệp hơn. Nhờ pháp sám hối, con người có thể làm cho đời sống cá nhân được hạnh phúc và đời sống xă hội được ḥa b́nh, an lạc. 

Vậy ai là người muốn hết tội lỗi; ai là người muốn giải thoát sanh tử luân hồi; ai là người yêu chuộng chân lư, hăy cùng nhau nghiên cứu và thực hành các pháp sám hối của Đạo Phật cho kỹ lưỡng để trước là cải thiện đời sống cá nhân, sau là đời sống của giống hữu t́nh được bớt đau khổ và thêm an vui. 

 

*******************************************************

Bài Thứ 7  

Thờ Phật, Lạy Phật, Cúng Phật 

A. Mở Đề 

Xưa nay, những bậc có công ơn lớn đối với Quốc gia, xă hội đều được tôn sùng, ngưỡng mộ. Sự tôn sùng, ngưỡng mộ này do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chính là ḷng tri ân và sự mong muốn được noi theo gương sáng. Tục ngữ có câu: "Ăn trái phải nhớ kẻ trồng cây, uống nước phải nhớ người đào giếng". Ḷng tri ân là một đức tính quí báu mà những người có chút công bằng không thể thiếu được. Một xă hội gồm những phần tử phi ân bội nghĩa, ăn cháo đá bát, không có thể tồn tại được lâu dài v́ nó làm chán nản những kẻ có ḷng và làm khô cạn nguồn hy sinh. Vả lại, nếu con người thấy điều tốt, người hiền mà chẳng hâm mộ, thấy điều xấu, người ác mà không tránh xa th́ con người ấy là người thiếu căn bản đạo đức, thiếu mầm thiện, khó có thể tiến bộ. V́ những lư do trên, ta thấy trên thế giới, bất luận ở phương trời nào, dân tộc nào, thời đại nào, hễ kẻ có công với làng xóm th́ được làng xóm tôn thờ, kẻ có công với quốc gia, dân tộc th́ được quốc gia, dân tộc tôn thờ, kẻ có công đức với nhân loại th́ được nhân loại sùng thượng. 

Sự thờ cúng trong các tôn giáo cũng không ra ngoài những lư do đă kể trên. Nhưng ở các tôn giáo, sự thờ cúng có tính cách thường trực và thiết tha hơn, v́ các vị Giáo chủ là những bậc có công ơn lớn đối với nhân loại và là những gương sáng mà tín đồ cần đặt luôn luôn ở trước mắt để soi sáng đời ḿnh. Trong các vị Giáo chủ th́ Đức Phật là Vị được nhiều tín đồ sùng mộ nhất. Sự sùng mộ ở đây biểu hiện trong sự thờ, lạy và cúng Phật. 

B. Chánh Đề 

I. Thờ Phật 

1) Phật là bậc đáng tôn thờ: Phật là những bậc đă dày công tu luyện phước đức và trí tuệ, cho nên đă được hoàn toàn sáng suốt và có đầy đủ đức hạnh cao quư. Các Ngài đă dùng đức và trí ấy để dẫn dắt chúng sanh ra ngoài biển khổ luân hồi và đưa đến địa vị sáng suốt an vui. Trong công việc độ sanh ấy, các Ngài lại không bao giờ thối chuyển ngă ḷng mặc dù gặp trở lực khó khăn. Các Ngài đă nguyện độ cho toàn thể chúng sanh, cho đến khi nào không c̣n một chúng sanh nào để độ nữa mới thôi. Thật là đúng với câu: "Tự giác, giác tha, giác hạnh viên măn". Một bậc có đủ ba đức tính quư báu là Bi, Trí, Dũng, ba đức tính căn bản mà một con người muốn được toàn thiện, toàn mỹ, toàn chân, không thể thiếu được. Một bậc siêu phàm xuất chúng, có những lời dạy quư báu, những cử chỉ cao thượng, những hành động sáng suốt, một đời sống gương mẫu như Phật, mà chúng ta không tôn thờ th́ c̣n tôn thờ ai nữa? 

2) Nhưng chúng ta phải thờ Phật như thế nào mới đúng ư nghĩa? Như trên đă nói, chúng ta thờ Phật là để tỏ ḷng tri ân của chúng ta đối với một Vị đă có ân đức lớn với nhân loại. Chúng ta thờ Phật là để có luôn luôn ở trước mặt một gương mẫu sáng suốt trọn lành để khuôn rập tư tưởng, lời nói và hành động của chúng ta được chân, thiện, mỹ như Phật vậy. Người ta thường nói: "Gần mực th́ đen, gần đèn th́ sáng". Chúng ta thờ Phật là muốn luôn luôn được có bên ḿnh ngọn đèn trí tuệ của Ngài, cái hương từ bi của Ngài, để được sáng lây, thơm lây, chứ không phải chúng ta có mục đích cầu cạnh Ngài để Ngài ban phước, trừ họa, để Ngài che chở cho chúng ta mua may bán đắt một cách bất lương, hay để chúng ta dựa vào thế lực của Ngài, tha hồ làm những điều bất chính. Nếu chúng ta thờ Ngài với mục đích sai lạc như vừa nói ở trên th́ không những chúng ta đă phỉ bán Đức Phật, mà chúng ta c̣n tự tạo tư tưởng không tốt cho chúng ta nữa. 

3) Phải thờ Đức Phật nào? Đức Phật nào cũng có nghĩa vô lượng quang, vô lượng thọ bao la cùng khắp và công đức tu hành phước trí vô lượng vô biên cả; nên hễ thờ một Đức Phật là thờ tất cả các Đức Phật. Nhưng chúng ta cũng nên tuỳ theo thời kỳ giáo hóa của mỗi Đức Phật và pháp môn tu hành mà thờ cho xứng lư, hợp cơ. Thí dụ như hiện nay, chúng ta ở vào thời kỳ giáo hóa của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni th́ lẽ cố nhiên, chúng ta phải thờ Ngài trước hết. Nếu tín đồ nào tu về "Tịnh Độ Tông", chuyên về pháp môn "Tŕ danh niệm Phật" để cầu văng sanh th́ tín đồ ấy phải thờ Đức Phật A-Di-Đà. Hoặc giả, nếu Phật tử muốn thờ tất cả Phật trong ba đời th́ nên thờ Đức Phật Thích Ca, Đức A-Di-Đà và Đức Di-Lặc, gọi là thờ "Tam Thế Phật". 

4) Cách thức thờ Phật: Như vậy trong nhà tín đồ, nếu muốn thờ tượng Phật th́ nhiều nhất là ba Vị. Và nên nhớ rằng, trong khi thờ Tam Thế Phật, phải sắp đặt chung một bàn. Nếu tượng lồng kiếng th́ nên treo ngay thẳng, không được cái cao, cái thấp, cũng không được cái to, cái bé; c̣n như tượng gỗ, tượng đồng tượng sành th́ để ngang hàng đồng bực, không nên để tầng trên, cấp dưới. Bàn thờ Phật phải đặt chính giữa nhà, bàn thờ ông bà ở phía dưới hoặc sau đúng câu: "Tiền Phật hậu Linh, hay Thượng Phật hạ Linh". Nếu nhà lầu th́ thờ Phật ở tầng trên. Tại bàn thờ Phật không nên để tạp vật nào khác, ngoài b́nh bông, lư hương, chân đèn và dĩa quả. Những vật này mỗi ngày đều chăm sóc lau quét sạch sẽ luôn. Lần đầu tiên thỉnh Tượng Phật, tín đồ phải làm lễ thượng tượng, cũng gọi là lễ an vị Phật. Lễ này không bắt buộc phải tổ chức linh đ́nh, chỉ nên làm một cách đơn giản, nhưng không kém vẻ trang nghiêm và tinh khiết. Muốn được hai đặc diểm ấy, chủ nhà phải dọn ḿnh sạch sẽ: ăn chay, giữ giới và mời thêm thiện hữu trí thức đến hộ niệm một thời kinh. Và bắt đầu từ ngày làm lễ an vị Phật trở đi, tất cả mọi người trong nhà, mỗi ngày ra vô trông thấy tượng Phật, nên nghĩ nhớ đến đức hạnh cao cả của Ngài mà chỉnh đốn lại thân tâm ḿnh. Mỗi ngày đều lo cải thiện lại sự cư xử với nhau, đối nội cũng như đối ngoại, phải luôn luôn thấm nhuần tinh thần từ bi, bác ái và b́nh đẳng. Như thế mới xứng đánh với danh nghĩa của một gia đ́nh có thờ Phật. Thờ phụng lâu năm, tượng Phật bi hư rách, không thể sơn phết hay sửa chữa lại được th́ nên thay đổi tượng mới. Khi có tượng mới rồi th́ tượng cũ phải dâng vào chùa chờ dịp nhập tháp, chớ không nên bạ đâu bỏ đó mà mang tội. 

II. Lạy Phật 

1) Ư nghĩa lạy Phật: Ngày xưa, khi Đức Phật c̣n tại thế, các đệ tử từ vua quan đến dân chúng, mỗi lần được may mắn gặp Đức Phật Thích Ca, đều cúi xuống ôm chân Phật và đặt trán ḿnh lên chân Ngài để tỏ ḷng ngưỡng mộ, tôn thờ một bậc tối thượng: Bi, trí siêu phàm. Cử chỉ ấy là một cử chỉ vô cùng khiêm tốn, nhu thuận và hoàn toàn tin cậy đối với Đức Phật. Sau khi Phật nhập diệt, toàn thể tín đồ vẫn xem Ngài như c̣n tại thế và cái cử chỉ cúi xuống ôm chân Phật vẫn c̣n tiếp nối tồn tại cho đến ngày nay và muôn ngàn năm sau. Cái cử chỉ ấy chỉ có cái công dụng làm cho tín đồ bao giờ cũng h́nh dung như Đức Phật c̣n ngồi trước mặt ḿnh để chứng giám cho tấm ḷng thành kính, thiết tha của ḿnh. 

2) Phải lạy Phật như thế nào mới đúng ư nghĩa? Để cho đúng với ư nghĩa trên, khi lạy Phật phải quỳ xuống, ngửa hai bàn tay ra như đang nâng hai chân Phật và cúi lưng xuống đặt trán ḿnh trên hai ḷng bàn tay. Trước khi lạy Phật, phải dọn ḿnh cho sạch sẽ: rửa mặt, súc miệng, lau tay chân, thay y phục và mặc áo tràng. Xong xuôi, mới đốt hương ra trước bàn Phật, đứng ngay thẳng, tay chắp để trước ngực, mắt nh́n tượng Phật, tâm tưởng đến các tướng tốt và những đức hạnh cao cả của Ngài và tỏ bày nguyện vọng chân chánh của ḿnh, xá rồi cắm hương vào lư, đánh tiêng chuông và lạy Phật ba lạy. Lễ Phật như thế mới đúng pháp; trong kinh gọi là "thân tâm cung kính lễ", nghĩa là thân th́ hăng hái tề chỉnh, nghiêm trang, tâm th́ hớn hở vui mừng và hết ḷng thành kính như gặp được Phật c̣n tại thế. Trái lại, chúng ta lễ Phật với ḷng ngă mạn (ngă mạn lễ), hay với tâm cầu danh (cầu danh lễ) th́ đă không có kết quả ǵ, mà c̣n mang thêm tội. 

Ngă mạn lễ là khi lạy Phật mà trong tâm c̣n ngạo nghễ, kiêu căng, năm vóc (đầu, hai tay, hai chân) không sát đất, đứng lên cuối xuống một cách cẩu thả, qua loa cho có chuyện. Cầu danh lễ là khi thấy có đông người th́ miệng liền to tiếng dài hơi xưng danh hiệu Phật, thân lại siêng năng lạy không ngừng nghỉ, có ư để cho mọi người khen ngợi. Trái lại khi không có người th́ thân lại biếng nhác, tâm lại giải đăi, không muốn lễ bái ǵ cả. Hai cách lễ ái trên đây rất giả dối, vậy những ai muốn tiến trên đường Đạo th́ phải nên tránh ngay. 

3) Bốn phép lạy (thuộc về lư): Về phương diện lư th́ có bốn phép lễ. 

a) Phát trí thanh tịnh lễ: Trong phép này, người hành lễ phải thấu suốt rằng cảnh giới của Chư Phật đều tùy tâm hiện bày, nên lạy một Đức Phật, tức là lạy tất cả Chư Phật, lạy một lạy, tức là lạy tất cả Pháp giới v́ Pháp thân của Phật dung thông. 

b) Biến nhập pháp giới lễ: Trong pháp này, người hành lễ phải tự quán thân, tâm cùng tất cả các pháp, từ hồi nào đến giờ đều không rời pháp giới. 

c) Chánh quán lễ: Trong pháp này, người hành lễ lạy Đức Phật ngay nơi tự tâm của ḿnh, chứ không duyên với Đức Phật nào khác, v́ tất cả chúng sanh từ xưa đến nay, đều sẵn có Phật tánh viên măn, b́nh đẳng và chân giác. 

d) Thật tướng b́nh đẳng lễ: Trong pháp lễ này, người hành lễ không thấy có tự, có tha; người và ḿnh là một, phàm và Thánh nhất như, thế và dụng không hai. Do đó, Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát có nói: "Năng lễ, sở lễ tánh không tịch", nghĩa là người 
lạy và đấng ḿnh lạy, thể tánh đều vẳng lặng. Như thế mới thấu đáo và hợp lư Bát Nhă. 

Bốn phép lễ này, lư cao khó nghĩ bàn, nếu chẳng phải bậc thượng căn, thượng trí th́ không thấu nổi và khó làm theo được. 

III. Cúng Phật

Cúng Phật là nói tắt, nói cho đủ nghĩa là cúng dường Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Cúng dường có nghĩa là cung cấp và nuôi dưỡng. 

1. Ư nghĩa về cúng Phật: Có người sẽ hỏi: Tại sao Đức Phật đă là bất sanh, bất diệt mà lại c̣n phải cúng dường? Thật ra, Đức Phật đă thoát ra ngoài ṿng sanh tử th́ đâu c̣n hạn cuộc trong sự ăn uống. Nhưng đây chỉ là một h́nh thức để ngụ ư rằng, mặc dầu Phật đă nhập diệt lâu rồi, nhưng đối với chúng ta, bao giờ cũng xem như Ngài c̣n tại thế. Xưa, các đệ tử, các đàn na thí chủ đă cúng dường Ngài như thế nào, nay chúng ta vẫn tiếp tục cái cử chỉ ấy. Sự cúng dường này làm cho chúng ta gần với Phật, có cảm tưởng như bao giờ cũng ở bên cạnh Phật. Cũng nhân sự thờ phụng, lễ bái cúng dường này mà chúng ta được kết duyên lành với Phật, h́nh dung rơ rệt cuộc đời của Ngài để quyết noi theo bước chân của Ngài. 

2. Phải cúng Phật với những ǵ? (Về sự): Vẫn biết rằng chúng ta nên cúng dường Phật để h́nh dung như Ngài c̣n tại thế, nhưng nếu chúng ta, mỗi khi cúng Phật, lại bày biện đủ thức ăn uống, nào yến tiệc cỗ bàn linh đ́nh th́ thật là phí của, phí công mà lại c̣n làm sai lạc ư nghĩa sâu xa của sự cúng Phật. Vậy muốn cúng Phật đúng ư nghĩa th́ chỉ nên dùng hương thơm, đèn sáng, hoa tươi, trái tốt, nước trong và đôi khi thêm cơm trắng là đủ. 

3. Năm món diệu hương để cúng Phật: Đoạn trên là nói về Sự, về h́nh tướng bên ngoài để cúng Phật. C̣n về phương diện Lư th́ phải dùng năm món diệu hương để cúng Phật như sau: 

a) Giới hương: Pháp thân của Phật rất thanh tịnh, nếu về mặt Sự, chúng ta đă dùng hương trầm đốt cúng th́ về mặt Lư, chúng ta cũng phải tŕ giới cho trang nghiêm thanh tịnh, để cúng dường được đủ cả về Sự và Lư. 

b) Định hương: Thân tâm chúng ta bị mê nhiễm và thường loạn động trong mọi hoàn cảnh. Nếu để buông trôi măi trong t́nh trạng ấy th́ chúng ta chẳng tu hành ǵ được. Vậy hằng ngày, hằng giờ, hằng phút, hằng giây, hằng sát na chúng ta phải cố gắng tập định tĩnh tâm hồn, đừng để cho những ư nghĩ, hành động xấu xa xâm chiếm tâm hồn và làm cho chúng ta phải loạn động. Làm cho tâm tư lắng xuống, như thế là dùng Định hương cúng Phật. 

c) Huệ hương: Huệ hương cúng Phật là lúc nào cũng phải lưu tâm vào ba món sáng tỏ: Văn huệ, Tư huệ và Tu huệ. Văn huệ là lắng nghe lời giáo hóa quư báu của Chư Phật và Thánh Hiền Tăng; Tư huệ là đem những lời quư báu nói trên ra suy xét, nghiền ngẫm, biết thế nào là phải, thế nào là quấy, cái nào là chân thật, cái nào là luống dối để khỏi lầm lạc vào đường tà; Tu huệ là quyết tâm thực hành những điều ḿnh cho là phải, trừ bỏ những điều ḿnh cho là trái, thực hiên đúng đắn giáo lư sáng suốt của Đức Phật. 

d) Giải thoát hương: Giải thoát hương cúng Phật là quyết tâm phá trừ ngă chấp, nguồn gốc của bao sự đau khổ luân hồi. Chúng ta phải luôn luôn quán vô ngă, không nhận chiếc thân tứ đại này là ḿnh, cũng không nh́n cái nghiệp thức phân biệt là ḿnh, để được thoát ly ra ngoài ṿng sanh tử luân hồi. 

e) Giải thoát tri kiến hương: Chúng ta đă biết quán vô ngă, để phá trừ ngă chấp th́ được giải thoát, song vẫn c̣n "Pháp chấp" ràng buộc, nên chưa đến được cảnh giới tự tại, vô ngại như Phật. C̣n Pháp chấp nghĩa là c̣n thấy các pháp như: đất, nước, gió, lửa là có thật; c̣n thấy vui buồn sướng khổ là có thật. Khi nào chúng ta thể nhận được rằng tứ đại sở dĩ in tuồng có thật là v́ chúng ta c̣n ở trong nghiệp người, chớ đối với các loài khác, như cá chẳng hạn th́ nước đâu phải là nước như chúng ta quan niệm, mà chính là lâu đài, nhà cửa; đối với loài mọt th́ gỗ đâu phải như chúng ta quan niệm, mà là những thức ăn và nhà ở. Cho đến vui, buồn, sướng, khổ đều là đối đăi với nhau mà sanh ra. Vậy th́ Pháp cũng như Ngă, đều là giả dối, không có thật, mà chỉ là những danh từ suông mà thôi. Luôn luôn, quán như thế, để được giải thoát ra khỏi sự chấp Pháp, như thế gọi là "Giải thoát tri kiến hương" cúng Phật. 

4. Cúng dường Pháp bảo: Pháp bảo là các Pháp của Phật đă giảng dạy, để cho chúng sanh y theo đó mà tu hành. Muốn cúng dường Pháp bảo, trước hết chúng ta phải học Kinh, Luật, Luận và nghiên cứu giáo lư để nhận định thế nào là Pháp bảo, là chánh giáo. Nếu chúng ta có học thực rộng th́ phải nghĩ đến việc phiên dịch các Kinh điển Ngoại ngữ ra Việt ngữ để hoàn thành một bộ Tam Tạng Việt Nam, chúng ta có thể giúp vào việc hoằng pháp lợi sanh bằng sự diễn giảng hay sáng tác những vấn đề có liên quan đến Phật pháp. Nếu chúng ta có tài chánh th́ nên xuất tiền ra ấn tống hay xuất bản Kinh điển để phổ thông Pháp bảo. Những việc làm như trên đều là cúng đường Pháp bảo cả. 

5. Cúng dường Tăng bảo: Nếu chúng ta đă thành tâm thờ cúng Phật th́ tất nhiên chúng ta phải kính trọng Tăng. Chư Tăng đă thay Phật mà truyền giáo lư của Ngài lại cho chúng ta, lẽ nào chúng ta lại làm ngơ không biết đến? Chúng ta không nên phân biệt Tăng ở xứ nào, chùa nào hay phái nào. Vị Tăng nào có đủ giới đức chúng ta cũng sẵn sàng cung phụng cả, như thế gọi là cúng dường Tăng bảo. 

C. Kết Luận: 

1. Lợi ích của sự thờ lạy và cúng Phật. Như các đoạn trên đă nói, chúng ta thờ lạy và cúng Phật là do ḷng tri ân sâu xa của chúng ta đối với bậc đă hy sinh tất cả hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng sanh; Lư do thứ hai của sự thờ lạy và cúng, ấy là để cho chúng ta luôn luôn có trước mắt, trên đầu chúng ta, một cái gương mẫu hoàn toàn chân, thiện, mỹ để noi theo. Sự thờ lạy và cúng Phật, nếu thực hành một cách thành tâm, thiện chí và đúng ư nghĩa th́ sẽ đem lại cho người rất nhiều lợi ích trong hiện tại và vị lai: 

a) Trong hiện tại: mỗi chúng ta và gia đ́nh chúng ta, bao giờ cũng như sống trong bầu không khí xán lạn, trong ảnh hưởng tốt lành, đạo vị của Chư Phật. Chúng ta luôn luôn sống trong nghiêm chỉnh, trong lễ nghi, trên thuận dưới ḥa, v́ mỗi ư nghĩ, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói của chúng ta đều được đôi mắt sáng suốt của Đức Phật soi xuống. Chúng ta không dám sống bừa băi, làm xằng, nghĩ quấy khi Đức Phật đang ngự trị trong gia đ́nh và trong ḷng mỗi chúng ta. Chỉ những tâm hồn trống rỗng, không tin tưởng, không tôn thờ một vị thiêng liêng cao cả nào, mới dễ sa ngă, trụy lạc. Cho nên trong gia đ́nh, nếu muốn có hạnh phúc trong hiện tại, muốn sống một đời sống có ư nghĩa, muốn con em đừng bê tha, trụy lạc th́ người gia chủ nên thiết bàn Phật, để ngày ngày lễ bái và cúng dường Ngài và tập cho con em sống một đời sống hiền lương và có đạo vị. 

b) Khi lâm chung: Nghiệp lành mà chúng ta đă huân tập trong hằng ngày sẽ cảm ứng đến ḷng từ bi vô hạn của Chư Phật và Bồ tát. Do "Luật đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu", Chư Phật và Bồ tát sẽ phóng quang đến tiếp dẫn giác linh chúng ta về cơi Tịnh độ an vui, tự tại. 

2. Khuyên phát tâm chánh tín trong sự thờ, lạy và cúng Phật, Pháp, Tăng. Muốn có được kết qủa tốt đẹp như trên, chúng ta phải phát tâm chánh tín. Nếu thờ, lạy và cúng dường Tam bảo một cách sai lạc th́ không những không ích lợi ǵ cho ta mà lại c̣n mang thêm tội và trôi lăn măi trong cảnh sanh tử luân hồi. Chúng ta phải tin tưởng một cách mạnh mẽ rằng: 

a) Đức Phật là bậc hoàn toàn giác ngộ, siêu sanh, thoát tử, có năng lực độ thoát chúng sanh khỏi nẻo luân hồi và xứng đáng làm Thầy chúng sanh trong ba cơi. V́ thế nên chúng ta thờ Ngài. 

b) Phật pháp là phương thuốc thần diệu, trừ được tất cả nguyên nhân đau khổ của chúng sanh; v́ thế cho nên chúng ta thờ Phật pháp. 

c) Chư Tăng, nếu có đủ giới hạnh thanh tịnh, là những Thầy sáng, bạn lành của chúng ta. V́ thế, chúng ta kính thờ, thân cận các Ngài để học hỏi đường lối tu hành. 

d) Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh sáng suốt, nếu chí tâm tu tập theo Phật pháp th́ chắc chắn sẽ thành Phật. 

e) Lư nhân quả không hề sai chạy, nếu tạo nhân lành th́ hưởng quả tốt. Trong các nhân lành, không có nhân lành nào thù thắng hơn là nhân "Thờ Phật, lạy Phật và cúng dường Tam Bảo", đủ cả sự và lư. Vẫn biết thờ, lạy và cúng phật đủ cả hai phương diện sự và lư là khó, nhưng chung quanh chúng ta, ở trong thế giới này sẵn có vô lượng vô biên kim cương Bồ tát và Hộ pháp thần vương, đồng phát tâm giúp đỡ, hộ niệm cho tất cả những người phát tâm chánh tín thờ cúng Phật th́ lo ǵ công của chúng ta không tṛn, quả của chúng ta không măn?

 

*******************************************************

Bài Thứ 8  
Tụng Kinh, Tŕ Chú, Niệm Phật 
 

A. Mở đề 

Người Phật tử, nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật, th́ cũng chưa có thể gọi là thuần thành. Người Phật tử thuần thành c̣n phải tụng kinh, tŕ chú và niệm Phật. Vả lại nếu bỏ qua ba phần sau này, th́ ba phần trước là thờ, lạy và cúng khó có thể viên dung cả Sự và Lư được. V́ phần Lư là phần cao siêu khó thực hành, mà nếu chúng ta không tụng kinh, niệm Phật để cho tâm hồn được sáng suốt, tỏ ngộ các lư lẽ sâu xa huyền diệu trong kinh đ́ển, th́ chúng ta không làm thế nào để đạt được 4 phép lạy thuộc về Lư là: Phát trí thanh tịnh lễ, biến nhập pháp giới lễ, chánh quán lễ, thật tướng b́nh đẳng lễ và 5 món diệu hương để cúng Phật là: Giới hương, Định hương, Huệ hương, Giải thoát hương, Giải thoát tri kiến hương. Và nếu không thực hành được 4 phép lạy về Lư và cúng dường được 5 món diệu hương, th́ sự lạy và cúng chỉ là phần "Sự" là phần h́nh thức và v́ thế, kẻ tín đồ khó có thể tiến được trên đường Đạo. Bỡi vậy, cùng một lần với thờ, lạy và cúng Phật, chúng ta phải tụng kinh, tŕ chú và niệm Phật. Đó là những điểm căn bản tối thiểu mà một Phật tử thuần thành không thể bỏ qua được. 

B. Chánh Đề 

I. Định Nghĩa 

1) Tụng kinh: Tụng là đọc thành tiếng một cách có âm điệu và thành kính. Tụng kinh là đọc một cách thành kính những lời Đức Phật đă dạy trong kinh điển, hợp với chân lư và căn cơ của chúng sanh. 

2) Tŕ chú: Tŕ là nắm giữ một cách chắc chắn. Chú là lời bí mật của Chư Phật mà chỉ có Chư Phật mới hiểu được, chứ các hàng Bồ tát cũng không hiểu thấu. Các bài chú đều có oai thần và công đức không thể nghĩ bàn, dứt trừ được nghiệp chướng, tiêu tai giải nạn và tăng trưởng phước huệ, nên cũng gọi là thần chú. 

3) Niệm Phật: Niệm là tưởng nhớ. Niệm Phật là tưởng nhớ danh hiệu Phật, h́nh dung 
Phật và đức hạnh của Phật, để luôn luôn cố gắng noi theo bước chân Ngài. 

II. Lư Do Phải Tụng Kinh - Tŕ Chú - Niệm Phật 

1) V́ sao phải tụng kinh? Chúng ta sống trong cơi dục, cho nên ḷng dục vọng của chúng ta không bao giờ ngừng nghỉ, cho đến trong giấc ngủ, cũng c̣n chiêm bao căi lẩy, cười khóc, vui buồn như lúc thức. Trong cảnh mê mờ đầy dục vọng ấy, may thay, Đức Phật v́ đă thương xót chúng sanh mà truyền dạy những lời vàng ngọc, có thể phá tan màng mây u ám của vô minh và tội lỗi. Nhưng những lời lẽ cao siêu ấy, chúng ta nghe qua một lần , hai lần cũng không thể hiểu thấu và nhớ hết được. Cho nên chúng ta cần phải đọc đi đọc lại măi, để cho lư nghĩa thâm huyền được tỏa ra, và ghi khắc trong thâm tâm chúng ta, không bao giờ quên được. Đó là lư do khiến chúng ta phải tụng kinh. 

2) V́ sao phải tŕ chú? Chú có công năng phi thường, nếu người thành tâm tŕ chú th́ được nhiều hiệu lực không thể tưởng tượng. Chẳng hạn thần chú "Bạc nhất thế nghiệp chướng căn bổn đắc sinh Tịnh độ Đà la ni" có hiệu lực tiêu trừ được hết gốc 
rễ nghiệp chướng, làm cho người được văng sanh về Tịnh độ. Thần chú "Tiêu tai kiết tường" có hiệu lực làm cho tiêu trừ các hoạn nạn, tai chướng, được gặp những điều lành. Thần chú "Lăng Nghiêm" th́ phá trừ được những ma chướng và nghiệp báo nặng nề v.v... Thần chú "Chuẩn Đề" trừ tà, diệt quỷ. Thần chú "Thất Phật diệt tội" có công năng tiêu trừ tội chướng của chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp v.v... V́ thế nên chúng ta phải tŕ chú. 

3) V́ sao phải niệm Phật? Tâm chúng ta bị vô minh làm mờ đục, chẳng khác ǵ nước bị bùn nhơ làm ngầu đục. Muốn cho nước đục kia hóa ra trong, không có phương pháp nào hay hơn là gia một chút phèn vào, th́ các chất dơ bẩn ngầu đục kia dần dần lắng xuống, bấy giờ nước đục trở nên trong sạch. Phương pháp niệm Phật cũng vậy, có công năng trừ phá các vọng niệm đen tối ở nơi tâm của chúng ta, làm cho tâm mê muội, mờ ám trở nên sáng suốt, chẳng khác ǵ chất phèn làm cho nước trở nên trong vậy. 

V́ sao niệm Phật lại làm cho tâm mê muội trở nên trong sáng ? V́ lư do rất dễ hiểu sau đây: 

Tâm chúng ta rất điên đảo, không bao giờ dừng nghỉ. Kinh thường nói: "Tâm viên, ư mă", nghĩa là "tâm" lăng xăng như con vượn nhảy từ cành này qua cành khác, và "ư" như con ngựa chạy lung tung luôn ngày suốt buổi. Làm sao cho tâm ư chúng ta đừng nghĩ xằng bậy? Chỉ có một cách là bắt nó nghĩ những điều tốt lành, hay đẹp. Niệm Phật chính là nhớ nghĩ đến những Vị hoàn toàn tốt đẹp, những hành động trong sáng, những đức tánh thuần lương. Càng niệm Phật nhiều chừng nào th́ ít niệm ma chừng ấy. Ma ở đây là tất cả những ǵ xấu xa đen tối, làm hại ḿnh hại người. V́ thế chúng ta nên luôn luôn niệm Phật. 

III. Phải Thường Tụng Những Bộ kinh Nào, Tŕ Chú Ǵ Và Niệm Danh Hiệu Phật Nào ? 

1. Các kinh thường tụng: Phàm là kinh Phật th́ bộ nào tụng cũng được cả, v́ kinh nào cũng có công năng thù thắng là phá trừ mê mờ, khai mở tâm trí sáng suốt cho chúng sanh, nếu chúng ta chí thành đọc tụng. Nhưng v́ căn cơ của chúng ta không đến, nên chúng ta phải lựa những bộ kinh nào thích hợp với căn cơ và sở nguyện của chúng ta mà đọc tụng. 

Thông thường, các Phật tử Việt Nam, từ xuất gia cho đến tại gia đều tŕ tụng những kinh như: Di-Đà, Hồng Danh, Vu-Lan, Phổ Môn, Dược Sư, Địa Tạng, Kim Cang, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa v.v... 

Nhiều người có quan niệm, chọn bộ kinh cho thích hợp với mỗi hoàn cảnh, mỗi trường hợp để tụng, như: Lúc cầu siêu th́ tụng kinh Di-Đà, Địa Tạng, Vu Lan v.v...; Cầu an th́ tụng kinh Phổ Môn, Dược Sư v.v...; Cầu tiêu tai giải bệnh th́ tụng kinh Kim-Cang, Lăng-Nghiêm v.v...; Cầu sám hối th́ tụng kinh Hồng-Danh. 

Cái quan niệm lựa chọn như thế cũng có phần hay là làm cho tâm chuyên nhất sẽ được hiệu nghiệm hơn. Nhưng chúng ta không nên quên rằng về mặt giáo lư cũng như về mặt công đức, bất luận một bộ kinh nào, nếu chí tâm tŕ tụng, th́ kết quả cũng đều mỹ măn như nhau cả. 

2. Các chú thường tŕ: Ở chùa, chư Tăng hằng ngày, trong thời khóa trụng khuya, tŕ chú Lăng Nghiêm, Đại Bi, Thập chú hay Ngũ Bộ chú v.v... c̣n ở nhà, phần nhiều cư sĩ tŕ chú Đại Bi và Thập chú, bởi hai lẽ: một là thời giờ ít ỏi, v́ c̣n phải lo sinh sống cho gia đ́nh; hai là chú Lăng Nghiêm đă dài, lại thêm chữ âm vận, trắc trở khó đọc, khó thuộc. Nhưng nếu cư sĩ nào có thể học hết các thần chú, tŕ tụng được như chư Tăng th́ càng tốt. 

3. Các hiệu Phật thường niệm: Đức Phật nào cũng đủ cả 10 hiệu, đồng một tâm toàn giác, từ bi vô lượng, phước trí vô biên, thương chúng sanh vô cùng vô tận, nên chỉ niệm danh hiệu một Đức Phật nào cũng đều được cảm ứng đến tất cả Chư Phật, công đức cũng đều vô lượng vô biên. 

Nhưng đứng về phương diện tŕnh độ và hoàn cảnh mà luận, th́ hiện nay, chúng ta là người ở thế giới Ta Bà, nhằm quốc độ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giáo hóa, lẽ cố nhiên chúnng ta phải niệm danh hiệu của Ngài. Dụ như dân chúng ở trong nước nào, phải nhớ nghĩ đến ơn nhà cầm quyền chính trị sáng suốt ở trong nước đó. 

Nếu Tín đồ nào tu theo pháp môn Tịnh Độ, th́ thường ngày phải niệm danh hiệu Đức Phật A-Di-Đà. Pháp môn này được thành lập do lời dạy sau đây của Đức Phật Thích Ca: "Ở cơi thế giới Ta Bà này, đến thời kỳ mạt pháp, cách Phật lâu xa, chỉ có pháp "Tŕ danh niệm Phật", cầu văng sanh về Tây phương cực lạc là quốc độ của Đức Phật A-Di-Đà, th́ dễ tu dễ chứng hơn hết". Ngoài ra, cũng có người niệm danh hiệu Đức Phật Di-Lặc, để cầu sanh về cơi trời Đâu Xuất; hoặc niệm danh hiệu Đức Phật Dược Sư, để cầu cho khỏi tật bệnh. 

Tóm lại, tín đồ phải niệm đủ Tam thế Phật: 

a) Niệm Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là niệm Đức Phật hiện tại, cũng là Đức Phật Giáo chủ của chúng ta. 

b) Niệm Đức Phật A-Di-Đà, là niệm Đức Phật đă thành từ quá khứ xa xưa, mà cũng là Đức Phật tiếp dẫn chúng ta về Cực Lạc. 

c) Niệm Đức Phật Di-Lặc, là niệm Đức Phật vị lai. 

IV. Lợi Ích Của Sự Tụng Kinh - Tŕ Chú - Niệm Phật 

1. Lợi ích của sự tụng kinh: Những lời giáo hóa trong ba tạng kinh điển của Phật, đều toàn là những lời hiền lành, sáng suốt do ḷng từ bi và trí tuệ siêu phàm của Phật nói ra. Kinh Phật, v́ thế, có phần siêu việt hơn tất cả những lời lẽ của thế gian. Nếu chúng ta chí tâm tŕ tụng, chắc chắn sẽ được nhiều lợi ích cho ḿnh, cho gia đ́nh và những người chung quanh: 

a) CHO M̀NH: Lúc tụng niệm, hành giả đem hết tâm trí chí thành đặt vào văn kinh để khỏi sơ suất, nên sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư không c̣n móng lên mười điều ác nữa, mà chỉ ghi nhớ những lời hay, lẽ phải. 

b) CHO GIA Đ̀NH: Trước khi sắp sửa tụng kinh, những người trong nhà đều dứt các câu chuyện ngoài đời và khách hàng xóm đến ngồi lê đôi mách cũng tự giải tán. Trong gia đ́nh nhờ thế được thanh tịnh, trang nghiêm, ḥa thuận. 

c) CHO NGƯỜI CHUNG QUANH: Trong những lúc đêm thanh canh vắng, lời tụng kinh trầm bỗng theo với tiềng mơ nhịp đều, tiếng chuông ngân nga, có thể đánh thức người đời ra khỏi giấc mê, đưa lọt vào tai kẻ lạc lối những ư nghĩa thâm huyền, những lời khuyên dạy bổ ích, chứa đựng trong kinh mà hành giả đang tụng. 

Như vậy rơ ràng tụng kinh chẳng những có lợi ích cho ḿnh, cho gia đ́nh, mà c̣n cho những người chung quanh nữa. Đó là mới nói những điều ích lợi thông thường có thể thấy được, ngoài ra tụng kinh c̣n có những điều lợi ích, linh nghiệm lạ thường, không thể giải thích được, ai tụng sẽ tự chứng nghiệm mà thôi. 

2. Lợi ích của sự tŕ chú: Các thần chú tuy không thể giải nghĩa ra được, nhưng người chí tâm thọ tŕ, sẽ được công hiệu thật là kỳ diệu, khó có thể nghĩ bàn, như người uống nước ấm, lạnh th́ tự biết lấy. Có thể nói: một câu thần chú, thâu gồm hết một bộ kinh, v́ vậy, hiệu lực của các thần chú rất phi thường. Khi gặp tai nạn, nếu thực tâm tŕ chú, th́ mau được giải nguy. Như thuở xưa, Ngài A-Nan mắc nạn, Đức Phật liền nói thần chú Lăng Nghiêm, sai ngài Văn Thù Sư Lợi đến cứu, th́ Ngài A-Nan liền được thoát nguy. 

Ngày nay có nhiều trường hợp mà người thành tâm niệm chú thấy được hiệu nghiệm rơ ràng. Theo lời bác sĩ Thiện Thành nói lại, th́ vào năm 1946, giữa lúc loạn ly, bác sĩ ở trong một vùng rừng sâu, núi hiểm tại Trung Việt. Một lần bác sĩ bị một chứng bịnh nan y, mặc dù lương dược Đông, Tây sẵn có trong tay, cũng không làm sao trị được. Bác sĩ tưởng sẽ bỏ ḿnh trong xóm người sơn cước, không ngờ lúc c̣n ở dưới mái nhà cha mẹ, thường đêm nghe thân phụ tŕ chú "Công Đức Bảo Sơn", bác sĩ liền đem thần chú ấy ra áp dụng. Trong lúc ấy, các người nuôi bệnh cũng xúm lại hộ niệm cho bác sĩ suốt đêm. Sáng hôm sau, quả thật bác sĩ lành mạnh trở lại một cách dễ dàng, làm cho tất cả các bạn đồng nghiệp đều ngạc nhiên. 

3. Lợi ích của sự niệm Phật: Niệm Phật công đức lại c̣n to lớn hơn nữa, v́ một câu niệm Phật có thể gồm thâu cả 3 tạng kinh điển, hết thảy thần chú, cùng là các pháp viên đốn, như tham thiền, quán tưởng v.v... 

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có dạy rằng: "Sau khi Phật nhập diệt, về thời kỳ mạt pháp, đến kiếp hoại, các kinh sẽ bị tiêu diệt hết, chỉ c̣n kinh Di-Đà lưu truyền lại độ trăm năm rồi cũng diệt luôn. Lúc bấy giờ chỉ c̣n một câu niệm Phật gồm 6 chữ "Nam mô A-Di-Đà Phật", mà đủ năng lực đưa chúng sanh về cơi "Cực-Lạc". 

Lời Phật nói không sai, bằng chứng là có nhiều nhân vật chuyên tŕ một câu niệm Phật, mà biết được ngày giờ và thấy được điềm lành trước khi văng sanh. Như Tổ Huệ Viễn, trong 10 năm niệm Phật, 3 lần thấy Đức Di-Đà rờ đầu; trong hội Liên xă, có 123 người chuyên tu phép "Tŕ danh niệm Phật", đều lần lược được Phật rước về cơi Tịnh Độ. Gần đây ở Nam phần Việt Nam, vào năm 1940, có 3 vị sĩ quan Pháp là Đại úy Touffan, Trung úy Retourna, Thiếu úy Brillant đồng lái một chiếc thuỷ phi cơ bay từ đảo Côn Lôn về Sài g̣n. Giữa đường, chiếc phi cơ hư, rơi xuống biển. Thiếu úy Brillant (người Pháp lai Việt) niệm Phật cầu cứu. Chiếc thủy phi cơ lửng thửng trên mặt biển suốt 3 giờ, mới gặp một chiếc tàu đánh cá của người Nhật đến cứu. Khi 3 vị vừa bước sang tàu, th́ chiếc phi cơ ch́m ngay xuống biển. Ai nấy đều lấy làm lạ, hỏi nhau: Tai sao khi năy có 3 người ngồi nặng, phi cơ lại nổi, mà bây giờ không có người nó lại ch́m ngấm? Chỉ có thiếu úy Brillant mới giải thích được sự lạ lùng ấy. Ông kể lại cho mọi người nghe sự linh ứng của pháp niệm Phật mà ông thường áp dụng và lần nầy là lần thứ hai ông được thoát nạn nhờ phép niệm Phật ấy. Đại úy Touffan và trung úy Retourna hết ḷng tin tưởng, nên khi về đến Saigon, hai vị sĩ quan ấy chung nhau một số tiền, cất một cái am đẹp đẽ ở Cát lái, làng Thạnh Mỹ Lợi, tỉnh Gia Định để thờ Phật gọi là tỏ ḷng tri ân. Đây chỉ là một câu chuyện trong muôn ngàn câu chuyện về sự lợi ích của phép niệm Phật. 

C. Kết Luận 

Khuyên Phật Tử Tụng kinh Niệm Phật Và Tŕ Chú Cả Sự Lẫn Lư Cho Được Viên Dung. Tụng kinh, tŕ chú, niệm Phật là 3 phương pháp tu hành gồm đủ cả Sự và Lư. Dù tại gia hay xuất gia, dù tiểu thừa hay Đại thừa, tiêu cực hay tích cực, không ai có thể rời 3 phương pháp này được. Bởi thế, Phật tử cần phải học tụng kinh, niệm Phật và tŕ chú cho Sự, Lư đi đôi, lời nói và việc làm phù hợp, mới có được kết quả tốt đẹp. 

Ba pháp môn tụng kinh, tŕ chú, niệm Phật, tuy không đồng mà kết quả đều thù thắng. Phật tử có thể tùy theo tŕnh độ, hoàn cảnh của ḿnh mà tu một, hai hay cả ba pháp ấy. Thí dụ như người biết chữ và mạnh khoẻ, công ăn việc làm hằng ngày không bận rộn lắm, th́ nên tụng kinh, tŕ chú, niệm Phật đủ cả ba pháp môn. C̣n người tuổi già, sức yếu, mắt mờ, răng rụng, miệng lưỡi phều phào, thân thể mỏi mệt, nếu tụng kinh, tŕ chú không nổi, th́ phải chuyên tâm niệm Phật, đi đứng nằm ngồi, lúc nào cũng phải niệm Phật. Nhưng các Phật tử nên nhớ, khi miệng tụng kinh, tŕ chú, niệm Phật, tay gơ mơ, đánh chuông, lần chuỗi, th́ tâm trí phải gột rửa hết bao ư nghĩ bất chính, những ham muốn đê hèn và tạc vào đấy h́nh ảnh của Đấng Từ Bi. Rồi phải noi gương Ngài, mở ḷng thương rộng lớn, nghĩ đến nỗi thống khổ của muôn loài và phát nguyện đem sức ḿnh ra, ban vui cứu khổ cho tất cả. Đến khi thôi tụng niệm, trở lại tiếp xúc việc đời, th́ phải làm thế nào cho những hành động của ḿnh cũng được từ bi như tư tưởng và lời nói của ḿnh vậy. 

Người tụng kinh tŕ chú và niệm Phật, làm đúng như thế, th́ chắc chắn sẽ được chứng quả Thánh không sai.

 

*******************************************************

Bài Thứ 9 

Ăn Chay 

A. Mở Đề 

Ăn Chay Là Một Phương Pháp Tu Hành Của Người Phật Tử

Vấn đề ăn uống là một vấn đề quan trọng đối với tất cả mọi người, mọi chúng sanh. Nếu sống mà không cần ăn, th́ tất cả chúng sanh đều thành Thánh cả rồi. Đức Phật Thích Ca, khi c̣n là một vị Thái Tử, đă nói một câu đầy ư nghĩa: "Sự sống sống bằng sự chết". Hăy nghĩ lại mà xem: từ khi lọt ḷng mẹ đến bây giờ, để được sống, mỗi chúng ta đă làm chết bao nhiêu sinh vật rồi? Chúng ta ăn, chúng ta uống, chúng ta thở, chúng ta nằm, chúng ta đứng, chúng ta đi, mỗi mỗi động tác như thế, đều đă gây bao tang tóc cho những sinh vật ở chung quanh chúng ta! Đó là chưa kể những kẻ hung ác, giết để được thích thú, được tiền tài, danh vọng...Nếu sự sống mà không làm ai chết cả, th́ cuộc đời sẽ đẹp đẽ biết bao nhiêu! Sự ước ao này có thể thực hiện được một phần lớn, nếu chúng ta áp dụng phương pháp ăn chay mà Phật đă chế ra. 

Như thế, ăn chay đối với người Phật tử không phải là một sự hiếu kỳ, một sự hiếu danh, một cách đổi món ăn cho ngon miệng, một cách kiêng cữ theo lời dặn của bác sĩ. Ăn chay chính là một phương pháp tu hành rất quan trọng, mà người Phật tử thực hành được nhiều chừng nào th́ được nhiều kết quả tốt đẹp chừng ấy. 

B. Chánh Đề 

I. Định Nghĩa 

Ăn chay, hay ăn lạt, nghĩa là ăn những loài thảo mộc: hoa quả, rau cải, không ăn những món ăn thuộc loài động vật như thịt, cá, tôm, cua, ṣ, ốc những vật hữu t́nh, biết tham sống sợ chết như người. 

II. Lư Do Ăn Chay 

1. V́ ḷng từ bi và b́nh đẳng:

Khi đức Phật c̣n tại thế, một hôm Ngài A Nan hỏi Phật rằng: 

- Bạch Phật, tại sao trước kia, Phật cho các Đệ tử ăn ngũ tịnh nhục (Ngũ tịnh nhục là năm thứ thịt thanh tịnh: a) Thịt ăn mà không thấy người giết; b) Thịt ăn mà ḿnh không nghe tiếng con vật bị giết kêu; c) Thịt ăn mà ḿnh không nghĩ người ta giết cho ḿnh; d) Thịt con thú tự chết; đ) Thịt con thú khác ăn c̣n dư mà nay Ngài lại cấm tuyệt ăn thịt cá? 

Phật trả lời Ngài A Nan: V́ tŕnh độ các ông trong buổi sơ cơ c̣n thấp kém, chưa có thể lănh thọ giáo pháp Đại Thừa, thực hành đúng lư đặng, nên khi ta c̣n nói pháp Tiểu Thừa, phương tiện cho các ông tạm dùng ngũ tịnh nhục. Đến nay tŕnh độ các ông đă cao, lănh thọ được giáo pháp Đại Thừa, nên ta cấm tuyệt ăn thịt cá. C̣n ăn thứ ấy, th́ c̣n phạm giới sát sanh, nếu không trực tiếp sát th́ cũng gián tiếp sát, làm mất hạt giống từ bi b́nh đẳng, không thể nào tu hành thành Phật được. 

Lời Phật dạy đă rơ ràng: Ăn chay là cốt yếu để nuôi dưỡng ḷng từ bi và tinh thần b́nh đẳng. 

Thật thế, Phật tử là người đă theo đạo từ bi, th́ không lư nào lại không thực hành đức từ bi trong đời sống của ḿnh từ ư nghĩ, lời nói, cho đến cách ăn uống. 

Nếu chúng ta v́ muốn ăn cho khoái khẩu, sướng bụng, mà nhẫn tâm nh́n cảnh chặt đầu, lột da những con vật hiền lành vô tội, nhẫn tâm bịt tai giả điếc trước những kêu la thảm thiết của những con vật đang giẫy giụa trêm tấm thớt, trên bàn thịt, th́ sao được gọi là Phật tử. 

Nếu không có một ḷng thương xót trước những cảnh giết chóc như thế, th́ hạt giống từ bi mỗi ngày mỗi héo khô, cằn cỗi và công phu tu hành, tụng kinh niệm Phật của chúng ta trở thành vô ích. 

Đạo Phật là đạo Từ Bi mà cũng là đạo B́nh Đẳng. Phật dạy: "Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh như nhau". Vậy th́ người Phật tử dưới tầm con mắt của ḿnh, không nên thấy Người và vật khác nhau, mà chỉ đồng một tri giác b́nh đẳng, ẩn trong thân h́nh sai biệt. Nói rằng: "Vật dưỡng nhân" là một quan niệm rất sai lầm, do sự ích kỷ và ngạo mạn của người sinh ra. Quan niệm ấy dung túng cho người ta thẳng tay giết hại sanh vật và tạo ra một t́nh trạng bất b́nh đẳng, th́ không bao giờ cơi đời có thể yên ổn, ḥa b́nh được. 

2. V́ muốn tránh quả báo luân hồi:

Phật dạy: "Tất cả chúng sanh từ vô thuỷ đến nay, cứ tạo nhân tội ác, sát hại ăn thịt lẫn nhau, nên bị ác quả, là sanh tử luân hồi măi trong sáu đường". Kinh Lăng Nghiêm nói: "Hễ giết một mạng th́ hăy trả lại một mạng; tâm giết hại chẳng dứt trừ, th́ không thể nào ra khỏi trần lao được." Vậy muốn tránh oan báo luân hồi, tránh các điều tội lỗi thuộc về giới sát. Phật tử phải ăn chay. Nếu ăn mặn hoài th́ không thể nào hết nợ thân mạng và nợ xương thịt, máu huyết được. 

3. V́ hợp vệ sinh:

Không phải mới từ nay mà từ ngàn xưa, một triết gia, ông Senèque, đă nói rằng: "Mỗi bữa ăn, người ta dùng thịt là tự đầu độc, thành thử con người tự sát ngấm ngầm mà không hay biết, do đó con người bị mạng yểu, chết sớm". Thật thế, ngày nay những nhà y khoa bác sĩ trứ danh như ông Soteyko, Varia Kiplami có nói: "Trong các thứ thịt, có nhiều chất độc rất nguy hiểm cho sức khỏe con người". Bằng chứng cụ thể là rau cải để lâu ngày th́ héo khô, hoặc ung bấy mà ít hôi; c̣n thịt cá để lâu ngày th́ śnh, ương, hôi tanh không ai chịu nổi và khi ăn vào, ta thấy trong người rất nặng nề, mệt nhọc, khó tiêu. Hơn nữa, các loài thú vật, thường mắc bệnh này hay bệnh khác như: bệnh lao, bệnh thương hàn, bệnh sán, sên v.v..., nếu chúng ta ăn vào, sẽ vướng bệnh, rất nguy hiểm. 

Để tránh những bệnh tật và tăng sức khỏe, chúng ta nên ăn nhiều rau củ. Các nhà khoa học, cũng như các nhà y học Đông, Tây đều công nhận đồ ăn chay là nhẹ nhàng, thanh khiết, dễ tiêu hóa và có nhiều sinh tố rất bổ. Bởi thế, ở nước Nhật có hội "Tổ Thực Chủ Nghĩa", ở Pháp, Đức, Anh, Mỹ đều có "Thảo Mộc Thực Hội". 

Có nhiều người có thành kiến sai lầm rằng: ăn thịt cá, mới có đủ sức mạnh. Thật ra, người ăn thịt không có sức mạnh và sức chịu nhọc dẻo dai bằng người ăn chay trường. Chính Giáo sư Irwin Fischer ở Đại học đường Yale, sau nhiều cuộc thí nghiệm, đă long trọng tuyên bố rằng: “Ăn thịt hay ăn những vật có nhiều chất đạm, sẽ làm cho con người không đủ sức chịu nhọc, không khác nào như người uống rượu”. 

Bà White, một bác học gia cũng đă tuyên bố rằng: “Các thứ hột, các thứ trái cây, đậu và rau củ là những thức ăn mà thiên nhiên đă dành để nuôi chúng ta. Các thức ăn ấy nấu nướng một cách giản dị, th́ rất hợp vệ sinh và rất bổ. Nó làm cho thân thể tráng kiện, tinh thần sáng suốt và tránh biết bao nhiêu bệnh tật”. 

III. Cách Thức Ăn Chay 

1. Chương tŕnh ăn chay:

Mặc dù sự ăn chay đối với người Phật tử là một điều cần thiết, một phương pháp tu hành nhưng muốn được lợi ích thiết thực, cần phải có phương pháp và áp dụng một cách tuần tự theo căn cơ và sở nguyện của ḿnh. Trước tiên, không phải người Phật tử nào cũng có thể bỏ hẳn ngay tập quán ăn mặn của ḿnh để ăn chay. V́ thế, trong đạo có chia làm hai loại: ăn chay kỳ và ăn chay trường. 

a) Ăn chay kỳ: Ăn chay kỳ là ăn có kỳ hạn nhất định trong mỗi tháng hay mỗi năm: 

Nhị trai: Ăn 2 ngày chay trong mỗi tháng vào ngày mồng một và rằm âm lịch. 

Tứ trai: Ăn 4 ngày chay trong tháng: mồng một, mồng tám, rằm và hăm ba. 

Lục trai: Ăn sáu ngày chay trong tháng là: mồng một, mồng tám, mồng bốn, rằm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chín và ba mươi (nếu tháng thiếu th́ 27, 28, 29). 

Nhất nguyệt trai: Là ăn một tháng chay vào tháng giêng hay tháng bảy. 

Tam nguyệt trai: Là ăn ba tháng chay: Tháng giêng, tháng bảy và tháng chín (hay tháng mười); hoặc ăn liên tiếp trong ba tháng. 

Nếu tập ăn chay kỳ trong một thời gian mà không gặp một phản ứng nào về thân, tâm và nhận thấy có lợi ích, th́ nên lần đến ăn chay trường. 

b) Ăn chay trường: Ăn chay trường hay trường trai là ăn toàn chay luôn trong mỗi ngày, không gián đoạn cho đến hết đời. 

Nếu mỗi ngày, phát tâm không ăn sau 12 giờ trưa, th́ gọi là ngọ trai. 

2. Phương pháp thực hành:

a) Chọn lựa thay đổi thức ăn: Để ăn cho được lâu dài và không ngán, chúng ta nên chọn những món ăn có nhiều sinh tố, bổ dưỡng như: cà chua, rau muống, đậu nành, nấm rơm, cải bắp, khoai tây, nếp lức v.v...và những món ăn cũng phải thay đổi luôn.

Vậy trong một bữa ăn, cần phải ăn những món ǵ để bữa ăn có đầu đủ chất bổ và ngon miệng? Dưới đây là vài bữa ăn kiểu mẫu: 

Trái cây cùng ăn với cơm hay bắp, bột ḿ và rau, cải, đậu phụng rang. 

Sữa tươi cùng ăn với trái cây ngọt và cơm, bắp hay bột ḿ. 

Các món ăn chính nói trên là cần thiết, nhưng cũng cần thêm gia vị như hột cải cay, tiêu ớt, giấm v.v...để giúp bộ máy tiêu hóa làm việc dễ dàng. Nhưng nếu dùng gia vị quá nhiều thành ra có hại, như làm cho bộ máy tiêu hóa nóng, sinh bệnh hay làm kích thích cơ thể. 

b) Cách nấu: Thức ăn là cần thiết nhưng cách nấu cũng quan trọng; chúng ta đừng có quan niệm sai lầm là đă ăn chay th́ nấu thế nào cũng được cả, không cần thiết là phải quan tâm đến. Nếu thức ăn bổ mà không biết cách nấu, th́ cũng làm cho nó hết bổ và có khi làm hại bộ máy tiêu hoá nữa. Dưới đây là vài điều nên nhớ trong khi nấu ăn: 

Không nên chiên xào nhiều quá, v́ sinh tố B và C sẽ bị dầu sôi tiêu diệt và các món có nhiều dầu làm cho bao tử mệt. 

Nên ăn đồ nướng, nhất là nướng không có thoa dầu. 

Khi nấu hay luộc phải nên đậy nắp để sinh tố khỏi bị mất và nên đổ ít nước để chất bổ khỏi loăng. Và nước luộc ấy rất tốt, không nên đổ đi, v́ nó chứa rất nhiêu chất bổ và sinh tố. 

c) Giảm thịt cá dần dần trong những ngày ăn mặn. Đối với những người ăn chay kỳ th́ khi ăn mặn, nên mua những vật người ta làm sẵn, hoặc làm giảm bớt số lượng thịt cá, ăn nhiều rau cải, sữa, tạm dùng trứng gà, trứng vịt không tượng con. 

Khi đă tinh tấn về mặt tinh thần, không nên ăn trứng gà, trứng vịt, v́ trứng cũng là một sanh vật sắp nảy nở. 

3. Những điều cần tránh:

a) Không nên kiêu mạn: Người có phúc duyên ăn chay được dễ dàng, không nên sanh ḷng kiêu mạn, tự cho ḿnh là hơn người và khinh người ăn mặn. Làm như thế đă sanh ác cảm với người mà lại c̣n làm tổn âm đức của ḿnh nữa. 

b) Không nên háo danh: Có người mới bước vô đường đạo, đă ăn trường trai ngay, cốt để người khác khen ngợi. Ăn chay như thế là do ḷng háo danh mà ra; hạnh động này không có lợi cho sự tu hành mà lại c̣n có hại, khi không c̣n ai khen ngợi nữa, th́ không thấy hứng thú để tiếp tục ăn chay nữa. 

c) Không nên ép xác: Có người tưởng lầm rằng ăn chay là để hành hạ thân xác, nên cố ăn một cách cực khổ, như chỉ ăn ṛng ră tương rau, muối sả...từ năm này sang năm khác. Ăn như thế th́ sẽ hao ṃn thân xác và chết yểu trước khi thành đạo. 

d) Không nên giả mặn: Có nhiều bà nội trợ muốn trổ tài khéo léo của ḿnh bằng cách nấu chay mà giả mặn, rồi đặt tên món ăn mặn, hay làm ra những h́nh thức giống như đồ mặn. Thí dụ như: củ hủ cao, củ hủ dừa kho mà gọi là cá tra kho; bắp chuối luộc trộn giấm và rau răm, lại đặt tên thịt gà xé phay; bí đao xắt mỏng cặp gắp nướng ăn với bánh hỏi mà lại đặt tên là thịt ḅ lụi v.v.... 

Như thế, là đă vô t́nh xúi giục người ăn chay nghĩ đến món mặn, miệng ăn rau dưa, mà ḷng tưởng nhớ đến thịt cá, làm tṛ cười cho thế gian. 

đ) Không được quên ngày chay: Không nên khinh thường quên những ngày chay mà ḿnh đă phát nguyện, dù gặp trường hợp bất thường như đi lỡ đường, làm việc quá buổi, lúc đói quá mà không có sẵn thức ăn chay. 

e) Không nên dùng ngũ vị tân: Ngũ vị tân là: hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ không nên dùng, v́ các thứ này đă hôi, lại có nhiều chất kích thích ḷng dục vọng. 

IV.Lợi Ích Của Sự Ăn Chay 

1. Phương diện cá nhân:

Những lới ích của sự ăn chay đối với cá nhân rất lớn lao. Người ăn chay không những thâu hoạch được những lợi ích trong hiện tiền mà cả trong đời sống tương lai nữa. 

a) Trong hiện tại, người ăn chay được hưởng lợi ích sau đây: 

Tiết kiệm được tài chánh, v́ đồ ăn chay rẻ hơn đồ ăn mặn. 

Tiết kiệm được ngày giờ và công lao nấu nướng, v́ mướp, dưa, bầu bí, khoai...cắt rửa mau và ít tốn nước; và kho kho, luộc, nấu nướng lại mau chín, ít hao củi. 

Thân thể được mạnh khỏe; tinh thần được nhẹ nhàng, trong sạch; trí tuệ được minh mẫn dễ tu thiền quán. 

b) Trong đời sau không chịu quả báo giết hại, nên không phải trả nợ máu thịt, khỏi phải thường mạng. Nếu trở lại làm người, th́ được trường thọ. 

2. Phương diện xă hội, nhân loại, chúng sanh:

Ăên chay không những có lợi ích cho cá nhân, mà c̣n cho xă hội, nhân loại, chúng sanh nữa. Nếu ai ai cũng ăn chay th́ thế giới Ta Bà này làm ǵ có tiếng rên siết v́ chết oan của loài vật và tiếng than thở, đau đớn của người v́ nạn tương tàn, tương sát. 

Một nhà Bác học có nói: "Muốn thế giới ḥa b́nh, bắt đầu trong bữa ăn con người phải không có một chút máu hay một miếng thịt cá nào cả". 

Câu nói đầy đạo đức này cũng đồng một ư nghĩa với câu nói của Cổ nhân: 

"Nhất thế chúng sanh vô sát nghiệp, 

Hà sầu thế giới động đao binh". 

(Nếu tất cả chúng sanh không sát hại lẫn nhau, th́ sợ ǵ thế giới có giặc giă). 

Người ăn chay là một chiến sĩ của Ḥa b́nh. Thật vậy người ăn chay, với một tâm từ bi vô lượng, coi muôn loài là ḿnh, ḿnh là muôn loài, không giết hại sanh vật để thỏa măn dục vọng, không bao giờ nỡ tâm tàn sát đồng loại để đạt mục đích lợi danh. 

Nếu trong xă hội, ai ai cũng ăn chay, th́ đâu có những chuyện gây gổ, đánh đập nhau, như chúng ta thường thấy hằng ngày. 

Nếu trong một nước, ai ai cũng ăn chay th́ không có chuyện mạnh hiếp yếu, khôn lấn dại, chém giết lẫn nhau để thỏa ḷng dục vọng. 

Nếu trong thế giới, ai ai cũng ăn chay, th́ thế giới này là Cực lạc thế giới. 

C. Kết Luận 

Mọi Người Dù Phật Tử Hay Không Đều Nên Ăn Chay 

Như chúng ta đă thấy ở các đoạn trên, xét về phương diện khoa học hay Phật học, về phương diện cá nhân hay đoàn thể, về hiện tại hay tương lai, sự ăn chay đều có rất nhiều lợi ích. 

V́ vậy, những người không phải là Phật tử , nếu muốn thân thể được mạnh khỏe, tinh thần được khinh an, trí tuệ được minh mẫn để học tập; nếu muốn tiết kiệm được tài chánh, công lao, thời giờ, nếu muốn gia đ́nh được ḥa thuận yên vui, th́ hăy mau mau làm quen với những thức ăn chay. 

C̣n những ai đă là Phật tử , đă nguyện theo bước chân của đức Từ phụ, th́ phải thực hành phép ăn chay, để ḷng Từ bi được mở rộng, tinh thần b́nh đẳng được lan xa, trí tuệ được tỏ ngộ, đạo quả được chóng viên thành. 

Vẫn biết, nói d mà làm khó; nhưng một người tiến bộ và có thiện chí, khi đă thấy rơ những điều lợi ích, th́ dù khó bao nhiêu cũng quyết thực hành cho được. Sự thực hành ấy không phải làm ngay trong một lần, mà phải tuần tự tiến bước. 

Nếu chúng ta biết áp dụng phép ăn chay đúng như những cách thức đă nói ở trên, th́ thiết tưởng không có ǵ là khó lắm. Điều quan trọng nhâùt là chúng ta thật có thiện chí hay không mà thôi. 

 

*******************************************************

Bài Thứ 10  
Bát Quan Trai Giới

A. Mở Đề 

Đức Phật Thích Ca nói pháp gần 50 năm, có đến 84.000 pháp môn, vô lượng diệu nghĩa. Mặc dù giáo pháp nhiều như thế, nhưng không ngoài ba môn chính là "giới, định, huệ". 

Trong "giới, định, huệ", th́ giới là phần quan trọng, là phần căn bản. Nhờ giới, tâm mới định, tâm có định, huệ mới phát sanh, huệ có phát sanh mới dứt trừ được vô minh phiền năo; vô minh phiền năo có dứt trừ mới minh tam kiên tánh và thành Phật. Nhưng giới cũng có nhiều thứ: có thứ cao, thứ thấp, có thứ áp dụng cho hàng xuất gia, có thứ cho hàng tại gia. Trong hàng xuất gia, th́ Sa di chỉ giữ 10 giới, Tỳ kheo giữ 250 giới, Tỳ kheo ni đến 348 giới. Về phía tại gia th́ có Tam quy, Ngũ Giới, Bát quan trai giới, Bồ Tát giới, Tam quy Ngũ Giới, th́ chúng ta đă học rồi; Bồ Tát giới th́ khó khăn hơn, chúng ta sẽ học sau. Bây giờ đây, chúng tôi chỉ nói đến Bát quan trai giới. 

B. Chánh Đề 

I. Định Nghĩa 

Bát quan trai giới là một phép tu hành của người tại gia áp dụng trong một ngày một đêm (24 giời). 

Chữ "Quan" là cửa, cửa ngăn chặn 8 điều tội lỗi. Chữ "Trai", tiếng Phạn là Posadha, nghĩa là khi đă qua giờ ngọ (12 giờ trưa) không được ăn nữa. Vậy "Bát quan trai giới" là sự giữ ǵn cho thân tâm được thanh tịnh trong 24 tiếng đồng hồ bằng cách ngăn chặn 8 điều tội lỗi sau đây: 

1. Không được sát sanh 
2. Không được trộm cướp 
3. Không được dâm dục 
4. Không được nói dối 
5. Không được uống rượu 
6. Không được trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và xem múa hát. 
7. Không được nằm ngồi giường cao rộng đẹp đẽ 
8. Không được ăn quá giờ ngọ 

II. Giải Rơ Tám Điều Ngăn Cấm Nói Trên 

1. Không được sát sanh

a) Ư nghĩa v́ sao không được sát sanh: 

Chúng sanh mặc dù h́nh dáng có khác nhau, nhưng cùng có một điểm quan trọng giống nhau là tham sống, sợ chết, biết đau khổ vui mừng. Không cần phải dẫn chứng cho xa xôi, ngay trong sự quan sát hằng ngày, chúng ta cũng nhận thấy: cá thấy người cá lội xa, chim thấy người chim bay cao, cũng như người thấy cọp người lẩn trốn, v́ đều sợ lâm nguy đến tính mạng cả. Khi bị bắt, chim, cá hay người đều vùng vẫy để trốn thoát. Và khi được thả ra, thoát chết, chao ôi! C̣n ǵ sung sướng cho bằng! Nhận thấy được sự tham sống sợ chết, nỗi vui mừng, đau xót của muôn loại như thế, mà chúng ta c̣n đang tâm giết hại sanh mạng, th́ thật lạ nhẫn tâm, tàn ác vô cùng. 

Từ trước đến nay, loài người đă giết hại rất nhiều, bằng đủ phương tiện, nào làm lưới để bắt cá dưới nước, dùng cung tên súng đạn để bắt cầm thú trên đất...và nhất là dùng đủ mưu mô kế hoạch để giết hại chém giết lẫn nhau. Về phía thiện, th́ có nhiều người cũng thiện vô cùng; nhưng về phía ác, th́ cũng nhiều người ác vô cùng. 

Chúng ta là Phật tử, nghĩa là những người theo đạo Từ bi. Chúng ta cần phải cố gắng đừng sát hại sinh vật và nhất là đừng sát hại người. Về sự sát hại người, trong Ngũ Giới Phật đă tuyệt đối cấm chỉ và chúng ta cũng đă phát nguyện giữ giới ấy. Nhưng về sinh vật, v́ một số Phật tử c̣n ăn mặn, nên chưa tuyệt đối giữ được giới sát. Vậy ít ra trong ngày thọ Bát quan trai, chúng ta hăy tuyệt đối giữ giới ấy. Chúng ta không giết người, không trù tính mưu mô giết người, đă đành, chúng ta cũng nên động ḷng trước sanh mạng của tất cả mọi loài hữu h́nh. Hơn nữa, nếu thấy ai có ư giết hại sinh vật, chúng ta phải khuyên lơn ngăn cản đừng cho người ta thi hành ác ư ấy. 

Được như thế là ta giữ được trọn vẹn giới sát, mặc dù chỉ trong một ngày đêm, nhưng lợi ích sẽ lớn lao vô cùng cho việc tu hành của chúng ta. 

2. Không được trộm cướp

Hai chữ trộm cướp ở đây có một ư nghĩa vô cùng. Những vật thuộc quyền sở hữu của người ta, từ vàng, bạc, châu báu, đất ruộng nhà cửa, cho đến đồ đạc, cây kim sợi chỉ, cọng rau, người ta không cho mà ḿnh lấy, là trộm cướp. Lường thăng tráo đấu, đo thiếu lấy thừa, đi làm trễ giờ, bóc lột công nhân, lấy của công, ăn hối lộ, được của người không trả lại, đều là trộm cướp. 

Người đời coi tiền của hơn tánh mạng, trèo non, lặn suối, lo mưu này tính kế nọ để làm ra tiền nuôi thân và gia đ́nh và để dành dụm pḥng khi đau ốm, tai nạn. Nếu rủi bị mất tiền của do mồ hôi nước mắt mà có, người ta vô cùng đau khổ, tuyệt vọng có khi đến quyên sinh. Chúng ta cũng đă có nhiều khi đau buồn v́ mất của, th́ xét người khác cũng vậy. Chúng ta không muốn ai trộm cướp của ḿnh, th́ tất nhiên ḿnh cũng không nên trộm cướp của ai. Đó là lẽ công bằng rất giản dị. Huống chi chúng ta là Phật tử, nghĩa là những người quyết tâm diệt trừ tham dục, để được giải thoát, th́ lẽ nào ta lại lấy của phi nghĩa? 

Trong cuộc đời tranh đấu hằng ngày để sống, có nhiều khi chúng ta không giữ được một cách tuyệt đối giới cấm này, chẳng hạn, chúng ta làm ít mà cố đ̣i lương cho cao, bán hàng xấu với giá cao, mưu tính chước này kế nọ để được lợi nhiều một cách thiếu chính đáng...Có khi chúng ta nhận thấy như thế là bất chính, nhưng tự bào chữa rằng v́ sự sống của gia đ́nh, thân thuộc mà phải làm như thế. 

Nhưng trong ngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hăy quyết không trộm cướp đă đành, mà cũng không được để cho một ư nghĩ tham lợi móng lên trong tâm. Chúng ta không trộm cướp, không nghĩ đến sự trộm cướp, mà thấy ai trộm cuớp hay nảy ra ư trộm cướp th́ chúng ta cũng khuyên can họ, ngăn ngừa không cho họ làm bậy. Không những không trộm cướp và ngăn ngừa sự trộm cướp, chúng ta c̣n bố thí cho những người nghèo khổ, thiếu ăn thiếu mặc, t́m cách giúp đỡ những người thân thuộc, trong cảnh túng thiếu. 

Giữ được giới này một cách tuyệt đối, th́ dù thời gian ngắn ngủi trong 24 giờ đồng hồ, chúng ta cũng đă gieo được những nhân lành tốt đẹp cho sự tu hành của chúng ta. 

3. Không được dâm dục

Dâm dục là cái nghiệp nhân sanh tử luân hồi, nên người xuất gia phải đoạn hẳn. Phật dạy rằng: "Người muốn đoạn trừ sanh tử, chứng quả Niết bàn mà không trừ hẳn dâm dục, th́ không khác kẻ nấu cát sạn mà muốn cho thành cơm, dù ra công đem nấu, trải qua năm ngàn kiếp cũng không thành cơm được". 

Vậy những Phật tử xuất gia, muốn thành Phật quả th́ phải trừ dâm dục. 

C̣n những Phật tử tại gia, chưa có thể hoàn toàn đoàn trừ dâm dục được, th́ Phật chỉ cấm tà dâm, nghĩa là ngoài vợ chồng, không được lan chạ; và giữa vợ chồng, cũng cần phải giữ chánh lễ, biết tiết dục để cho thân tâm được trong sạch nhẹ nhàng. 

Nhưng đây là nói về ngày thường của Phật tử tại gia. Chứ đến ngày thọ Bát quan trai giới, th́ tuyệt đối phải giữ giới tịnh hạnh, không được hành động dâm dục đă đành, mà cũng không được nhớ nghĩ đến những điều dâm dục. 

Nếu triệt để giữ đúng giới này, th́ dù chỉ trong 24 giờ đồng hồ, lợi ích cũng rộng lớn vô cùng, v́ chúng ta đă có dịp để gieo nhân tịnh hạnh là một nhân rất quư báu trong sự tu hành diệt dục. 

4. Không được nói dối

Nói dối là tâm nghĩ miệng nói trái nhau. Nói dối có 4 cách, mà chúng ta đă có học rồi trong bài Ngũ Giới. Đó là: nói không thật, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác. 

Chúng ta đă thấy, hằng ngày trong đời, tai hại của sự nói dối. Tai hại lớn nhất là làm mất ḷng tin cậy nhau. Trong một gia đ́nh mà không tin nhau, th́ gia đ́nh sẽ tan nát; trong một xă hội mà không tin nhau, th́ xă hội sẽ điêu tàn. 

Trong đời sống hằng ngày chúng ta chưa có thể hoàn toàn giữ giới này được, th́ trong ngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hăy triệt để thực hành giới cấm này. Chúng ta không nói sai, không nói thêu dệt, không nói hai chiều, không nói lời hung ác đă đành; chúng ta lại c̣n khuyên răn những người chung quanh giữ đúng giới không nói láo ấy! 

Nếu thực hành triệt để giới cấm này, th́ dù chỉ trong một ngày đêm, chúng ta cũng đă gieo được một hột nhơn quư báu rất hiếm có trong đời này là: ḷng chân thật. 

5. Không được uống rượu

Rượu làm say mê, tối tăm trí năo người uống. Nó c̣n nguy hiểm hơn cả thuốc độc, v́ thuốc độc uống vào chết ngay, song chỉ giết chết một đời người thôi; chớ rượu làm cho người cuồng tâm, mất trí, gây nên nhièu tội lỗi, chết đi sanh lại, luân hồi nhiều kiếp trong tối tăm si ám. 

Bởi thế, trong Kinh, Phật dạy: "Thà uống nước đồng sôi cho tan mất thân này, chứ không nên uống rượu". 

Chúng ta là Phật tử , nghĩa là những người đang trau dồi Trí tuệ để được sáng suốt như Phật, chúng ta không được uống rượu. Chúng ta không uống rượu đă đành, mà cũng không khuyên mời người uống rượu. Tự ḿnh uống rượu tội c̣n nhẹ, chớ khuyên mời người khác uống, tội lại nặng hơn. 

Song, trong lúc đau ốm, nếu lương y bảo phải có rượu ḥa với thuốc uống mới lành bệnh, th́ chúng ta cũng được tạm dùng. Khi đó rượu trở thành một vị thuốc, chứ không phải là một vị làm cho trí năo ta cuồng loạn nữa. 

Đấy là nói về ngày thường, chứ trong ngày thọ "Bát quan trai giới", chúng ta phải trừ tuyệt rượu, không được uống đă đành, mà c̣n khuyên răn người khác đừng uống nữa. 

6. Không được trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và đi xem múa hát

Năm giác quan: tai, mắt, mũi, lưỡi, thân là năm cửa ngơ, có thể mở đường cho chúng ta đến cảnh giới Niết Bàn hay vào địa ngục. Nếu chúng ta biết mở năm cánh cửa ấy về nẻo thanh tịnh, nghe những lời hay lẽ phải, thấy những điều thiện, điều lành, ngửi những mùi thơm tinh khiết, đạo vị, th́ con đường đến Niết Bàn, giải thoát không xa. Trái lại, nếu chúng ta hướng những cánh cửa giác quan ấy vào cơi ô trọc, mở rộng chúng cho tội lỗi ùa vào, nào nghe tiếng du dương luyến ái của dục vọng, thấy cảnh trụy lạc, dâm ô, ngửi mùi vị say nồng, kích thích dục lạc, th́ con đường địa ngục đă sẵn sàng mở rộng để đón chờ chúng ta. 

Phật cấm Phật tử trang điểm, tô sơn trét phấn, xức ướp dầu thơm, múa hát lả lơi, quyến rũ, hay cấm đi xem những cảnh múa hát ấy, là v́ muốn cho chúng ta khỏi đọa vào địa ngục. 

Nhưng trong đời sống hằng ngày của người Phật tử tại gia, v́ c̣n tiếp xúc với đời sống xă hội, nên phải ăn mặc tề chỉnh trang nghiêm, đôi khi cũng phải đi dự những buổi ḥa nhạc, hay múa hát, nhưng là những thứ âm nhạc, những điệu múa hát có tánh cách trong sạch, xây dựng và hướng thiện. Nhưng trong hiện tại, các thứ nghệ thuật: kịch nhạc, ca, vũ, cải lương, chiếu bóng… phần nhiều có tánh cách trụy lạc, thoái hóa, chúng ta nên đề pḥng, đừng quá dễ dăi mà sa vào ṿng tội lỗi. 

Trên đây là nói trong ngày thường, chứ ngày thọ giới Bát quan trai, chúng ta nhất định không được trang điểm, xức ướp dầu thơm, múa hát hay đi xem múa hát. Hơn nữa, chúng ta phải cố gắng diệt trừ những âm hưởng, bóng dáng của những thứ nghệ thuật không lành mạnh, trong đầu óc chúng ta. 

Được như thế, th́ tuy thời gian chỉ ngắn ngủi có 24 giờ, ảnh hưởng tốt đẹp của nó vô cùng quư báu cho sự tu hành của chúng ta. 

7. Không được nằm ngồi giường cao đẹp, rộng lớn

Điều răn cấm này cũng như điều răn cấm thứ sáu, có mục đích ngăn ngừa thân xác ta, không cho buông lung theo những cảm giác mơn trớn khoái lạc của giường cao nệm tốt, chăn ấm màn êm. V́ những cảm giác này có thể kích thích ḷng ham muốn bất chính của xác thân, tạo điều kiện cho chúng ta gây tội lỗi, nên Phật chế ra giới cấm này. Xưa Ngài Ngộ Đạt Quốc sư là một bực cao đức, được vua Ư Tôn và vua Hy Tôn hết sức ưu đăi. Vua Ư Tôn cúng cho Ngài một bảo tọa bằng trầm hương rất quư báu. Từ khi được bảo tọa ấy, Ngộ Đạt Quốc Sư mống niêm danh lợi, thành ra thất đức, phải chịu nhiều tai vạ và đau khổ. 

V́ hiểu rơ cái tai hại của giường cao chiếu rộng, chăn ấm nệm êm, nên xưa Ngài Hiếp Tôn Giả từ khi xuất gia, lưng không nằm chiếu; Ngài Cao Phong Diệu thiền sư lập nguyện: ba năm không nằm giường chơng; đức Phật Thích Ca , trong khi xuất gia t́m đạo, đă gối cỏ nằm sương, từ năm này sang năm khác... 

Noi gương người xưa, các vị xuất gia chỉ nằm trên một cái giường nhỏ hẹp, vừa ngủ, chứ không bao giờ dùng giường rộng nệm cao. Kẻ tại gia cũng nên tập dần đức tánh giản dị đạm bạc ấy. Nếu chưa làm được trong ngày thường, th́ ngày thọ giới Bát quan trai, cũng phải triệt để thi hành giới thứ bảy này. 

8. Không được ăn quá giờ ngọ

Trong luật Phật dạy: "Chư thiên ăn sớm mai, Phật ăn giờ ngọ, súc sanh ăn sau giờ ngọ, ngạ quỷ ăn tối, chư Tăng học theo Phật, phải ăn đúng giờ ngọ". 

Ăn đúng giờ ngọ, được năm điều lợi sau đây: 

Ít mống tâm sai quấy 
Ít buồn ngủ 
Dễ được nhất tâm 
Ít hạ phong 
Thân được yên ổn và ít sanh bệnh

Trừ một vài trường hợp như khi đau ốm, luật cũng châm chước cho được ăn cơm cháo sau giờ ngọ, nhưng khi ăn phải sanh ḷng hổ thẹn. 

V́ những lợi ích thiết thực nói trên, nên người xuất gia cần phải thực hành. C̣n Phật tử tại gia, khi tu Bát quan trai giới cũng phải giữ đúng giới này. 

C. Kết Luận 

1. Lợi ích của Bát quan trai giới rất lớn lao

Như chúng ta đă thấy ở các đoạn trên, Bát quan trai giới là một phát tu vô cùng lợi ích cho Phật tử tại gia. Trong thời gian tu hành ấy, thân, khẩu, ư của người thọ giới được hoàn toàn thạnh tịnh, tuy chỉ có 24 giờ đồng hồ, nhưng 24 giờ ấy c̣n quư báu hơn cả một đời của người không tu hành. Tuy lượng rất ít, mà phẩm lại nhiều vô cùng. Nó chỉ là giọt nước, nhưng là một giọt nước trong sạch hoàn toàn, cho nên nó c̣n quư hơn cả một ao nước đục bùn nhơ, nó chỉ là một viên ngọc nhỏ xíu, nhưng đó là viên ngọc Ma ni, nên nó c̣n quư hơn trăm ngàn châu báu khác. 

Chúng ta hăy phân tích một cách rơ ràng những lợi ích mà chúng ta đă thu hoạch được trong 24 giờ ấy mà xem. 

Nhờ giới thứ Nhất, tâm ta không có ác ư giết hại sanh vật, miệng ta không nhai nuốt những máu huyết tanh hôi, thân ta không nặng nề v́ thịt cá. Đối với chung quanh, ta không làm cho người và súc vật đau khỏ, mất thân mạng. 

Nhờ giới thứ Hai, tâm ta không động, ư ta không tham lam, thân ta không mang nặng những vật phi nghĩa. Đối với người chung quanh, ta không làm họ đau khổ v́ mất của cải mà họ đă nâng niu, quư trọng. 

Nhờ giới thứ Ba, tâm ta được thanh tịnh, thân ta khỏi ô uế. Đối với người bạn trăm năm, cùng những người chung quanh, ta giữ đúng lề, làm cho họ kính trọng. 

Nhờ giới thứ Tư, tâm ta không tà vạy, lưỡi ta không dối trá, điêu ngoa. Đối với người chung quanh, ta giữ được chữ tín, làm mọi người khỏi lo sợ, nghi ngờ v́ ta. 

Nhờ giới thứ Năm, tâm ta được minh mẫn, miệng ta không nồng nặc hơi men, thân ta không loạn động. Đối với người chung quanh, ta không làm cho họ phải lo sợ, khổ sở v́ con ma men này hành hạ. 

Nhờ giới thứ Sáu, tâm ta không buông luông theo dục lạc, ta không dung chứa những h́nh ảnh, mùi vị, âm thanh tà tạp, dâm ô...Đối với người chung quanh, ta không làm cho họ phải tập nhim những cảm giác không trong sạch, không thanh thoát. 

Nhờ giới thứ Bảy, tâm ta không mống lên những niệm danh lợi, xa hoa; thân ta không bị dục lạc lôi cuốn. Đối với người chung quanh, ta dễ gần gũi, thân cận, v́ không bị cái cao sang, phù phiếm bên ngoài ngăn cách. 

Nhờ giới thứ Tám, tâm ta được định tỉnh, sáng suốt, thân ta nhẹ nhàng, ít bệnh tật; đối với các loài chung quanh, như người nghèo đói, ngạ quỷ, súc sinh, ta không gây ra sự thèm khát, v́ sự lục lạo ăn uống về đêm. 

Bao nhiêu sự lợi ích cho ḿnh và cho người mà chúng ta đă thâu thập được trong khoảng 24 giờ đồng hồ, thử hỏi có một pháp tu hành của người tại gia nào quư báu hơn thế nữa? 

2. Bởi vậy Phật tử nên thực hành Bát quan trai giới. 

Phật tử tại gia mặc dù suốt ngày suốt tháng bận bịu về sinh kế làm ăn, mỗi tháng cũng nên sắp xếp việc nhà, vào chùa thọ Bát quan trai giới một vài lần. Nếu hoàn cảnh thuận lợi, có thể thọ được nhiều lần lại càng tốt. 

Nếu không đủ điều kiện đến chùa, th́ phương tiện của nhà tu cũng được, nhưng lợi ích không bằng đến chùa. 

Vậy xin khuyên các Phật tử tại gia, nên cố gắng thực hành y như lời Phật dạy, tu theo hạnh giải thoát, rồi khuyên nhiều người thật hành theo, để cùng nhau tiến bước lên đường giải thoát, an vui !

 

Ḥa Thượng Thích Thiện Hoa 

 

*******************************************************

PHỤ BÀI SỐ 10 

NGHI THỨC THỌ BÁT QUAN TRAI GIỚI 

Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới th́ thứ lớp rất nhiều. 

Ngoài trường hợp trên, nếu không có thuận tiện để cầu thầy truyền cho, th́ phương tiện tự ḿnh đối trước tượng Phật, theo phép như sau đây mà tự thọ. 

Một điều cốt yếu, trước khi thọ giới, giới tủ phải sắp đặt chuyện nhà có người thay thế, không c̣n lo nghĩ việc ǵ ở thế gian cả, để cho tâm trí yên tịnh, như thế th́ 24 giờ thọ giới mới được nhiều lợi ích. Muốn được lợi ích nhiều, giới tủ nên vào chùa thọ Bát quan trai giới tốt hơn. 

Trước khi thọ giới, phải rửa tay, rửa mặt, súc miệng sạch sẽ, mặc áo tràng tề chỉnh, đến trước bàn thờ Phật , thắp ba cây hương rồi qú xuống, đọc bài cúng hương: 

BÀI CÚNG HƯƠNG 

Nguyện thử diệu hương vân 

Biến măn thập phương giới 

Cúng dường nhứ thiết Phật 

Tôn Pháp chư Bồ Tát 

Vô biên Thinh Văn chúng 

Cập nhứt thiết Thánh Hiền 

Duyên khởi quang minh đài 

Xứng tánh tác Phật sự 

Phổ huân như chúng sanh 

Giai phát Bồ đề tâm 

Vin ly chư vọng nghiệp 

Viên thành Vô thượng đạo 

(Xá 3 xá, tiếp đọc bài khẩn nguyện) 

BÀI NGUYỆN 

Tư thời Đệ tử (tên họ ǵ) pháp danh (pháp danh ǵ) kim nhật qui đầu Tam Bảo, phát nguyện thọ tŕ Bát quan trai giới, nhất nhật nhất dạ. Duy nguyện thập phương chư Phật , chư Đại Bồ Tát, Hộ pháp thiện thần, từ bi gia hộ Đệ tử thân tâm thanh tịnh, Phật sự viên thành. 

(Xá đứng dậy cắm hương xướng l)

Nhứt tâm đảnh lễ, tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, Thường trú Tam Bảo (1 lạy). 

Nhứt tâm đảnh lễ, Ta Bà Giáo chủ, Điều ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy). 

Nhứt tâm đảnh lễ, Lạc bang Giáo chủ, Đại từ, Đại Bi tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bố Tát, Đại Nguyện Địa Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chung Bồ Tát. (1 lạy) 

(Đứng dậy chắp tay tụng bài Chú Đại Bi)

CHÚ ĐẠI BI

Nam mô Đại bi hội thượng Phật Bồ Tát. (3 lần). 

Thiên thủ thiên nhăn vô ngại Đại bi tâm đà la ni. 

Nam mô hắc ra đác na đa ra dạ da. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế, thước bà ra da, bồ đề tát đóa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. 

Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đác tả. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. 

Nam mô na ra cẩn tŕ hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tất bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế. di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn tŕ, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dủ nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn tŕ, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê gia ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn tŕ bàn dà ra dạ ta bà ha. Ma bà lợi thắng kiết ra dạ ta bà ha. 

Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ gia. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế, thướt bàn ra dạ ta bà ha. Án tát diện đô mạn đa ra, bạt đà dạ ta bà ha. 

Nam mô thập phương thường trụ Tam Bảo (3 lần). 

(Qú xuống chắp tay đọc bài Sám hối ) 

       BÀI SÁM HỐI 

Đệ tử đă làm các nghiệp ác, 
Đều do vô thuỷ Tham, Sân, Si, 
Từ thân, miệng, ư mà sanh ra 
Tất cả Đệ tử xin sám hối. 
(Đọc 3 lần rồi đứng dậy) 

Nam mô Cầu sám hối Bồ Tát Ma ha tát 

(3 lần, lạy 3 lạy) 

(Lạy xong qú xuống chắp tay đọc bài phát nguyện thọ Bát quan trai giới) 

BÀI PHÁT NGUYỆN THỌ GIỚI 

MỘT LÀ GIỮ GIỚI KHÔNG SÁT SANH 

Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không sát hại các loài sanh vật. Tự ḿnh không sát hại, không bảo người sát hại, hoặc thấy người khác sát hại cũng không sanh tâm vui mừng. (1 xá) 

HAI LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG TRỘM CƯỚP 

Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không trộm cướp của cải mọi người. Tự ḿnh không trộm cướp, không bảo người trộm cướp, hoặc thấy người khác trộm cướp, cũng không sanh tâm vui mừng. (1 xá) 

BA LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG DÂM DỤC 

Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không phá phạm hạnh (không dâm dục). Tự ḿnh không phá phạm hạnh, không bảo người phá phạm hạnh, hoặc thấy người khác phá phạm hạnh cũng không sanh tâm vui mừng.(1 xá) 

BỐN LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG NÓI DỐI 

Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không nói dối. Tự ḿnh không nói dối, không bảo người nói dối, hoặc thấy người khác nói dối, cũng không sanh tâm vui mừng. (1 xá) 

NĂM LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG UỐNG RƯỢU

Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không uống rượu. Tự ḿnh không uống rượu, không bảo người uống rượu, hoặc thấy người khác uống rượu, cũng không sanh tâm vui mừng. (1 xá) 

SÁU LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG TRANG ĐIỂM VÀ CA HÁT 

Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không đeo bông, xoa hương, ca xướng, múa hát. Tự ḿnh không trang điểm ca hát, không bảo người trang điểm ca hát, hoặc thấy người khác trang điểm ca hát, cũng không sanh tâm vui mừng. (1 xá) 

BẢY LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG NẰM NGỒI GIƯỜNG CAO TỐT 

Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không nằm ngồi giường cao tốt. Tự ḿnh không nằm ngồi giường cao tốt, không bảo người nằm ngồi giường cao tốt, hoặc thấy người khác nằm ngồi giường cao tốt, cũng không sanh tâm vui mừng. (1 xá) 

TÁM LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG ĂN PHI THỜI 

Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không ăn phi thời. Tự ḿnh không ăn phi thời, không bảo người ăn phi thời, hoặc thấy người khác ăn phi thời, cũng không sanh tâm vui mừng. (1 xá) 

(Đứng dậy xướng ba lần) 

Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh

Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát nhă Ba la Mật đa thời, chiếu khiến ngũ ẩn giai không , độ nhứt thiết khổ ách. 

Xá Lợi Tử, Sắc bất dị không , không bất dị sắc, sắc tức thị không , không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị. 

Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diẹt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhăn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ư; vô sắc, thinh, hương, vị xúc, pháp; vô nhăn giới, năi chí vô ư thức giới; vô Vô minh, diệc vô Vô minh tận, năi chí vô lăo tử, diệc vô lăo tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Bồ đề tát đỏa y Bát nhă Ba la mật đa cố Tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, vin ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật , y Bát nhă Ba la mật đa cố đắc A Nậu Đa đa Tam miệu tam Bồ đề. 

Cố tri bát nhă Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư: 

Cố thuyết Bát nhă Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: "Yết đế yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha". 

VĂNG SANH THẦN CHÚ 

Nam mô A di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa điệc dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ can lan đế, a di rị đa tỳ can lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (3 lần) 

TIÊU TAI KIẾT TƯỜNG THẦN CHÚ 

Nẳng mồ tam măn đa mẫu đà nẩm. A bát ra đề, hạ đa xá ta nản nẩm, đác điệc tha. Án khê khê, khê hế, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến đề ca, thất rị duệ, ta bà ha. (3 lần) 

          HỒI HƯỚNG 

Thọ giới công đức thù thắng hạnh, 
Vô biên thẳng phước giai hồi hướng, 
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh, 
Tốc văng Vô lượng quang Phật sát. 
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền năo, 
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liu, 
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ, 
Thế thế thường hành Bồ Tát đạo. 
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung, 
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu, 
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh, 
Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ. 
Nguyện dĩ thử công đức, 
Phổ cập ư nhứt thiết, 
Ngă đẳng giữ chúng sanh, 
Giai cọng thành Phật đạo. 

Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.( 1 lạy) 

Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy) 

Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lư đại chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy) 

(Xá 3 xá lui ra) 

NGHI THỨC THỌ TRAI 

Ngồi tề chỉnh, tay trái co ngón giữa, ngón áp, con ba ngón dựng thẳng, để chén cơm lên; tay mặt kiết ấn cam lồ (ngón cái bên tay phải đề lên ngón áp) để dựa ngang phía trong miệng chén rồi xướng: 

Cúng dường Thanh tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật. 

Viên măn báo thân Lô Xá Na Phật. 

Thiên bá ức hóa thân Thích Ca Mâu Ni Phật. 

Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật. 

Thập phương tam thế nhứt thiết chư Phật. 

Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. 

Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát. 

Đại Bi Quán thế âm Bồ tát. 

Chư Tôn Bồ Tát Ma ha tát. 

Ma ha Bát nhă ba la mật. 

Tam đức, lục vị, cúng Phật cập Tăng pháp giới hữu t́nh, phổ đồng cúng dường, nhược phạn thực thời, đương nguyện chúng sanh thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung măn. 

(Cúng dường rồi để bát xuống) 

XUẤT SANH: 

Lấy cái chén nhỏ múc chút nước, để trong ḷng bàn tay trái, gắp bảy hột cơm để trong chén; tay mặt kiết ấn cam lồ, đặt trên chén cách một tấc, mặc niệm: 

Pháp luật bất tư ngh́, 

Từ bi vô chướng ngại, 

Thất liệp biến thập phương, 

Phổ trí châu sa giới, 

Án, độ lợi ích tóa ha. (7 lần) 

Tay bắt ấn viết bóng hai chữ "Án lam" rồi khảy móng tay trên chén ba lần, đưa thị giả đem ra trước, để trên một cái bàn nhỏ, đọc kệ chú: 

Đại bàng kim sí điểu, 

Khoáng đă quỉ thần chúng, 

La sát quỉ tử mẫu, 

Cam lồ tất sung măn. 

Án, mục lực lăng tóa ha. (7 lần) 

BƯNG CHÉN CƠM 

Hai tay, mỗi tay co hai ngón sau, c̣n sáu ngón bưng chén cơm ngang trán, đọc thầm: 

Chấp tŕ ứng khí đương nguyện chúng sanh, thành tựu pháp thí thọ thiên nhơn cúng. 

Án, chỉ rị, chỉ rị phạ nhật ra hồng phấn tra. (3 lần) 

TAM ĐỀ 

(Ăn ba miếng đầu tiên) 

Miếng thứ nhất (niệm thầm): 

Nguyện đoạn nhứt thiết ác. 

Miếng thứ hai (niệm thầm) 

Nguyện tu nhứt thiết thiện 

Miếng thứ ba (niệm thầm) 

Thệ độ nhứt thế chúng sanh 

Trong khi ăn phải tưởng năm pháp tướng này: 

Nhứt kế công đa thiểu, lượng bỉ lai xứ. 

Nhị thổn kỷ đức hạnh toàn khuyết ứng cúng. 

Tam pḥng tâm ly quá, tham đẳng vi tông. 

Tứ chánh sự lương dược, vị liệu h́nh khô. 

Ngũ vị thành đạo nghiệp, phương thọ thử thực. 

TƯỚC DƯƠNG CHI 

(Ăn cơm xong xỉa răng đọc chú này) 

Tước đương chí thời, đương nguyện chúng sanh thân tâm đều tịnh, phệ chư phiền năo. 

Án, a mộ dà di ma lệ, nhĩ phạ ca ra, tăng du dad nể, bát đầu na, câu ma ra, nhĩ phạ ca ra tăng thâu đà da, đà ra đà ra, tố di ma lệ, tá phạ ha (3 lần) 

ẨM THỦY KỆ CHÚ 

(Uống nước đọc chú nầy) 

Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng, nhược bất tŕ thử chú, như thực chúng sanh nhục. 

Án phạ tất ba ra, ma ni tá ha. (3 lần) 

TRAI KỆ CHÚ 

(Ăn cơm uống nước xong tụng chú nầy) 

Nam mô tát đa nẩm, tam miệu tam bồ đà, câu chi nẩm, đát điệt tha. Án chiếc lệ, chủ lệ chuẩn đề ta bà ha. (7 lần) 

Sở vị bố thí giả, tất hoạch kỳ lợi ích, nhược vị lạc bố thí, hậu tất đắc an lạc. 

Phạn thực dĩ ngật, đương nguyện chúng sanh, sở tác giai biện cụ chư Phật Pháp. 

PHỤC NGUYỆN 

Thân phi nhứt lũ, thường tư chức nữ chi lao; nhật thực tam xang, mỗi niệm nông phu chi khổ. Phổ nguyện hiện tiền tứ húng phước huệ song tu, một hậu đắc Di Đà thọ kư; âm siêu dương thới, pháp giới chúng sanh tề thành Phật đạo. 

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT 

(Lược trích nghi thức thọ trai này để cho các Phật tử tại gia dùng, trong khi thọ Bát quan trai) 

NGHI THỨC XẢ BÁT QUAN TRAI GIỚI 

Sau 24 giờ đồng hồ (đúng như giờ ngọ giới), người thọ giới thỉnh Giới sư lên chùa ngồi một bên. người thọ giới lạy giới sư một lạy rồi ngồi xuống cháp tay lạy rằng: 

"Đại đức môỉt ḷng nghĩ, con pháp danh là...đă nguyện thọ Bát quan trai giới, giữ trọn một ngày đêm. Bạch Đại đức ! Nay con xdin xả giới". 

(Bạch xong, lạy một lạy lui ra) 

Nếu không có giới sư, tự ḿnh làm l xả giới th́ nên theo nghi thức sau nầy. 

Đến trước Tam Bảo, thắp hương ngùi xuống khẩn nguyện: 

Pháp vương Vô thượng quan 

Tam giới voo luân thất, 

Thiên nhơn chi Đạo sư, 

Tứ sanh chi Từ phụ, 

Ư nhất niệm quy y, 

Năng diệt tam kỳ nghiệp, 

Xưng dương nhược tán thán, 

Ước kiếp mạc năng tận 

Tư thời đệ tử (tên họ ǵ) Pháp danh (pháp danh ǵ) ư nhất nhật nhất dạ, phát nguyệ thọ tŕ Bát Quan trai giới, công huan dĩ mạn, ngụyen lực châu toàn,. Ngụyen thạp phương chư Phật, chư đại Bồ tát, chư đại thiên thần, từ bi gia hộ, đệ tử sanh sanh đắc phùng Phật pháp, đắc trị thiện duyên, cập thiết nhất chúng sanh đồng thành Phật đạo.(1xá, đứng dậy) 

Nam Mô Hộ giới tạng bồ tát Ma ha tát 

(xướng ba lần, lạy ba lạy) 

(Đứng dậy tụng Bát nhă) 

Ma ha Bát nhă Ba la mật đa tâm kinh

Quán tự tại Bồ tát, hành thâm Bát nhăBa la mật đa thời, chiếu kiến ngũ ẩn giai không, đọ nhất thiết khổ ách. 

Xá Lợi Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, thọ, tưởng, hành, thức diẹn phục như thị. 

xá Lợi Tử ! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cảu bất tịnh, bất tăng bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhăn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ư; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô giăn giới, năi chí vô ư thứcgiới; vô vô minh tận năi chí vô lăo tử diệc vô lăo tử tận vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo; vô Trí diệt vô Đắc, dĩ vô sỡ đắc cố. Bồ Đề tát đỏa y Bát nhă Ba la mật da cố tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, vin ly điên đảo mộng tưởng, cứu cách Niất Bàn. Tam thế chư y bát nhă ba la mật đa cố, đắc a nậu Đa La tam miệu tam bồ đề. Cố tri Bát nhă Ba la mật đa thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẵng đẵngchú, năng trừ thiết nhất khổ, chơn thiệt bất hư; cố thuyết Ba la mật đa chú. 

Tức thuyết chú viết: 

"Yết yết đế, Ba la yết đế, 

Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát ba ha" 

VĂNG SANH THẦN CHÚ 

Nam mô A di đa bà dạ, đa tha đà tha dạ, đa diệc dạ tha, a di rị đô bà t́, a di rị đa tất tam bà t́, a di rị đa ŕ ca lan đế, a di rị da t́ ca lan đa, dà di nị, dfà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha (3 lần) 

              TÁN PHẬT 

A Di Đà Phật thân kim sắc 

Tướng hảo minh quang vô đẳng luân, 

Bạch hào uyển chuyển ngũ tu Di, 

Cám mục trừng danh tứ đại hải, 

Quang trung hóa Phật vô số ức, 

Hóa Bồ tát chúng diệc vô biên, 

Tứ thập bát nguyện chúng sanh, 

Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn. 

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế giới Đại Từ Đại Bi, tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật. 

Nam Mô A Di Đà Phật (108 lần) 

Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát (10 lần) 

Nam Mô Đại thế chí Bồ tát (10 lần) 

Nam Mô Thanh tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát (10 lần) 

(Quỳ xuống chắp tay đọc bài Phổ Hiển hạnh nguyện) 

Đệ tử chúng đẳng, tùy thuận tu tập, 

Phổ Hiền Bồ Tát, thập chuẩn đại nguyện: 

Nhất giả lễ kính chư Phật, 

Nhị gỉa xứng tan Như Lai, 

Tam giả quản tu cúng dường, 

Tứ giả sám hối nghiệp chướng 

Ngũ giả tùy hỷ công đức, 

Lục giả thỉnh chuyển pháp luân, 

Thất giả thỉnh Phật trụ thế, 

Bát giả thường tùy Phật học, 

Cửu giả hằng thuận chúng sanh, 

Thập giả phổ giai hồi hướng. 

THẤT PHẬT DIỆT TỘI CHÔN NGÔN 

Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tùy lê nể đế, ma ha da đế, chơn lăng càng đế ta bà ha. (3 lần) 

Nguyện dĩ thử công đức 

Trang nghiêm Phật Tịnh Độ, 

Thượng báo tứ trọng ân, 

Hạ tế tam đồ khổ, 

Nhược hữu kiến văn giả, 

Tất phát Bồ đề tâm, 

Tận thử nhất báo thân, 

Văng sanh An Lạc sát. 

(Đứng dậy xướng lạy) 

Đệ tử đại vị nhất thiết sư trưởng ân, chí tâm đảnh l, Nam Mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiêỉn, vị lai, thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo. (1 lạy) 

Đệ tử đại vị nhất thiết Phụ mẫu ân, chí tâm đảnh l, Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư ThíchCa MâuNi Phật, Long Hoa Giáo chủ Đương Lai Hạ sangh Di Lạc Tôn Phật, Đại trí Văn thù Sư Lơị Bồ tát, Linh sơn hội thượng Phật Bồ tát. (1 lạy) 

Đệ tử đại vị tam đồ thọ khổ; cập pháp giới nhất thiết chúng sanh, chí tâm đảnh l , Nam mô Tây phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi tiếp dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Aâm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Liên Tŕ Hải Hội Phật Bồ Tát. (1 lạy). (xá 3 xá, lui) 

KỶ LUẬT TU BÁT QUAN TRAI GIỚI TRONG 24 GIỜ 

1. Không được ra ngoài phạm vi đại giới 
(trong vườn chùa, hoặc vườn nhà ḿnh) 
2. Không nên tiếp khách và nói chuyện lớn tiếng. 
3. Bớt nói chuyện, không ăn trầu và hút thuốc. 
4. Oai nghi cử chỉ phải giữ ǵ cẩn thận. 
5. Phải giữ đúng giờ tu tập. 
6. Không nên nghĩ đến việc nhà hoặc việc thế tục. 
7. Phải nhất tâm niệm Phật. 

Những ngày thọ Bát Quan Trai giới, tùy theo hoàn cảnh của mỗi người, trong mỗi tháng thọ 1 ngày cho đến sáu ngày: mồng 8, 14, 23, 29, 30 (tháng thiếu th́ 28 và 29). Nếu người mắc làm việc th́ thọ ngày chủ nhật cũng được. Nếu Phật tử mỗi lần phát nguyện tu trong 24 giờ, giữ trai giới cho thanh tịnh th́ công đức ấy về sau sẽ được quả Niết Bàn. 
 

CHƯƠNG TR̀NH TU BÁT QUAN TRAI GIỚI  
TRONG MỘT NGÀY MỘT ĐÊM (24 GIỜ) 

BUỔI MAI : 6 giờ sáng Thọ giới 
BUỔI MAI : 7 giờ Ăn điểm tâm 
BUỔI MAI : 8 giờ Sám hối 
BUỔI MAI : 9 giờ Xem Kinh 
BUỔI MAI : 10 giờ Niệm Phật 
BUỔI MAI : 12 giờ Thọ Trai 
BUỔI MAI : 12 giờ 30 Kinh hành niệm Phật 

BUỔI CHIỀU : 1 giờ 30 Chỉ tịnh (nghỉ) 
BUỔI CHIỀU : 3 giờ Tụng Kinh 
BUỔI CHIỀU : 4 giờ Xem Kinh 
BUỔI CHIỀU : 5 giờ Niệm Phật 
BUỔI CHIỀU : 6 giờ Dùng nước 
(sữa hoặc nước cháo) 

BUỔI TỐI : 7 giờ Tịnh độ 
BUỔI TỐI : 8 giờ Học 
BUỔI TỐI : 10 giờ 15 Quán sổ túc 
BUỔI TỐI : 10 giờ 40 Nghỉ 
BUỔI TỐI : 4 giờ khuya Tịnh Niệm (Niệm Phật ) 
BUỔI TỐI : 4 giờ 30 Công phu 
BUỔI TỐI : 6 giờ Làm lễ xả giới

Hộ Tŕ Sáu Căn Mỗi Phút Mỗi Giây Đi Đứng Nằm Ngồi Tâm Chánh Niệm ! ... Trau Giồi Ba Học Khi Cười Khi Nói Vào Ra Tiếp Xúc Tướng Đoan Nghiêm ! ... Chúng Sanh Vô Biên Thệ Nguyện Độ ! Phiền Năo Vô Tận Thệ Nguyện Đoạn ! Pháp Môn Vô Lượng Thệ Nguyện Học ! Phật Đạo Vô Thượng Thệ Nguyện Thành ! ... Nguyện đem công đức này  _Hướng về khắp tất cả _Đệ tử và chúng sanh_Đều trọn thành phật đạo ! Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ! ...

Free Web Hosting